Chương 3: Cạnh Lăng Vương
Thái tử Khương Yến Nhiên và Hà Dương công chúa Khương Linh Châu là huynh muội cùng một mẹ nên hai người luôn rất gắn bó. Sau khi nghe muội muội nói vậy, Thái tử có lòng muốn khuyên nàng vài câu nhưng vừa định mở miệng lại tự nhiên hắt hơi một cái, nhìn vô cùng khổ sở.
Hắn đành im lặng theo một cung nữ đi đến trắc điện thay y phục.
Lúc Thái tử trở về Lãm Vân cung thì ngửi thấy mùi thơm thanh mát, dễ chịu từ một chiếc lư hương nhỏ. (1)
(1) Lư hương nhỏ (Tiếng Trung: ): Một loại đồ vật có tác dụng giống các loại lư hương thường thấy nhưng kích thước nhỏ hơn và ít được trang trí hoa lệ hơn.
Hắn ngửi thật cẩn thận, rồi chợt phát hiện ra đây là Úc Tê hương được Nam quận tiến cống năm ngoái. Hắn nghĩ bình thường Khương Linh Châu luôn đeo túi hương bên người, để nghiên bút trên án (2), là một cô nương hết mực phong nhã, lịch sự, trong lòng Thái tử bỗng cảm thấy chua xót.
(2) Án: Bàn luyện chữ, vẽ tranh, xử lý công việc của vua chúa, quan lại.. thời xưa
Nếu gả sang nước Ngụy, sau này nàng sẽ chỉ nhìn thấy những người lính thô lỗ cầm kiếm cưỡi trên lưng ngựa, sao còn có thể ngửi thấy mùi Hoàn hương, Tuyến hương được nữa, e rằng đó sẽ là một cuộc sống không hề dễ chịu.
Thái tử bực bội.
Khương Linh Châu mà phải gả sang nước Ngụy đâu chỉ khó chịu mỗi chuyện đó, người Tiêu gia sẽ coi nàng như cái gai trong mắt, lúc nào muội muội của hắn cũng như đang bước trên lớp băng mỏng và sống trong cảnh nơm nớp lo sợ.
Nghĩ đến đây, Thái tử nhìn chằm chằm con khổng tước màu lam được chạm khắc trên chiếc lư hương bằng vàng, im lặng một lúc lâu, sắc mặt và tâm trạng đều vô cùng nặng nề.
Khương Linh Châu cho cung nhân lui hết ra ngoài, chỉ để Bạch Lộ và Kiêm Hà ở lại hầu hạ, sau đó hỏi: “Hoàng huynh đang suy nghĩ gì vậy ạ?”
“Hà Dương, nếu muội không muốn gả cho kẻ mãng phu kia thì nhất định phải nói cho vi huynh biết.” Thái tử nói: “Chỉ cần muội không muốn, thiên hạ này sẽ không ai có thể cưỡng ép muội. Phụ hoàng và vi huynh chắc chắn sẽ bảo vệ muội bình an cả đời.”
Thái tử bị ướt mưa, búi tóc chưa kịp khô nhưng khuôn mặt vẫn vô cùng nghiêm túc. Khương Linh Châu thấy dáng vẻ của huynh trưởng, trong lòng chợt thấy cảm động, chẳng khác gì tuyết tan sau mùa đông buốt giá, mùa xuân ấm áp trở về.
“Chuyện quốc gia đại sự đâu phải chỉ một câu “Không muốn” là có thể giải quyết được?” Nàng cầm bình trà lên, tự mình rót một chén cho Thái tử, khẽ nói: “Hà Dương là trưởng công chúa của nước Tề, sinh ra đã phải mang trong mình trách nhiệm nặng nề này. Có thể hóa giải muộn phiền giúp phụ hoàng là may mắn của Hà Dương.”
Thái tử không uống trà, chỉ nặng nề đặt trên bàn, la ầm lên: “Muội hãy suy nghĩ kĩ đi đã!”
Khương Linh Châu nói: “Đương nhiên là muội đã nghĩ kĩ rồi.”
