Chương 66
Chúng tôi được thả xuống một nơi có cánh cổng sắt khổng lồ. Cánh cổng này được các thiên thần nổi loạn canh giữ, với đôi mắt thăm thẳm không chút thương xót cứ nhìn chúng tôi như đang phán xét mọi thứ. Họ trần truồng và vô giới tính, với làn da trắng sáng lấp lánh chi chít những cái nhọt lớn; từ lưng họ mọc ra đôi cánh đang tan chảy, và thay vì vòng hào quang, họ có mái tóc rực lửa.
Chỉ huy của những Thiên thần Nổi loạn tiến lên phía trước. "NGƯƠI KHÔNG ĐƯỢC QUA. TÊN NÀY CHƯA CHẾT."
"Tôi nghe thế nhiều rồi," tôi nói.
Francesco ném một cái nhìn khó chịu về phía tôi trước khi chuyển sự chú ý sang người thủ lĩnh. "Anh ấy còn sống hay đã ch.ết cũng không phải việc ngài phải lo. Những luật lệ đó không được áp dụng tại cánh cổng này, vì định mệnh của anh ấy là phải bước qua nơi đây."
"VẬY HẮN LÀ AI?"
"Người được chọn," Francesco trả lời, "người đến Diêm phủ khi còn sống."
Tuy nhiên, dù anh ta có xác định danh tính của tôi thì với họ cũng chẳng có ý nghĩa cả. Với giọng nói như sấm rền và những hành động dữ dội, những thiên thần từ chối tất cả những gì anh ta đề nghị. Rõ ràng người dẫn đường của tôi cuối cùng cũng gặp phải một rào cản mà anh ta không thể dùng lời ngon ngọt để đưa chúng tôi qua được.
Chúng tôi đi ra xa khỏi mấy thiên thần để bàn tính với nhau. Tôi hỏi bây giờ chúng ta có thể làm được gì, và Francesco nhìn tôi cứ như câu hỏi của tôi cực kỳ ngu ngốc ấy.
"Chúng ta sẽ cầu nguyện," anh ta nói.
Khi tôi đáp lại rằng tôi sẽ không cầu nguyện, anh ta đã mắng tôi một trận. "Anh đang ở trong Địa ngục đấy. Anh nên bắt đầu đi là vừa."
Francesco lấy mũi tên lửa ra khỏi tay tôi và cắm mũi nhọn của nó xuống đất, rồi trải bộ áo da thú của người Viking ra để chúng tôi quỳ lên. Tiếp theo, anh ta cởi áo ni cô của Sei ra khỏi thắt lưng của tôi và nhanh chóng xé toạc nó ra. Anh ta buộc một mảnh vải mỏng dài quanh đầu tôi cho tới khi tầm nhìn của tôi hoàn toàn bị che khuất. Khi nghe tiếng vải thắt thắt buộc buộc, tôi đoán chắc là anh ta đang che mặt chính mình.
Đây là lần đầu tiên tôi cầu nguyện trong đời và tôi cảm thấy không tự nhiên lắm, nhưng sau tất cả những gì Francesco đã làm cho tôi, ít nhất tôi cũng phải tôn trọng đề nghị của anh ta một lần. Tôi có thể nghe thấy giọng của Francesco, thì thầm bằng tiếng Latin, khi anh ta đang ca ngợi Chúa và xin Người chỉ dẫn. Về phần mình, tôi cầu nguyện cho ảo giác của mình mau kết thúc. Và cho Marianne Engel được an toàn, dù cô đang ở đâu.
Tôi nghe thấy tiếng bước chân đang đến gần và tiếng lách tách trong không trung. Tiếng ấy đến gần hơn, gần hơn...
"Đừng nhìn," Francesco ra lệnh. "Họ gọi Medusa đến đấy."
Và rồi tôi nhận ra tiếng lách tách phát ra từ đâu: chúng được tạo nên bởi những cái lưỡi của lũ rắn là tóc mụ ta. Chúng đang thò ra để ngửi tôi, sinh vật sống đầu tiên đến thăm Địa ngục trong hàng thế kỷ, và một con rắn dè dặt lấy lưỡi ɭϊếʍƈ vào má tôi. Rồi một con khác, một con khác, và một con khác nữa. Da tôi, giờ đã lành hẳn, đã hoàn toàn lấy lại cảm giác, và oái oăm thay, tôi lại phải cảm nhận nụ hôn của một trăm con rắn. Chúng cố đẩy cái đầu tam giác của mình luồn xuống dưới cái khăn bịt mắt của tôi, để kéo nó lên, để bắt tôi nhìn vào quái vật đầu rắn, nhưng tôi giữ chắc cái khăn ở nguyên vị trí.
