Chương 31
“Những hành khách đi tiếp...”
“Đó là tất cả những gì mình cần”, Jack nói một mình.
“Ngài cần gì, thưa ngài”, cô chiêu đãi viên hỏi.
“Quá cảnh”.
“Đích đến cuối cùng của ngài là nơi nào, thưa ngài?”
“Tôi cũng không biết nữa”, Jack nói. “Tôi có bao nhiêu lựa chọn?”
Cô chiêu đãi viên cười. “Ngài vẫn muốn đi tiếp về phương đông chứ ạ?”
“Có vẻ hay đấy”.
“Vậy thì có thể là Tokyo, Manila, Sydney hoặc Auckland”.
“Cảm ơn”, Jack vừa nói vừa nghĩ rằng thế thì có gì mà phải cảm ơn, rồi anh nói thêm, “Nếu tôi quyết định ngủ qua đêm ở Hồng Kông, tôi sẽ phải qua cửa kiểm tr.a hộ chiếu, trong khi nếu tôi muốn quá cảnh...”
Cô chiêu đãi viên tiếp tục trêu anh, “Khi xuống khỏi máy bay, thưa ngài, sẽ có những biển báo rất rõ ràng chỉ đường cho ngài tới nơi lấy hành lý hoặc phòng làm thủ tục quá cảnh. Ngài đã gửi hành lý đi thẳng tới đích, hay ngài phải đi lấy hành lý?”
“Tôi không có hành lý gì”, Jack thừa nhận.
Cô chiêu đãi viên gật đầu, mỉm cười và quay sang giúp đỡ một vài hành khách khác tỉnh táo hơn cái ông khách ngớ ngẩn này.
Jack hiểu rõ rằng khi xuống khỏi máy bay, anh phải ngay lập tức tìm được một chỗ kín đáo và thuận tiện để quan sát Anna mà không để cho người phụ nữ kia quan sát được mình.
***
Anna lơ đãng nhìn ra ngoài cửa sổ trong lúc máy bay từ từ hạ cánh xuống sân bay Chek Lap Kok.
Cô chẳng thể nào quên được lần đầu tiên mình bay tới Hồng Kông cách đây vài năm. Đầu tiên, mọi chuyện có vẻ như bình thường, rồi đến phút cuối, không hề cảnh báo trước, viên phi công cho máy bay nhào xuống và lao thẳng về phía mấy quả đồi. Rồi ông ta cho máy bay hạ cánh giữa những tòa nhà chọc trời, làm cho những vị khách lần đầu tiên đi máy bay tới Hồng Kông phải há miệng vì sợ hãi, trước khi chiếc máy bay chạm xuống đường băng ngắn lao thẳng tới khu Kowloon, như thể anh ta đang đóng một cảnh trong một bộ phim về cuộc chiến năm 1944. Khi chiếc máy bay dừng lại, một vài hành khách vỗ tay. Anna vui mừng khi biết rằng Hồng Kông đã có một sân bay mới, và điều đó có nghĩa là cô không phải chứng kiến cảnh hạ cánh rợn tóc gáy kia.
Cô nhìn đồng hồ. Cho dù máy bay chậm 20 phút, phải hơn hai giờ nữa cô mới bay tới đích tiếp theo. Trong khoảng thời gian đó, cô sẽ kiếm một cuốn sách hướng dẫn du lịch ở Tokyo, một thành phố mà cô chưa từng đặt chân tới.
Khi máy bay dừng lại, Anna chầm chậm bước dọc theo lối đi, và chờ cho những hành khách khác lấy hành lý từ các ô để hành lý trên đầu. Cô nhìn quanh, băn khoăn không hiểu người đàn ông mà Fenston phái đi có đang quan sát mình hay không. Cô cố giữ bình tĩnh, dù cho mỗi khi có một người đàn ông nào đó nhìn về phía cô, tim cô lại thót lại. Cô tin chắc rằng anh ta đã xuống máy bay và lúc này đang ngồi rình cô ở đâu đó. Thậm chí anh ta đã biết đích đến cuối cùng của cô. Anna đã quyết định cần phải tung tin như thế nào trong cuộc nói chuyện điện thoại sắp tới của cô với Tina để đánh lạc hướng hoàn toàn kẻ được Fenston phái đi.
Anna bước xuống khỏi máy bay và nhìn quanh để tìm biển báo. Ở phía cuối một hành lang dài, một mũi tên hướng dẫn các hành khách quá cảnh đi về phía tay trái. Cô bước đi cùng với một nhóm hành khách khác trong khi phần đông các hành khách đều rẽ phải.