Tính tình của Thái tử không tốt nhưng cũng không đành lòng để muội muội ruột đi chịu khổ, hắn đè sự nóng nảy xuống, cố gắng khuyên nhủ: “Tề – Ngụy đã xích mích với nhau mấy chục năm rồi, nếu muội gả cho Tiêu Tuấn Trì, chỉ sợ trên dưới Tiêu thị không ưa gì muội. Hơn nữa, núi xa nước xa, cuộc sống hoang dã, thiếu thốn. Nếu gả sang nước Ngụy, chưa nói đến chuyện có thể sống được hay không, chỉ sợ cả đời này muội cũng không thể trở về Hoa Đình được nữa đâu.”
Ngón tay Khương Linh Châu hơi động, âm thầm nắm chặt ống tay áo.
“Không sao.” Nàng đáp.
“… Tiêu thị của nước Ngụy vốn có nhiều kẻ thù, thường xảy ra vài chuyện bẩn thỉu, hạ lưu, ngay cả các giới quý tộc cũng luôn đấu đá nhau không ngừng nghỉ. Nếu muội bị cuốn vào cuộc tranh giành quyền lực đó thì an nguy rất khó bảo toàn.” Thái tử đột nhiên đứng lên, chắp tay đi xung quanh Khương Linh Châu: “Huống chi, hơn triệu năm chiến đấu với nước Tần, Vũ đế cũng đã không ít lần động chạm vào người Hung. Gả con gái của Khương thị sang đó cũng chưa chắc kết quả nhận được sẽ như ý muốn của Tiêu Tuấn Trì, hai nước Tề – Ngụy vĩnh viễn hòa bình, tốt đẹp. Nếu một ngày nào đó người Ngụy lại có dã tâm xuôi Nam xâm lược nước ta, Hà Dương, muội có biết muội sẽ rơi vào hoàn cảnh thế nào không?”
Mi mắt Khương Linh Châu cụp xuống, khẽ thở dài một tiếng.
Một lúc sau, nàng bình tĩnh nói: “Từ xưa đến nay vẫn có những người sẵn sàng lấy bản thân mình ra làm vật chất để trao đổi. Dù sao thì dùng tính mạng của Hà Dương để cứu lấy hai trăm nghìn người dân nước Tề ở U Yến vẫn tốt hơn mà. Những người dân đó quá khổ sở, gia đình ly tán, không có nhà để sống, không có nơi để đi, phải lưu lạc đầu đường xó chợ.”
Bước chân của Thái tử cứng đờ.
Hắn không ngờ tới Khương Linh Châu sẽ nói những lời ấy, khuôn mặt Thái tử chợt trở nên nặng nề. Dừng một lát, Thái tử quay lại đứng trước mặt Khương Linh Châu, hắn lại gần nàng, liếc mắt nhìn cung nữ hầu hạ bên ngoài cung, thấp giọng nói: “Hà Dương, dù sao đi chăng nữa muội cũng nên suy nghĩ đến Lưu Tông một chút.”
Vừa nghe đến cái tên “Lưu Tông” này, Khương Linh Châu đột nhiên ngước mắt lên.
Nàng nhìn Thái tử, chậm rãi thốt ra từng chữ: “Hoàng huynh, nam nữ khác biệt. Hà Dương và An Khánh vương chỉ là bạn bè bình thường thôi. Sau này huynh không nên nhắc lại chuyện này nữa.”
Thái tử nghẹn họng, ngượng ngùng nói: “Là vi huynh nói sai.”
Hắn nhìn Khương Linh Châu, chợt ý thức được bé gái ngày xưa hay đứng sau lưng mình, ồn ào đòi cưỡi chú bướm bay trên cao giờ đây đã trưởng thành, trổ mã thành thiếu nữ xinh đẹp, rạng ngời như một viên ngọc tinh khiết, cao ngạo, không còn là cô bé con luôn giở trò nghịch ngợm ngày trước nữa rồi.
Chuyện Khương Linh Châu muốn làm, vị huynh trưởng như hắn cũng không thể ngăn cản được nữa.
Ngoài ra, việc nàng gả sang nước Ngụy rõ ràng có thể giải quyết được những khó khăn trước mắt.