Medusa, gí mặt mình cách mặt tôi chỉ độ vài phân, bắt đầu cất tiếng suỵt suỵt. Hơi thở đầy xú uế của mụ phả ra trước mặt tôi và tôi có thể hình dung ra cái lưỡi rắn của mụ. "Nhìn. Nhìn vào ta. Ngươi biết mình muốn thế mà. Đâyy chỉ làà một ảoo giácc. Ngươi định bỏ đi mà không tận hưởng hết những gì mà giấc mơ của ngươi đem lại sao? Ta chỉ giúpp thỏaa mããn lòng hiếu kỳỳ của ngươi thôii."
Tôi biết quá rõ. Nếu phải biến thành một bức tượng, tôi thà bị biến dưới tay Marianne Engel còn hơn dưới cái nhìn của con quái vật đầu rắn này.
Mặt đất dưới chân tôi bắt đầu rung chuyển như một cơn động đất nhỏ. Tôi có thể cảm nhận được những con rắn trên đầu Medusa đã tản ra khỏi mặt tôi. Cơn chấn động tiếp tục mạnh dần lên và chẳng mấy chốc cả không khí cũng rung chuyển, như thể nó đang tách ra để lấy chỗ cho một cái gì đó được sinh ra vậy. Những cánh cổng sắt bao xung quanh Dis kêu răng rắc như một con quái vật dữ tợn đang vật lộn để thoát ra, và những Thiên thần Nổi loạn rộ lên tràng cười hân hoan sung sướng. Tôi cảm thấy Medusa giật bắn ra, và nghe thấy tiếng chân thoái lui của mụ ta. Tôi nghĩ đây là một trò bịp và hỏi Francesco rằng liệu có thật mụ ta đã đi rồi không.
"Tôi nghĩ vậy, nhưng vẫn phải cẩn trọng. Tốt nhất là cứ giữ nguyên khăn bịt mắt như cũ."
Tôi có thể nghe thấy tiếng cành cây lìa khỏi những thân cây ch.ết, và bụi đất cuộn lên mù mịt làm tôi phát ho. "Chuyện gì đang xảy ra vậy?"
"Tôi đã cầu nguyện xin một Sứ giả của Thần thánh tới đây," Francesco trả lời, "nhưng tôi e rằng lời cầu xin của một người tầm thường như tôi sẽ không được đáp lại."
Dù có thể Medusa vẫn đang ẩn nấp đâu đó, tôi không thể không tháo khăn bịt mắt ra được. Xét cho cùng, mấy khi người ta có cơ hội nhìn một Sứ giả Thần thánh? Bầu trời, kể từ khi chúng tôi bước vào đã luôn rặt một màu đen ngòm, giờ trông như thể Chúa vừa nhỡ tay đánh rơi bảng màu của Thiên đường và tất cả những nét đẹp tuyệt trần của Sự sống đang ào xuống từ trời cao. Trên đỉnh sắc màu ấy, với những dải sáng vàng óng ánh trải dài sau lưng, là Thực thể đẹp nhất tôi từng thấy.
Rõ ràng, bất chấp lời khuyên của chính mình, cả Francesco cũng không để cơ hội trôi qua uổng phí. Anh ta tháo băng ra và cố không nhìn thẳng vào vị Sứ giả, như thể muốn thể hiện lòng thành kính, nhưng không thể không nhìn. Với giọng nói tràn ngập niềm ngưỡng mộ tôn kính, anh ta nói, "Ngài thực linh thiêng."
Tôi choáng ngợp đến nỗi không làm được gì ngoài việc lặp lại lời anh ta nói. "Linh thiêng."
"Michael," Francesco thì thầm. "Đại Thiên thần."
Michael có lẽ cao tới hơn hai mét và mái tóc của thần thả xuống sau lưng như một dòng sông hoang dại vàng óng ả trong nắng. Hai đôi cánh không chút tì vết với sải cánh dài ít nhất bốn mét rưỡi mọc ra từ lưng thần, và thần lướt đi như thể gió tồn tại chỉ để mang thân thể hoàn mỹ của thần đi vậy. Làn da thần tỏa sáng như những tia nắng mặt trời rực rỡ nhất và thần có một đôi mắt to rực lửa. Dù thần có chung đặc điểm này với Charon, nhưng cảm giác mang lại thì hoàn toàn trái ngược: trong khi đôi mắt của người lái đò khiến ông ta trông gian giảo, đôi mắt sáng chói của Michael lại khiến người ta không thể nhìn thẳng vào.
Vị Đại Thiên thần nhẹ nhàng đáp xuống trước cánh cổng dẫn vào Dis. Những Thiên thần Nổi loạn, không dại gì đứng ngáng đường, đã đồng loạt dạt sang hai bên. Những luồng không khí lấp lánh nhảy múa khắp xung quanh Michael, lung linh run rẩy như thể cả chúng cũng không dám chạm vào thần. Tôi có thể miêu tả những màu sắc đó nhưng chẳng thể gọi tên chúng; chúng không tồn tại trong bảng quang phổ của mắt người. Lần đầu tiên tôi nhận ra những người bị mù màu đã nhìn thế giới như thế nào, vì những màu sắc đó làm tôi cảm thấy như thể mình đã luôn luôn nhìn mọi thứ, cho tới tận giây phút ấy, chỉ với một góc nhỏ nhất trong khả năng tiềm tàng của mình.
