Chương 23 thạch sanh - lý thông
Ngày xưa, có hai vợ chồng ông lão nhà nghèo kiếm ăn bằng nghề đốn củi. Tuy tuổi đã 60 mà ông lão vẫn chưa có con nối dõi. Mặc dù đã nghèo khổ, hai vợ chồng ông lão ngày ngày vẫn hay giúp đỡ mọi người chẳng hề quản ngại vất vả nên được nhân dân xa gần đều ngợi khen. Cảm thấu tấm lòng nhân đức của hai vợ chồng ông lão, Ngọc Hoàng bèn sai thái tử xuống đầu thai làm con.
Sau ba năm chín tháng, khi bà vợ sinh được một đứa con trai thì ông chồng đã qua đời. Đứa bé sinh ra trông khôi ngô tuấn tú, vừa lọt lòng mẹ đã biết đứng biết ngồi, bà liền đặt tên cho con là Thạch Sanh và tháng ngày gắng gượng rau cháo nuôi con.
Năm Thạch Sanh lên bảy thì bà cũng qua đời. Thạch Sanh sống lủi thủi một mình bên một gốc cây đa, với cả gia tài chỉ có một chiếc rìu và lại tiếp tục nghề của cha mẹ hàng ngày vào rừng đốn củi để nuôi thân. Năm mười ba tuổi, Sanh được Ngọc Hoàng phải một ông tiên vào loại giỏi nhất trên thiên đình xuống dạy cho các môn võ nghệ và đủ mọi phép thần thông.
Một hôm, có gã hàng rượu tên là Lý Thông đi qua ngồi nghỉ mát ở gốc đa. Thấy Sanh là người có sức vóc khác thường, đoán là người được việc, Thông bèn lân la gạ chuyện rồi ngỏ ý muốn kết nghĩa anh em. Vốn lòng ngay dạ thẳng, Sanh vui vẻ nhận lời và về ở với Lý Thông.
Từ đó, được Thạch Sanh ra sức đỡ đần, mẹ con Lý Thông làm ăn buôn bán ngày càng giàu có. Thấm thoắt đã bảy năm qua.
Hồi ấy, ở trong vùng có một con Xà tinh, vốn là loài rắn đã thành tinh, chuyên phá phách, nhũng nhiễu nhân dân và bắt người ăn thịt. Huan quân triều đình nhiều lần kéo đến vây bắt nhưng không trừ nổi. Nhà vua dành bắt dân chúng lập miếu thờ và mỗi năm đem cúng cho nó một mạng người. Năm ấy không may đến lượt Lý Thông phải nộp mạng.
Nghe tin dữ, mẹ con hắn vô cùng hoảng hốt lo sợ, nhưng sau bàn mưu tính kế nghĩ ra một kế hiểm độc. Hôm đó, chờ lúc Thạch Sanh đi kiếm củi về, hắn giả mượn cớ giỗ cha, bày ra một mâm rượu thịt e hề, rồi cả hai mẹ con mời mọc chàng ân cần.
Sau đó, hắn nói với Thạch Sanh:“Đêm nay đến phiên anh phải đi canh miếu thờ để kiểm tr.a lại đĩa vàng chén ngọc theo lệnh nhà vua, ngặt vì dở cất mẻ rượu, vậy em chịu khó đi thay cho anh một đêm, đến sáng lại về”. Thạch Sanh không nghi ngờ gì cả, thuận đi ngay.
Sẩm tối hôm ấy, sau khi vượt qua mấy dặm rừng hoang tới miếu thờ, Thạch Sanh giở cơm nắm ra toan ăn thì Xà tinh hiện ra hình thù kì dị, nhe nanh giơ vuốt định vồ lấy chàng. Thạch Sanh liền vung rìu đánh nhau với yêu quái. Xà tinh giở ra nhiều phép biến hóa yêu ma, nhưng đều bị Thạch Sanh phá hết. Sau chàng dùng phép thần, tung lưới sắt bủa vây, lập tức con yêu quái phải hiện nguyên hình là một con trăn cực lớn, Thạch Sanh vung thần đao, chém ch.ết, rồi cắt lấy đầu và đốt xác yêu quái.