Thái tử ngửa mặt lên trời thở dài một tiếng, lên tiếng: “Hà Dương, từ trước đến giờ muội là một người có chính kiến. Nếu muội đã quyết, vậy ngày mai chúng ta cùng đi bẩm báo với phụ hoàng. Tiêu Tuấn Trì nói sẽ ở Hoa Đình đợi ba ngày, e là cũng sắp hết kiên nhẫn rồi.”
Tuy đau lòng cho muội muội nhưng hắn vẫn là Thái tử của một nước, không thể xem chuyện quốc gia đại sự là trò đùa được.
Ngày tiếp theo, Khương Linh Châu theo huynh trưởng đi tới Sùng Chính điện nói với Tề đế mong muốn của mình. Tề đế do dự một lúc nhưng vẫn đồng ý, lập tức cho truyền sứ thần nước Ngụy. Ngày đó, sứ thần vào cung nói rằng có lễ vật muốn thay mặt Cạnh Lăng vương tặng cho Hà Dương công chúa.
Cách ăn mặc của sứ thần toát lên phong thái mạnh mẽ, tay áo hẹp, áo đuôi ngắn, trông khá cường tráng. So với tất cả mọi người trên điện thì khí thế của sứ thần cao hơn rất nhiều, đi đầu là một người đàn ông vô cùng uy vũ với đôi mắt như hổ gầm mạnh mẽ làm các cung nữ phục vụ bên cạnh kinh hãi, đều cúi gằm mặt xuống đất.
Hắn rảo bước tới bậc cao phía trước, cong người nửa quỳ.
Tiểu thái giám bên cạnh Hoàng đế lập tức cất giọng the thé, la ầm lên: “To gan! Gặp mặt bệ hạ mà dám chỉ hành nửa lễ!”
Sứ thần nhìn lướt qua thái giám, mặt đanh lại, hai đầu gối đặt xuống nền, lúc này mới quỳ trên đất. Hắn cầm theo một cái túi, bên trong đựng chiếc hộp đỏ gắn chuông vàng, vừa dâng lên hắn vừa nói: “Cạnh Lăng vương dùng ba tòa thành trì ở U Yến và đoản kiếm này làm sính lễ cho Hà Dương điện hạ.”
Thái giám nhận lấy chiếc hộp, mở nắp ra kiểm tr.a rồi mới đưa cho người ngồi phía sau tấm rèm bên cạnh Tề đế là Khương Linh Châu.
Kiêm Hà nhận lấy hộp quà, đưa đến trước mặt Khương Linh Châu mới mở ra, ở chính giữa hộp là một chiếc đoản kiếm, chuôi dao hình trăng lưỡi liềm, trạm khắc bốn móng vuốt hình mỏ diều hâu ôm một viên ngọc đỏ như lửa, lại khảm thêm những viên đá quý nhỏ xung quanh, một vẻ đẹp vô cùng đặc biệt.
“Đoản kiếm này do Cạnh Lăng vương đích thân sai người chế tạo ra. Xưa nay, ở nước Ngụy, mỏ diều hâu chỉ dành cho những người được coi là “Tiền Long tử”. Ví như Cạnh Lăng vương mang huyết mạch Tiêu thị. Ngoài ra, đoản kiếm này còn có thể xua đuổi tà ma và trấn áp sự hung hiểm.” Sứ thần dừng một chút, nhìn Khương Linh Châu sau tấm màn rồi lại nói: “Cạnh Lăng vương chúc Công chúa điện hạ không ác niệm, không ham muốn, không tai họa, bình an vui vẻ, vĩnh viễn hưởng thái bình.”
Khương Linh Châu sai Kiêm Hà nhận đoản kiếm rồi khẽ lên tiếng: “Cảm ơn ý tốt của Cạnh Lăng vương điện hạ.”
***
Mới hai ngày trôi qua, tin tức về hôn ước của Hà Dương công chúa và nước Ngụy truyền khắp đô thành Hoa Đình, tiếp đó người dân bốn phương Đông Tây Nam Bắc đều biết tin này.
