Quyển 3 - Chương 82: “Em chỉ là… một cây nấm nhỏ.”
Giọng Polly văng vẳng trong kênh liên lạc.
“Tần số ổn định đã bao phủ toàn cầu. Xin chớ lo về biến dạng vật chất nữa.”
Người trực tổng đài của căn cứ thành phố ngầm cố dằn sự xúc động:
“Căn cứ thành phố ngầm đã nghe rõ. Dù không biết ngài đã làm cách gì nhưng… Tạ ơn Chúa, tạ ơn ngài Polly.”
Tin ùn ùn kết nối.
Dường như có ai đấy đã nghe máy thay Tiến sĩ Gheer – là một giọng nói trẻ trung. Tin từ căn cứ thành phố ngầm tức thì vẳng lên.
“Đội hình máy bay vận tải đã hạ cánh.”
“Căn cứ phương Bắc vui lòng chỉ rõ vị trí của những người còn sống.”
“Bắt đầu công phá.”
Nhưng rồi họ vẫn vớt vầng trăng ấy lên.
Mặt trời dần ló dạng, ngọn gió rít dài kéo theo nắng mai mùa đông buốt giá và chói chang khôn cùng. Giá đựng ống nghiệm ánh lên thứ quầng sáng của thủy tinh. Tựa hồ có tiếng tim đập bảng lảng trong không gian tịch mịch.
Dân bản địa, kẻ đến sau, dị chủng, viên sĩ quan,… đứng chăm chăm trước kênh liên lạc – đặng chờ đợi, chờ tin cứu viện từ căn cứ thành phố ngầm, chờ thông báo về tình hình ở căn cứ phương Bắc, ngay cả gốc dây leo vẫn hằng canh giữ viện nghiên cứu cũng luồn một chạc cây qua ô cửa sổ.
Ngẫu nhiên sẽ có những tiếng rủ rỉ thưa chuyện.
– ch.ết bao nhiêu người rồi nhỉ?
– Chú người cây ch.ết rồi, thi thể nằm ngay dưới sân đấy.
– Thế Đường Lam thì sao?
– …Tôi không thấy anh ấy đâu hết.
Cuộc công phá cùng phản kích đã bắt đầu, chưa có người báo cáo tình huống vào kênh liên lạc khiến ai nấy nín thở chờ mong. Polly chợt rời khỏi màn hình máy tính ngay phút giây hồi hộp tĩnh túc này.
Hẳn là do tuổi tác hoặc do tâm trạng, nên lão đi hơi loạng choạng, lão đẩy cửa ra, thoạt tiên là ngóng nhìn Lồng Simpson đã tắt lịm. Dẫu bên ngoài bê bết những máu và xác thịt, thì trong phạm vi Lồng Simpson hãy cứ sạch loáng. Chẳng mấy chốc, lão bèn đưa mắt nhìn đằng trước.
Ngoài cửa phòng thí nghiệm, bóng người màu đen tựa hờ lên vách tường suốt lâu nay cũng từ từ ngẩng đầu.
Đấy là một cặp đồng tử trống rỗng, một đại dương xanh biếc được che phủ bởi giá băng hàng vạn năm.
Vừa chạm mắt họ đã thấu suốt thân phận của nhau ngay. Đôi mắt lam xám của Polly vương vấn nỗi xót xa.
Lão khẽ cất tiếng:
– Này chàng trai trẻ.
Lục Phong chẳng trả lời, anh chỉ nhìn xuống mảnh giấy trắng Polly đang cầm.
Ngón tay Polly run nhè nhẹ, lão vuốt phẳng mảnh giấy rồi đưa lên đọc, trên mặt giấy là dăm con chữ viết đầy vội vã. Chữ của An Chiết chẳng thể khen là đẹp bởi nét nào nét nấy cũng giản đơn quá chừng, song nó trong trẻo như hồ nước độ xuân.