Khi cô bước vào phòng chờ quá cảnh, cô được đón chào bởi một khu vực rực sáng ánh đèn neon như đang rình rập để moi ngoại tệ của các vị khách bị cầm tù. Anna đi từ cửa hiệu này sang cửa hiệu khác, ngắm nghía những mốt thời trang mới nhất, những thiết bị điện tử, điện thoại di động và đồ nữ trang. Cho dù cô trông thấy một vài món mà trong những hoàn cảnh bình thường chắc chắn là cô đã cầm lên xem, điểm duy nhất mà cô bước vào là một cửa hàng bán sách với đủ các loại báo và tạp chí bằng đủ thứ tiếng cùng một số cuốn sách đang bán chạy. Cô bước tới khu sách hướng dẫn du lịch, nơi có đủ các loại sách cung cấp thông tin về tất cả các quốc gia, kể cả những quốc gia xa xôi như Azerbaijan và Zanzibar.
Mắt cô dừng lại ở quầy sách về Nhật Bản, trong đó có một số cuốn về Tokyo. Cô cầm lấy cuốn sách hướng dẫn du lịch Nhật Bản mang tên Lonely Planet, cùng với một cuốn sách hướng dẫn du lịch bỏ túi về Tokyo mang tên Berlitz. Cô bắt đầu đọc lướt qua vài trang trong hai cuốn sách đó.
Jack tạt vào một cửa hàng bán đồ điện tử ở phía bên kia của khu mua sắm, nơi anh có thể nhìn rõ đối tượng của mình. Tất cả những gì anh có thể thấy là cô ta đang đứng dưới một tấm biển lớn nhiều màu sắc có đề dòng chữ Du lịch. Giá mà Jack có thể tiến lại đủ gần để nhìn rõ tựa đề của cuốn sách mà cô ta đang đọc, nhưng anh biết mình không được phép liều. Anh bắt đầu đếm các giá sách với hy vọng có thể xác định được quốc gia nào đã thu hút được sự chú ý của Anna.
“Tôi có thể giúp gì không, thưa ngài?”, một cô gái trẻ sau quầy hỏi. “Không, trừ phi cô có một chiếc ống nhòm”, Jack nói, mắt anh vẫn không rời Anna.
“Rất nhiều, thưa ngài”, cô bán hàng trả lời, “và ngài thấy mô đen này thế nào? Đây là mô đen có giảm giá đặc biệt trong tuần này. Giá cũ là 90 đôla, giá mới là 60 đôla”.
Jack nhìn quanh trong khi cô gái lấy một chiếc ống nhòm từ trên giá xuống và đặt lên mặt quầy.
“Cảm ơn”, Jack nói. Anh cầm chiếc ống nhòm lên và chĩa về phía Anna. Cô ta vẫn đang lật giở các trang sách của cuốn sách kia, nhưng Jack không nhìn rõ tựa đề của nó.
“Tôi muốn lấy mô đen mới nhất”, anh vừa nói vừa đặt trả chiếc ống nhòm có giảm giá đặc biệt lên mặt quầy. “Loại ống nhòm có thể nhìn rõ biển chỉ đường cách 100 mét”.
Cô gái bán hàng cúi xuống, mở một ngăn tủ rồi lấy ra một chiếc ống nhòm khác.
“Đây là ống nhòm hiệu Leica, tầm xa nhất, cỡ 12x50”, cô ta nói. “Ngài có thể nhìn thấy rõ nhãn hiệu trên những gói cà phê ở quầy cà phê góc kia”.
Jack chỉnh tiêu cự ống nhòm. Anna đang đặt cuốn sách mà cô vừa đọc lên giá, và cầm một cuốn sách cạnh đó lên. Jack phải đồng ý với cô bán hàng, đây đúng là loại ống nhòm rất tốt. Anh có thể nhìn thấy dòng chữ Nhật Bản và thậm chí cả dòng chữ Tokyo ở hàng sách phía trên đó. Anna gập cuốn sách lại, mỉm cười và đi về phía quầy thu ngân. Cô cầm một tờ Herald Tribune lên và đứng vào hàng chờ.
“Có tốt không, thưa ngài?”, cô bán hàng hỏi.
“Rất tốt”, Jack vừa nói vừa đặt trả chiếc ống nhòm lên mặt quầy, “nhưng tôi e là tôi không đủ tiền mua. Cảm ơn cô”, anh nói thêm trước khi bước ra khỏi cửa hiệu.
“Lạ thật”, cô bán hàng nói với bạn mình phía sau quầy. “Tớ đã nói giá với ông ta đâu”.
Anna đã đi tới đầu hàng chờ và đang trả tiền cho hai cuốn sách, cùng lúc đó Jack đang đi nhanh về phía đối diện. Anh đứng vào một hàng chờ khác ở phía cuối của đại sảnh.
Khi lên đến đầu hàng, anh hỏi mua một chiếc vé đi Tokyo.
“Vâng, thưa ngài, chuyến bay nào - Cathay Pacific hay Hàng không Nhật Bản?”.
“Khi nào máy bay cất cánh?”, Jack hỏi.