Xác Xà tinh vừa cháy xong bỗng biến ra một bộ cung tên bằng vàng. Sanh mừng rỡ nhặt lấy cung tên và xách đầu yêu quái chạy thẳng một hơi về nhà.
Lý Thông vốn là đứa hiểm sâu thấy vậy dọa Thạch Sanh rằng Xà tinh là của vua nuôi để làm của báu nước nhà, giết nó đi thì bị tội chém đầu chẳng chơi, và khuyên Sanh nên trốn ngay đi kẻo vạ lây cả nhà, còn có chuyện gì thì mặc hắn lo liệu.
Tưởng thật, Sanh vội vã đi ngay và trở về sống ở gốc đa, mặc cho năm tháng trôi qua, nghĩ mình phận hẩm mong gì gặp may. Còn Lý Thông thì vội vào kinh tâu vua là hắn đã chém được đầu yêu quái. Vua kinh ngạc, sai quân đi khiêng đầu yêu quái về, bấy giờ mới tin là thực và hết lời ngợi khen, phong cho Lý Thông làm quan đô đốc trong triều và cho hưởng lộc nước rất hậu.
Cũng trong thời gian này, nhà vua làm lễ kén chồng rất long trọng cho công chúa Huỳnh Nga, con gái độc nhất của vua. Lễ kén chồng kéo dài nhiều đợt, nhưng nàng vẫn không ưng ý một người nào. Kể cả thế tử các nước chư hầu cũng không ai làm đẹp lòng nàng cả.
Một hôm, công chúa dạo chơi trong vườn hoa, chẳng may bị một con Đại bàng bay ở trên cao xuống quắp bay đi. Lúc ấy, Thạch Sanh đang thẩn thơ bên gốc cây đa, thấy Đại bàng quắp một người bay qua, bèn giương cung bắn một phát trúng ngay vào cánh. Chim rơi xuống, nhưng nó vội rút ngay tên ra và lại quắp lấy người, tiếp tục bay đi.
Thạch Sanh lần theo dấu máu tìm đến một hang núi thì không thấy tăm hơi Đại bàng đâu nữa.
Mất con gái quý, nhà vua xiết bao đau đớn, các quan cử ba đội quân ra sức tìm kiếm cũng không có kết quả. Nghe lời tâu của quần thần, vua bèn sai đô đốc Lý Thông trước kia có tài chém yêu tinh, đi tìm công chúa, hứa sẽ gả nàng và nhường ngôi báu cho.
Thông lo lắng mãi mới tìm ra được một kế là mở hội hát ở kinh đô trong mười ngày cho người dân các nơi về xem để do la tin tức Thạch Sanh. Mãi đến ngày thứ mười hắn mới gặp được Thạch Sanh bước vào rạp xem hát. Thông lại giả nhân giả nghĩa tay bắt mặt mừng đón tiếp người em“kết nghĩa” cũ rất trịnh trọng. Nhân đó, hắn cho Sanh biết việc vua sai hắn đi tìm công chúa bị loài yêu quái bắt.
Sanh thật thà cho Lý Thông biết ngay tung tích của yêu quái chính là Mãnh xà vương ở hang núi, cũng chính là loài rắn đã thành tinh chuyên hóa làm chim đại bàng đi bắt người. Thế là Thông lại dùng lời đường mật, nhờ Sanh dẫn đi tìm công chúa. Thạch Sanh nhận lời. Đến chỗ của Đại bàng, Sanh dùng dây làm thang xuống hang sâu và dặn Thông hễ thấy đầu dây động đậy thì kéo lên.
Vừa xuống tới hang, đang lúng túng chưa biết cần đi về hướng nào, Sanh bỗng gặp ngay công chúa Huỳnh Nga cũng vừa đi ra. Cảm kích ơn nghĩa Thạch Sanh không quản hiểm nguy đã đến cứu mình, công chúa liền ngỏ ý xin kết nghĩa trăm năm. Sanh từ chối, cho nàng biết đây là việc của triều đình mà chàng lại muốn giữ trọn tình nghĩa anh em với Lý Thông. Nhưng công chúa vẫn quyết một lòng và nàng coi như đã“kết duyên” lành với chàng từ đấy.