Ông Polly ơi, cảm ơn vì sự chăm sóc của ông ạ. Cháu chính là tiêu bản tính trơ của căn cứ phương Bắc đây, có lẽ tần số của cháu sẽ giúp ích cho mọi người đấy, nhưng nhỡ mà không giúp được gì thì cho cháu xin lỗi nhiều.
Với cả, mong ông hãy nhớ kĩ lời hứa giữa chúng ta nhé.
Polly hỏi:
– Thằng bé là tiêu bản tính trơ thật ư?
– Tiêu bản là một phần của em ấy, – Lục Phong nhận mảnh giấy trắng nọ, giọng anh nom hơi khàn – Cả hai đã giao kèo trước điều gì à?
– Nếu có một mai, thẩm phán giả ở căn cứ phương Bắc đặt chân tới đây… – Polly thuật lại – Xin hãy nói rằng An Chiết đã đi xa tự do.
Hốc mắt Lục Phong vằn tia máu.
Tiếng bước chân nặng nề truyền đến từ sau lưng anh – là một gã trai Ấn Độ với nước da đen trũi. Rum đang xách ba-lô của An Chiết, gã đưa nó cho Lục Phong mà không buồn nói gì.
Trong ba-lô chỉ có đôi ba món đồ đặt gọn ghẽ: một cuốn “Nguyệt San Căn Cứ”, phù hiệu sao chữ thập màu bạc, và một khẩu súng lục đen kịt.
Ngón tay Lục Phong ghì riết mép ba-lô, anh cúi đầu đặng nhìn đăm đăm vào những món đồ nằm bên trong, chẳng ai thấy rõ nét mặt anh cả.
– Thằng bé được người của bọn ta nhặt về từ Vực Thẳm… Nó là một đứa trẻ ngoan, nó rất vui vẻ khi sống tại đây – Polly nhìn anh và nói – Ta hiểu căn cứ sẽ chẳng buông tha cho nó. Phải chăng cháu luôn biết về việc thằng bé đang ở chỗ này?
Cuối cùng Lục Phong bèn thôi không nhìn ba-lô nữa, mà ngoảnh sang Polly. Anh đáp:
– Tôi không biết.
Ánh mắt Polly lộ nét bàng hoàng, lão nhắm mắt trong đau khổ.
– Ta xin lỗi.
Cuộc trùng phùng tình cờ ngờ đâu là lần chia xa cuối, hóa ra trên đời này vẫn còn thứ cực hình oan khốc ngần ấy.
Gió rét thấu xương thổi dọc xứ cao nguyên. Lặng thinh một lúc lâu, Lục Phong chợt hỏi:
– Em ấy ở đâu?
– Lồng Simpson là một máy va chạm với trường năng lượng cao, bất cứ sự vật nào rơi vào trong cũng sẽ bị sức mạnh của dòng chảy hạt năng lượng cao nghiền thành tro bụi – Polly cất giọng khê khản – Ta nhớ cháu đã nhìn thấy mà.
Ba-lô rơi phịch xuống đất, nòng súng gí vào huyệt thái dương của Polly. Lục Phong nhìn Polly bằng ánh mắt lạnh lẽo tột cùng.
– Em ấy ở đâu hả? – Anh lặp lại câu hỏi này, gằn từng chữ một, tất thảy cảm xúc bộc phát vào giây phút đó, đồng tử giá băng nhuốm vẻ điên cuồng, anh như một tên tội phạm bị kết án tử hình nhưng vẫn muốn xác nhận lại bản án lần nữa.
Polly thoáng nở nụ cười đau xót, ánh mắt trìu mến của lão trông ra khoảng trời vời vợi bất tận ngoài ô cửa, lão hiểu rằng điều mà chàng trai trước mắt mong mỏi chỉ là một lời nói dối thiện chí, dẫu trong lòng họ đều tỏ tường sự thật.
Polly bảo:
– Tần số của An Chiết đã được gửi đi khắp hành tinh, thằng bé sẽ giúp vạn vật thoát khỏi sự biến dạng. Nó đang ở ngay cạnh cháu, nó ở khắp muôn nơi.
