Chương 32: Brady
Tới lúc đáp cánh, tôi hạnh phúc vì được rời khỏi máy bay tới nỗi nhảy cẫng lên, tóm chiếc túi của mình từ ngăn trên đầu, tóm cả túi của Heaven, vì ra khỏi đây càng mau, tôi càng có thể sớm tẩy hết ký ức về chuyến bay này ra khỏi đầu.
Nhấc cái túi của Heaven, tôi nghĩ mình bị thoát vị.
“Cái quái gì thế này?”, tôi rên lên. “Tại sao cái túi của cô lại nặng gấp tám chục lần hồi ở L.A.”
“Ồ… tôi mang theo một ít Jolt… cho cậu đấy.”
“Cô mang theo tất cả đấy à?”
“Không, chỉ vài lốc thôi.”
“Cảm ơn”, tôi miễn cưỡng đáp.
“Không có gì”, cô nàng hoàn toàn không biết cái túi của mình nặng cỡ nào. Hèn gì người tiếp viên giúp cô nàng đưa túi vào ngăn lúc đầu trông khá chật vật. May mà nó có bánh xe, nên chúng tôi lấy ra mà không vất vả lắm. Chúng tôi nhận lại Strummer từ khoang chở hàng. Tôi nghĩ cả tôi lẫn Heaven đều ghen tỵ với bất cứ điều kiện nào mà nó được hưởng trong chuyến bay. Thật vô tiền khoáng hậu. không thể nào tệ hơn điều mà chúng tôi đã phải chịu đựng.
Khi ra ngoài, chúng tôi giao kèo sẽ không bao giờ đổi chỗ ngồi như thế nữa. Heaven thậm chí đề nghị ngồi vị trí gần cửa sổ trong chuyến bay từ Seattle trở về New York. Miễn là tôi không nhắc tới máy bay rơi, thảm họa thiên nhiên, và – không hiểu tại sao – là cả những từ “ẩm ướt” hay “qυầи ɭót”. Tôi hỏi tại sao, cô nàng chỉ rùng mình và nói ghét những từ đó. Ít giây sau, cô nàng thêm vào danh mục từ “tán tụng”.
Chúng tôi lấy chiếc xe hơi thuê tại sân bay, và điều đầu tiên tôi làm là chuyển những lon Jolt từ túi của Heaven sang cốp xe, để tôi không bao giờ phải nâng cái túi nặng trịch ấy nữa. Chiếc xe thuộc hãng Ford Focus, màu trắng, một phiên bản nâng cấp của chiếc màu vàng gớm ghiếc chúng tôi dùng tại Los Angeles. Mà có việc quái gì với Ford Focus thế nhỉ? Có vẻ như thị trường của nó tập trung hết vào đống xe cho thuê, nhắm tới những người không đủ tiền thuê xe ấy.
Chúng tôi đang ở Seattle. Thời tiết mười bảy độ và có nắng. Không giống Seattle mưa dầm mà tôi được nghe kể gì cả. Chúng tôi sẽ ở khách sạn Ramada Inn trong thành phố. Nó khá tiện lợi, cách Trung tâm Thương mại chỉ bảy tòa nhà, cách siêu thị Pike’s cũng bảy tòa nhà, và cũng cách bảy tòa nhà so với Space Needle. Tôi cũng rất chắc chắn là nó nằm gần văn phòng của Strabucks – tôi sẽ tìm ra thôi.
Heaven và tôi nhận phòng, người thư ký tại quầy tiếp tân phấn khích đến lạ thường. Tôi hiểu rằng một phần trong việc phục vụ khách hàng là phải tỏ ra thân thiện, nhưng người phụ nữ này giống như muốn điên tới nơi.
“Tôi ở ngay đây, trông coi tại bàn. Vậy nên nếu ông bà cần thứ gì… cứ việc nhấc điện thoại, và đoán xem ai sẽ có mặt giúp đỡ nhỉ?”, Annie nói.