Từ hôm bị trúng tên, Đại bàng bị thương nằm li bì một chỗ. Sanh đưa thuốc mê bảo công chúa dỗ Đại bàng uống, xong đem nàng buộc vào dây cho quân kéo lên. Lập tức Lý Thông sai quan quân đưa ngay công chúa về triều để hắn ở lại đánh yêu quái. Kì thực quân vừa đi khỏi, hắn vội vã ra sức lăn đá lấp kín cửa hang để hại Thạch Sanh.
Còn Huỳnh Nga công chúa lúc ấy mỏi mắt trông vời về phía sau không thấy chàng đâu cả, nàng bỗng bàng hoàng uất ức, mắc bệnh câm ngay từ bữa đó.
Lại nói về phần Thạch Sanh, sau khi cứu công chúa ra khỏi hang thì bị Lý Thông khuân đá lấp kín cửa hang không cho chàng ra nữa. Chàng tức giận giương cung bắn phá lâu đài của Xà vương. Giữa lúc đó, con yêu quái chợt tỉnh cơn mê. Thấy có người lạ đột nhập đang phá phách nhà cửa và cướp mất vợ hắn, hắn bừng bừng nổi giận xông vào đánh nhau kịch liệt với Thạch Sanh.
Hai bên giao chiến với nhau đến vài trăm hiệp mà vẫn không phân thắng bại. Xà vương trổ hết mọi phép yêu ma ghê gớm ra nhưng đều bị Thạch Sanh dùng phép thần thông phá hết. Cuối cùng hết phép, Đại bàng biến thành con chim nhỏ như con chim khách, toan trốn đi, nhưng Thạch Sanh đã kịp thời hóa phép phủ vây lưới sắt và giương cung bắn ch.ết.
Sau đó, Sanh vung thần đao phá tan cung điện đồ sộ nguy nga của Mãnh xà vương, nhân đó cứu được cả con vua Thủy tề bị Đại bàng bắt nhốt trong cũi sắt đã một năm ròng. Thái tử cảm tạ ơn sâu của Thạch Sanh và mời chàng xuống thủy cung chơi.
Thạch Sanh được vua Thủy tề tiếp đãi rất trọng thể, ban cho trăm lạng vàng bạc để cảm ơn, nhưng Thạch Sanh từ tạ không nhận. Thủy vương lại khẩn khoản mời chàng ở lại hẳn dưới thủy cung nhưng chàng cũng nhất định từ chối. Thủy vương đành giữ chàng ở lại chơi vài ngày.
Thái tử dẫn chàng đi xem khắp năm cung trong ngoài. Hai người mải mê dạo chơi, bất ngờ lạc bước dưới thành trì của một loài yêu quái. Nó vốn là con Hồ tinh chín mắt rất lợi hại và ngạo ngược chưa ai trị nổi. Nó hóa thành một cô gái xinh đẹp đứng đón đường ngỏ lời trêu ghẹo hai chàng.
Thạch Sanh liền vạch chân tướng nó là loài yêu quái, nó bèn hiện hình thành Hồ tinh chín mắt, xông vào toan vồ bắt cả hai chàng.
Thạch Sanh vung đao thần, rồi giương cung, bổ búa, đấu quyền với nó suốt một ngày ròng nó vẫn không nao núng. Sau chàng dùng phép thần giao tranh với nó, nó mới chịu thua và phải hiện nguyên hình là con hồ li (tức con cáo). Thạch Sanh rộng lượng tha cho nó được sống để tu tỉnh.
Ban thưởng công lao, vua Thủy tề liền phong cho chàng làm quốc trạng. Chàng xin trở về dương thế. Để đền ơn Thạch Sanh, Thủy vương nghe lời thái tử biếu chàng chiếc đàn thần của Ngọc Hoàng thượng đế đã ban cho vua hồi trước. Sau đó, thái tử đưa tiễn chàng về. Thạch Sanh lại trở về sống bên gốc đa như cũ.
Công chúa Huỳnh Nga từ lúc thoát nạn yêu quái lại bị bệnh câm. Vua cha vô cùng thương xót, buồn bã, đành ra lệnh hoãn việc hôn nhân của nàng với Lý Thông để chữa cho nàng khỏi bệnh đã. Vua thì lo lắng thuốc thang và khấn vái Trời Phật; Lý Thông thì lập đàn mời pháp sư, phù thủy cúng lễ linh đình, hàng tháng ròng mà Huỳnh Nga vẫn“chẳng nói chẳng rằng, miệng hoa âm ỉ chẳng hằng nói chi”.