Vùng đất nơi Michael đang đứng không còn là đống tro bùn của Địa ngục nữa, mà giờ đã xanh tươi mướt mát. Những thân cây cháy rụi phủ bóng lên chúng tôi với những cành cây khẳng khiu trơ trụi giờ đã sum suê tươi tốt. Michael giơ tay lên với một vẻ duyên dáng khó tả và những vệt gỉ sét xấu xí bám trên cánh cổng bị thổi bay ngay lập tức. Ngón tay của thần chỉ lướt nhẹ trên cánh cổng, nó liền bật mở.
Đại Thiên thần quay về phía chúng tôi. Francesco cúi đầu làm dấu thánh. Tôi cứ ngẩng cao đầu, hai mắt tập trung nhìn thẳng. Không giống Francesco, vì tôi chưa bao giờ trông mong được nhìn thấy thần thánh, tôi chẳng phải lo ngại về điều sẽ xảy ra nếu tôi nhìn thấy cả.
Michael mỉm cười.
Trong giây phút ấy, lần đầu tiên tôi nhận ra mình không bị ảo giác. Tôi thực sự đang ở dưới Địa ngục, và tôi thực sự đang đứng trước mặt Thánh thần. Không nghi ngờ gì nữa: tôi quá người để có thể tưởng tượng ra thứ gì như nụ cười ấy. Đó là một nụ hôn lướt lên tất cả những bí mật tồi tệ nhất của tôi, làm chúng tan biến ngay lập tức.
Với một cái đập cánh nhẹ nhàng, Michael lại bay vút lên, như một cơn lốc xoáy quét qua mặt đất. Phía sau thần là những dải sắc màu thần mang đến, vụt bay biến lên theo thần. Màu xanh mướt của cỏ một lần nữa lại bị thay thế bởi màu xám ảm đạm của bùn. Vẻ tốt tươi của những thân cây giờ đã cạn kiệt. Những cánh cổng lại bám đầy gỉ sét, nhưng vẫn đang mở. Những màu sắc biến đi như nước tắm trong bồn chảy xuống lỗ thoát nước, chỉ có điều cái lỗ thoát nước ấy ở tít trên trời. Nơi Michael biến mất, những dải màu sắc cuối cùng đã đi theo thần qua cái lỗ nhỏ tí trên vòm Địa ngục.
Khi Francesco cuối cùng cũng thốt lên được, sau vài phút đông cứng như tượng, anh ta nói, "Anh phải đi qua cánh cổng này một mình thôi."
Tôi bắt tay Francesco. Cảm thấy hành động ấy chưa đủ thể hiện tình cảm, tôi nói với anh ta rằng tôi không biết phải cảm ơn anh ta như thế nào.
"Chính tôi," Francesco nói, "mới là người phải cảm ơn anh. Tôi không chỉ làm chuyện này vì Marianna; tôi còn làm để trả ơn nữa."
"Vì cái gì?"
"Cha tôi là một cung thủ tên Niccolò, ông đã bị giết khi còn trong đội quân condotta của Đức. Nhưng bạn ông là Benedetto đã trốn thoát với sự giúp đỡ của hai cung thủ người Đức, và ông ấy đã mang cây cung của cha tôi tới Firenze." Francesco, khi nói đến đây, đã siết chặt tay tôi. "Cây cung đó là tất cả những gì tôi biết về cha mình."
"Bản Địa ngục của tôi từng là của cha anh sao?"
"Phải. Ông ấy muốn anh giữ nó." Francesco cúi đầu thật thấp. "Grazie."
Những Thiên thần Nổi loạn không dám cản đường khi tôi đi qua cổng. Tôi biết thứ tôi sẽ thấy tiếp theo là gì: tầng Địa ngục thứ sáu, ngôi nhà của những kẻ dị giáo, đầy những nấm mộ và bia đá rực lửa. Nhưng giây phút bước qua cổng, tôi thấy mình không còn ở trong Địa ngục của Francesco nữa. Thay vào đó, tôi thấy mình đang đứng trên một vách đá trông xuống biển. Khi tôi quay người lại để nhìn về phía sau, cánh cổng của Dis đã biến mất.
Chim hải âu cắt mặt nước với những tiếng kêu quác quác đầy hân hoan. Thảm cỏ ướt đẫm sương mát lạnh và tôi có thể cảm nhận được từng ngọn cỏ cù vào da chân mình. Thân thể tôi lúc này hoàn toàn trần trụi, da tôi đã lành lại hẳn; y phục mặc trên người giờ đã biến mất, và tôi cũng không còn sợi dây chuyền có xâu đồng xu nữa. Đang là bình minh, làn gió nhẹ thổi mát lạnh, và tôi cảm thấy mình thực sự đang sống.