Tất cả dân chúng khen ngợi Hà Dương công chúa là người có tấm lòng rộng lớn, cũng có người xót thương cho Hà Dương công chúa phải gả đi xa. Vui vẻ nhất là nhân dân ở vùng U Yến phương Bắc, vì Tiêu Tuấn Trì lui quân, chủ động chắp tay nhường lại ba thành trì quan trọng làm sính lễ nên những dân chúng vốn đang phải chạy nạn được trở về quê hương. Ninh Vương bị bắt đi làm tù binh cũng được thả về U Yến, trở lại vùng đóng quân của nước Tề.
Nhưng vì Khương Linh Châu ở trong cung nên không hề biết những chuyện đó. Từ lúc đáp ứng hôn sự với Tiêu Tuấn Trì, nàng rất bận rộn, không có thời gian rảnh để chú ý đến những thứ khác.
Tiêu Tuấn Trì như thể sợ thê tử sắp cưới của mình bay đi mất, chỉ hận không thể sai sứ thần nhanh chóng mang Khương Linh Châu về nước Ngụy luôn. Nhưng nước Tề trọng lễ nghĩa, nhất định sẽ không để chuyện như vậy xảy ra. Hai nước Ngụy – Tề bàn bạc, giày vò nhau mãi mới chọn được ngày lành để tổ chức hôn lễ, chính là tháng bảy đầu thu.
Đã là ngày Đại công chúa xuất giá, vậy thì không thể tổ chức hôn lễ một cách đơn giản được. Gả con gái đi cầu hòa đã là một trò cười cho thiên hạ rồi nên Tề đế không muốn để cho người Ngụy chê cười. Vì vậy ông ra lệnh tạm thời mở quốc khố, chọn báu vật và vàng bạc làm hồi môn, đồng thời lại chọn thêm tỳ nữ thích hợp để đi cùng Khương Linh Châu sang nước Ngụy. Giờ đây trong ngoài Lãm Vân cung giờ đây vô cùng bận rộn.
Từ trước đến giờ, Hoàng hậu là một người phụ nữ mạnh mẽ, biết đây là ý của con gái, bà giận đến nỗi không muốn nhìn mặt Khương Linh Châu. Gần nửa tháng sau, Hoàng hậu mới chịu giúp nàng chuẩn bị hôn lễ.
Cầm danh sách sính lễ trên tay nhưng Hoàng hậu nương nương không cảm thấy vui mừng khi gả con gái đi chút nào, gương mặt lạnh lùng hơn cả băng tuyết ngày đông. Mặc dù Khương Linh Châu liên tục dỗ dành nịnh nọt nhưng Hoàng hậu nương nương vẫn trưng ra khuôn mặt tức giận vô cùng.
“Mẫu hậu, con gái đang giúp phụ hoàng mà, sao người lại không vui?” Khương Linh Châu hỏi Hoàng hậu.
“Chuyện này tốt xấu thế nào, con tự suy nghĩ đi.” Ngón tay Hoàng hậu lướt trên danh sách sính lễ, quay lưng đi không nói lời nào.
Thấy vậy, Khương Linh Châu lại tiếp tục dỗ dành bà.
Vất vả lắm mới có thời gian rảnh, trở lại Lãm Vân cung, nàng lấy chiếc đoản kiếm mà Tiêu Tuấn Trì tặng ra cẩn thận nhìn ngắm.
Bạch Lộ nhìn thấy, lén nói thầm với Kiêm Hà: “Công chúa của chúng ta cũng chỉ là một cô nương thôi, chắc chắn là người vẫn muốn được gả cho một phu quân như ý. Chỉ mong Cạnh Lăng vương đối xử tốt với công chúa, đừng khiến công chúa bị tổn thương.”
Kiêm Hà chững chạc hơn Bạch Lộ, không ngây thơ hoạt bát như nàng ấy. Nghe Bạch Lộ nói, Kiêm Hà lắc đầu một cái, thở dài: “Hôn lễ này không còn là “nhân duyên” nữa rồi. Công chúa gả sang đó như một con cờ của nước Tề. Công chúa là người trong cuộc, sao có thể coi đây là một chuyện vui? Tiêu gia để công chúa sống yên ổn qua ngày đã là một may mắn lớn rồi.”
Bạch Lộ buồn bực, nét mặt đầy lo lắng. Dừng một chút, nàng ấy nói: “Không ngờ chuyện hòa thân lại phiền phức như vậy.”