“Cô chứ gì?”, tôi hùa theo đùa cợt.
“Chính xác”, cô nàng gật đầu với vẻ bối rối mà tôi chẳng hiểu tại sao. Cứ làm như cô nàng sẽ có mặt ngay đó mọi lúc ấy – cả ngày lẫn đêm. Tôi nhấc điện thoại và cô nàng trả lời. Cô nàng không ngủ, cũng không ăn. Cô nàng là Annie Vui vẻ, có mặt để giúp đỡ mọi người. Tôi bắt đầu phát khiếp rồi đây, nên kéo tay áo Heaven, chúng tôi lên lầu xem phòng.
Phòng cũng bình thường. Hai giường đơn, như ở Hyatt, nhưng không có nhà hàng hay quán bar ở tầng dưới. À, có một cái, nhưng không hoàn toàn giống như cái ở Riot House. Ở đây chẳng gặp được người nổi tiếng đâu. Nhưng cũng không hề gì. Vì Howard Schultz ở Seattle. Và tôi sẽ trở thành một gã giàu có, sớm thôi.
Điện thoại reng, Heaven nhấc máy. Là Annie.
“Chào, Annie”, cô nàng nói, nhìn tôi. “Không, cho tới giờ chúng tôi thấy mọi thứ đều ổn. Được… cảm ơn nhiều!” Heaven cúp máy. “Cô nàng đó yêu công việc thật nhỉ!”
Heaven và tôi dỡ hành lý, rồi cô nàng chợt lôi ra một tấm ảnh của Kurt Cobain cùng một cây đèn cầy to màu trắng, thường thấy trong nhà thờ. Cô nàng đặt bức ảnh cạnh chiếc đèn cầy, thắp nó lên. Hay thật nhỉ! Ở L.A. cô nàng đâu có làm thế!
“Ừm…”, tôi mở lời. “Chúng ta làm gì đây nhỉ? Lập bàn thờ nhỏ à?”
“Gọi thế cũng được.”
“Có việc gì vậy?”
“Cậu không biết mai là ngày gì à?”, cô nàng hỏi, mắt mở to.
“Thứ Hai?”
“Ngày 5 tháng 4 năm 2004.”
“Điều đó có ý nghĩa gì với tôi nhỉ?”
“Đó là mười năm ngày Kurt Cobain tự sát”, cô nàng đáp.
“Wow. Tôi không tin nổi là đã tận mười năm rồi đấy.”
“Tôi hiểu…”, cô nàng nói, trông có vẻ buồn bã.
“Không phải tôi bệnh hoạn đâu, nhưng chẳng phải vài ngày sau, anh ta mới được… tìm thấy sao?”
“Đúng”, cô nàng đáp.
“Vậy ngày mai là…”
“Ngày mai, mùng 5 tháng 4, là ngày anh ta tự sát. Mùng 8 tháng 4 là ngày Gary Smith, người thợ điện, phát hiện ra thi thể anh ta.”
“À”, tôi nói. Tôi biết việc này quan trọng với cô nàng, và thật tình, nó đại khái cũng quan trọng với tôi. Ý là, tôi chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ kết thúc cuộc đời vào tuổi hai mươi bảy như cô nàng này, nhưng cái ch.ết của Kurt thực sự khiến tôi thấy buồn. Giống như Elvis hay The Beatles, trước khi về cõi niết bàn, họ gần như đã cứu rỗi âm nhạc.
Đáng buồn thay, tôi nghĩ trong nhiều năm, mọi người đã chờ đợi có ai đó xuất hiện và làm điều đó thêm lần nữa. Đừng hiểu lầm tôi, gần đây vẫn có nhiều bài nhạc hay. Thực ra, tôi phấn khởi với âm nhạc ngay lúc này hơn nhiều năm trước. Tuy nhiên, Kurrt… là người rất đặc biệt.
“Sẽ có buổi cầu nguyện kỷ niệm mười năm anh ta mất.”