“Hàng không Nhật Bản chuẩn bị mở cửa đón khách, bởi vì máy bay sẽ cất cánh sau bốn mươi phút nữa. Chuyến bay 301 của hãng Cathay phải một tiếng rưỡi nữa mới cất cánh”.
“Cho một vé hạng thương gia”, Jack nói, “của hãng Hàng không Nhật Bản.
“Ngài có hành lý gì không?”.
“Chỉ có hành lý xách tay thôi”.
Cô gái bán vé đưa vé cho anh, kiểm tr.a hộ chiếu của anh và nói: “Mời ngài đi về phía cửa 71, máy bay sắp mở cửa đón khách ngay bây giờ”. Jack bước trở lại về phía quán cà phê. Anna đang ngồi ở gần quầy thu ngân, chăm chú vào cuốn sách mà cô vừa mua. Anh cẩn thận tìm chỗ khuất để tránh ánh mắt của cô bởi vì anh biết chắc rằng cô đã nhận ra là mình đang bị theo dõi. Những phút sau đó, Jack đi loanh quanh mua những món đồ tại vài cửa hiệu mà trong những hoàn cảnh bình thường chắc anh chẳng bao giờ đặt chân vào, chỉ là để vừa theo dõi được người phụ nữ đang ngồi trong quán cà phê kia, vừa không để cô theo dõi lại. Cuối cùng anh mua một chiếc túi ngủ mà người ta cho phép mang lên máy bay trong hành lý xách tay, một chiếc quần bò, bốn chiếc áo sơ mi, bốn đôi tất, bốn chiếc qυầи ɭót, hai chiếc caravát (loại giảm giá đặc biệt), một gói dao lam, kem cạo râu, xà bông dưỡng da, kem đánh răng và bàn chải đánh răng. Anh cứ đứng mãi trong quầy dược phẩm để chờ xem Anna sắp đứng lên chưa.
“Thông báo cuối cùng cho những hành khách trên chuyến bay 416 của hãng Hàng không Nhật Bản đi Tokyo. Xin mời quý khách tới ngay cổng 71 để làm thủ tục lên máy bay”.
Anna lật một trang sách nữa trong cuốn sách của cô, và điều đó khiến Jack hiểu rằng cô sẽ đi chuyến bay của hãng Cathay Pacific khởi hành một giờ sau đó. Lần này anh sẽ chờ cô. Anh xách gói hành lý của mình và đi về phía cửa 71. Anh là một trong những hành khách cuối cùng lên máy bay.
***
Anna nhìn đồng hồ, rồi cô gọi thêm một cốc cà phê và lại chăm chú đọc tờ Herald Tribute. Các trang báo đầy những câu chuyện về hậu quả của vụ 11/ , cùng một bài viết về lễ tưởng niệm được tổ chức tại Washington DC với sự có mặt của Tổng thống. Gia đình và bạn bè của cô tin rằng cô đã ch.ết, hoặc vẫn còn mất tích? Đã có người nhìn thấy cô tại London, và liệu cái tin ấy đã được truyền tới New York hay chưa? Chắc chắn Fenston muốn mọi người tin rằng cô đã ch.ết, ít nhất là cho tới khi ông ta đã lấy được bức Van Gogh. Tất cả điều đó sẽ thay đổi tại Tokyo, nếu - một cái gì đó đã khiến Anna ngẩng lên và cô phát hiện thấy một anh chàng có mái tóc đen, dầy đang nhìn mình chằm chằm. Anh ta vội quay mặt đi. Cô đứng lên khỏi ghế và bước lại phía anh ta.
“Anh đang theo dõi tôi à?”, cô hỏi.
Anh chàng kia nhìn Anna một cách bối rối. “Non, non, mademoiselle, mais peut-être voulez vous prendre un verre avec mois?”[ ]
[ ] Tiếng Pháp, có nghĩa là: Không, không, thưa cô, nhưng liệu tôi có thể mời cô cùng uống một ly không? (ND).
“Đây là thông báo đầu tiên cho các hành khách...”.
Có một cặp mắt dõi theo Anna khi cô xin lỗi anh chàng người Pháp kia, thanh toán tiền, và chầm chậm đi về phía cửa 69.
Krantz chỉ rời mắt khỏi Anna khi cô đã lên máy bay.
Krantz là một trong những hành khách cuối cùng lên chuyến bay CX 301. Sau khi bước vào trong máy bay, cô ta rẽ trái và ngồi vào chiếc ghế bên cửa sổ ở hàng ghế đầu như thường lệ. Cô ta biết rằng Anna đang ngồi ở đâu đó cuối các dãy ghế ở hạng tiết kiệm, nhưng cô ta không biết anh chàng người Mỹ kia đã biến đi đâu. Anh ta đã nhỡ chuyến bay, hay anh ta vẫn đang lùng sục ở Hồng Kông để tìm Petrescu?