Nghĩ đến chuyện Khương Linh Châu bị gả đi xa, Bạch Lộ và Kiêm Hà đều không nỡ.
Đứng đầu nước Ngụy là Tiêu gia, đây là một đất nước trọng võ thuật, vị tổ tiên lập quốc chính là một người giỏi võ, dụng binh bậc nhất, sau đó, tất cả những vị đế vương đời sau đều giỏi về cầm quân tác chiến. Vì thế nên người Ngụy phía Bắc thì lên núi, phía Tây chiếm Đại Nguyệt Thị (3), phía Nam quấy nhiễu nước Tề, chinh chiến nhiều năm không ngừng nghỉ.
Sáu năm trước, trên đường đến phía Tây chinh chiến Ngụy đế Tiêu Đồ Ký ch.ết trận, con trai trưởng của Tiêu Đồ Ký là Tiêu Vũ Xuyên kế vị. Lúc đó Tiêu Vũ Xuyên mới được mười tuổi, không để ý tới chính sự, vì vậy Tam đệ của Ngụy tiên đế là Cạnh Lăng vương Tiêu Tuấn Trì thay vua nhiếp chính.
Sau đó, Tiêu Tuấn Trì nắm binh quyển trong tay, quyền thế ngút trời, nhiếp chính được một năm đã giành được rất nhiều lời tán dương trong triều. Bên ngoài, Hoàng đế trẻ còn gia phong (4) thêm đất cho Tiêu Tuấn Trì. Cạnh Lăng vương nhận được sự vinh hiển xưa nay chưa từng có.
So với huynh trưởng, Tiêu Tuấn Trì hiểu rõ mưu lược, tinh thông việc quân, giương cung có thể bắn, dẫn binh thần dũng. Trong một thời gian ngắn, người Ngụy không còn đối thủ, họ mạnh đến nỗi liên tiếp chiếm được tám thành trì ở vùng U Yến của nước Tề, quân tiên phong có thể chiếm đóng Hoa Đình bất cứ lúc nào.
Người vừa có sở trường về việc quân lại là một nhiếp chính vương, nghĩ cũng biết kẻ đó vô cùng cao lớn, thô kệch, cường tráng và là mãng phu. Người Tề xem trọng lễ nghĩa, kinh thư, vẻ phong lưu nho nhã, chắc chắn không giống Tiêu Tuấn Trì một chút nào.
Thật ra thì hắn cũng có một chỗ tốt, đó là không gần nữ sắc.
Hắn sống hai mươi mấy năm, đừng nói là lấy vợ, ngay cả một nô tỳ bưng trà rót nước cũng không có.
Bạch Lộ đang suy nghĩ vẩn vơ, chợt nghe thấy phía Tây truyền tới tiếng đá đập vào thanh cửa rất khẽ, lộp cộp lộp cộp, khá có quy luật. Bạch Lộ nghe thấy âm thanh này thì vội nói: “Công chúa, cửa sổ phía Tây có tiếng động, để nô tỳ đi xem một chút.”
“… Không cần đâu.” Khương Linh Châu nói: “Đừng ra đó, coi như không thấy là được.”
Ngoài cửa sổ, mưa đã ngừng rơi, bóng đêm bao trùm.
Giọt nước đọng trên lá trúc phản chiếu một bóng người thon dài. Người nọ tựa vào bức tường đỏ thắm, lặng lẽ như đang chờ gì đó. Một lúc sau, hắn khom người nhặt một hòn đá nhỏ, dùng hai ngón tay kẹp nhẹ, hơi dùng lực ném về phía song cửa sổ.
Sau khi ném hết bốn, năm viên đá vào cửa sổ, tiếng “Lộp cộp”, “Lộp cộp” vang lên, cửa sổ không còn in bóng hình ai kia nữa.
Lưu Tông thở dài một tiếng.
Trong lòng hắn biết lần này Khương Linh Châu sẽ không gặp hắn.
Thật ra, từ lúc Khương Linh Châu lên mười tuổi, bảy năm nay hai người họ không còn bí mật gặp nhau nữa rồi.
~~~ Tác giả có lời muốn nói: Trúc mã không sánh bằng nút thắt từ trên trời rơi xuống.