“Thật à? Cô biết trước luôn sao?”
“Ừ”, cô nàng đáp.
“Vậy nghĩa là dù sao cô cũng sẽ tới Seattle?”
“Không, hẳn là không. Tôi sẽ tự làm buổi lễ nhỏ của riêng mình tại nhà. Nhưng mọi thứ hoàn toàn ổn. Với nữa, có thể Dave Grohl sẽ đến đó cầu hôn với tôi.”
“Anh ta kết hôn rồi”, tôi nhắc cô nàng. “Lễ ở đâu?”
“Buổi lễ đầu tiên là tại Trung tâm Seattle, nên tôi nghĩ đến giờ cũng vẫn ở đó”, cô nàng nói với vẻ quả quyết đáng kinh ngạc. “Nhưng một số người hẳn sẽ đến cầu Phố Young, hoặc các băng ghế tại công viên Viretta gần nhà anh ấy, nơi rải một ít tro thi thể của anh ta. Thật buồn.”
“Tôi hiểu”, tôi cảm thông. Cô nàng im lặng, nhìn bức ảnh Kurt. Strummer cảm nhận được cô nàng buồn, bèn tiến lại, gác đầu lên đầu gối Heaven.
Mỗi buổi sáng thức dậy, tôi lại thấy bản thân thật thua kém khi nhận ra mình không phải một ngôi sao nhạc rock, một phi hành gia hay phi công máy bay chiến đấu, điệp viên quốc tế, đấu sĩ, hay anh chàng dân chơi giàu sụ lái máy bay riêng. Tôi chỉ là một gã tầm thường phải tỉnh dậy và vác xác đi làm, cũng như cực kỳ phụ thuộc vào cà phê. Có nghĩa là, tôi có thể hiểu cuộc đời tầm thường của mình vẫn ít trần tục hơn những gã mặc vest, đeo cà vạt và làm việc vặt suốt ngày.
Nhưng sáng nay thì khác. Tôi thức dậy, thực sự nhảy ra khỏi giường. Còn việc phụ thuộc vào cà phê ấy à? Chà, nó chỉ tốt với tôi hôm nay, vì tôi không bận tâm đến việc mình phải tới mọi cửa hàng Starbucks tại Seattle để tìm Howard Schultz. Ông ta và tôi sắp ngồi nói chuyện với nhau.
Nghe thật bệnh, tôi biết. Nhưng đây chỉ là tình huống khi mong mỏi một trải nghiệm nào đó xảy ra thật tự nhiên hoặc bằng phép màu, mà không phải nghĩ hay tính toán từ trước quá nhiều. Sữa quế là một thử nghiệm khó thành công, mặc dù rất sáng tạo. Nhưng nó sẽ là một phần trong số thức uống chuẩn mực tại các quán Starbucks trên khắp thế giới. Thế nên, kế hoạch hoàn chỉnh của tôi ấy à? Làm gì có đâu.
Tôi xem những trang vàng trong niên giám, tìm địa chỉ trụ sở. Nhưng không có. Tôi thử gọi điện hỏi thông tin lần nữa, và ngay cả khi gọi số 1-800 lần nữa, cố gắng đánh lừa họ cho tôi địa chỉ - vẫn vô vọng.
Heaven vẫn còn đang ngủ. Tôi không muốn đánh thức cô nàng, nên rón rén đi quanh phòng, mặc quần áo. Tôi nhìn cô nàng ngủ trong một phút, choáng váng vì cô nàng thực sự xinh đẹp. Đây không phải thiên vị nhé. Đáng yêu thật đấy! Cô nàng cựa quậy trong khi ngủ, duỗi người. Mở mắt, ngáp, đưa bàn tay mảnh mai lên che miệng, rồi xoa cằm mất cả phút.
“Chào buổi sáng”, tôi nói.
“Tôi nghĩ cằm tôi có sợi dâu mọc ra này”, cô nàng đáp.