Lục Phong đăm chiêu nhìn lão, họ rơi vào thế bế tắc đến tận khi ngón tay Lục Phong run rẩy buông lơi, khẩu súng rơi xuống. Nó va “keng” vào lan can sắt nơi hành lang và dẫn đến một tràng âm hưởng leng keng dai dẳng.
Lục Phong cất giọng khản đặc:
– Xin lỗi ngài, tôi…
Anh nhắm mắt lại, siết chặt nắm tay chẳng nói tiếp nữa.
Polly xót xa nhìn anh:
– Chàng trai à, cháu đừng như thế. Cháu cứ việc nổ súng với ta, cháu có thể thỏa sức trút bỏ nỗi buồn của mình.
– Cảm ơn ngài, – Lục Phong trả lời – tôi sẽ làm vậy, chỉ khi em ấy vẫn còn ở đây.
Đây là câu nói bình tĩnh nhất, cũng là tuyệt vọng nhất mà Polly từng nghe.
Họ đứng sánh vai nhau trên hành lang chớm đông, mãi đến lúc vầng ráng chiều tà như máu nhuộm đẫm rặng núi cùng Vực Thẳm, mãi đến lúc âm thanh ở kênh liên lạc và trong phòng thí nghiệm được tăng lên. Có tiếng hét phấn khích truyền qua âm vang dòng điện.
– Rút lui rồi… Rút lui rồi!
– Cơn bão quái vật đang tản dần.
– Đã công phá thành công!
Tiếng reo hò thắng lợi náo nức trong kênh. Dăm tin tức lẫn trong đôi câu vài lời ăn mừng chiến thắng, chẳng hạn như lực lượng lính nhảy dù thuộc căn cứ thành phố ngầm đã hi sinh hơn sáu trăm người, chẳng hạn như số người sống sót thật sự của căn cứ phương Bắc là một trăm lẻ mấy, rồi chẳng hạn như ai ai cũng gặng hỏi cớ sao biến dạng không bùng nổ nữa, rốt cuộc Viện Nghiên cứu Non Cao đã phát hiện ra điều gì.
Nỗi buồn cùng niềm vui dần dần chất chồng, tuyệt vọng cùng hi vọng song hành với nhau. Hết thảy đều là vận may phải trả bằng cái giá cực đắt – ấy là sự hi sinh của muôn người, ấy là sự hi sinh của một người.
Dòng lệ chậm rãi tuôn chảy khỏi khóe mắt Polly.
Bỗng, có cục bông trắng phau lướt xuống từ đầu vai Lục Phong, nó nương theo gió sà lên áo Polly và chạm vào lão bằng sợi nấm mềm mại.
Polly cầm lấy nó, hỏi rằng:
– Gì thế này?
Lục Phong trả lời:
– Tiêu bản tính trơ, thứ quan trọng nhất của em ấy.
Dĩ nhiên Polly biết rõ Lục Phong đang ám chỉ ai, giữa hai người bọn họ, chỉ có độc một “em ấy” mà thôi.
Lão quan sát cục nấm tròn vo nọ, kế đến vươn tay sờ thử, sợi nấm bèn quấn ngón tay lão ngay, Polly nhẹ giọng hỏi:
– Vì sao nó lại chủ động tới gần ta vậy?
Lục Phong đáp:
– Tôi không biết.
– Đây là bào tử vô tính, thể truyền giống của nấm – Polly thoáng giật mình – Thằng bé chưa bao giờ cho bọn ta hay về giống loài của nó, thế có khi nào, thằng bé là…
Lục Phong ngắm bào tử, đoạn đáp khẽ:
– Em ấy là một cây nấm.
Giọng anh khàn đi, ấy nhưng vẫn chứa chan sự dịu dàng và tiếc thương vô tận:
– Em ấy chỉ là… một cây nấm nhỏ.