Còn nói về Trăn tinh và Mãnh xà vương sau khi ch.ết, hồn chúng không ai cúng lễ, đành sống bơ vơ, chui rúc bụi hồ, rồi chuyên đi ăn trộm, bắt gà, bắt chó quấy nhiễu, tàn hại người dân để kiếm ăn. Một đêm, chúng tình cờ gặp nhau và kể lể cho nhau nghe về số phận của mình, rồi bàn kế báo thù Thạch Sanh.
Chúng lẻn vào kho nhà vua ăn trộm vàng bạc rồi giả tảng trỏe đi trở lại để bọn lính canh dõi theo chân chúng tới gốc đa. Chúng quẳng đồ ăn trộm vào chỗ Thạch Sanh đang nằm ngủ để đổ vạ cho chàng. Huả nhiên, Thạch Sanh bị bắt, giải về trình Lý Thông. Thông rất kinh ngạc, sai quân đem tống giam Thạch Sanh. Hắn ra lệnh phải căn phòng nghiêm mật và rắp tâm đợi ba ngày sau sẽ tự ý thừa mệnh lệnh triều đình, đem xử tử luôn chàng đi cho kín chuyện cũ.
Ngồi trong ngục, Thạch Sanh buồn tình đem đàn ra gảy… Không ngờ tiếng đàn thần bỗng nỉ non, thánh thót như oán, như than, vạch tội Lý Thông ăn ở bất nhân phụ nghĩa và trách nàng công chúa không giữ lời ước hẹn.
“Đàn kêu tích tịch tình tang
Ai mang công chúa dưới hang trở về…”
Tiếng đàn văng vằng bay thấu vào tới cung vua, Huỳnh Nga đang ngồi ủ rũ mày hoa, thoắt nghe thấy tiếng đàn ai oán như khóc, như than bỗng khỏi câm liền. Nàng thốt lên nụ cười nói tâu với vua cha xin cho đòi người gảy đàn vào cung để nàng gặp mặt. Nàng tỏ bày luôn sự tình được kể lể trong tiếng đàn ai oán cho nhà vua biết. Nhờ đó Thạch Sanh được giải oan.
Nhà vua bèn mở yến tiệc đãi chàng, phong cho chàng hai chức quận công do hai lần có công trạng lớn và cho kết duyên với công chúa Huỳnh Nga.
Còn về phần Lý Thông, vua giao cho Thạch Sanh tùy ý xử tội. Sanh xin vua tha tội ch.ết cho hắn và cho hắn trở về quê quán làm ăn. Nhưng hai mẹ con hắn về đến giữa đường thì bị Ngọc Hoàng sai Thần Sét đánh ch.ết đúng như lời hắn đã thề nguyền khi kết nghĩa anh em với Thạch Sanh xưa kia.
Җo tội bạo ngược, ăn ở hai lòng của hắn, Ngọc Hoàng lại bắt Lý Thông hóa làm kiếp bọ hung, đời đời sống trong nhơ bẩn.
Được tin công chúa Huỳnh Nga kết duyên với Thạch Sanh là một anh chàng khố rách nghèo hèn, thế tử các nước chư hầu trước kia từng bị công chúa cự tuyệt bèn nổi giận, rủ nhau hợp binh kéo đến báo thù. Khí thế quân mười tám nước chư hầu vô cùng mạnh mẽ, đi tới đâu làm cho núi lở, sông cạn tới đó, phá tan hoang luôn năm cửa ải. Huân triều đình đi tiếp ứng tới đâu bị đánh tan tác tới đấy.
Nhà vua vô cùng hoảng sợ bèn vời Thạch Sanh vào và nhờ chàng đem binh đi đánh giặc. Thạch Sanh tâu với nhà vua cứ để cho quân địch kéo đến bao vây kinh thành, chàng sẽ ra tay.
Chờ cho giặc bổ vây bốn mặt thành trùng trùng điệp điệp và không ngớt lời reo hò khiêu khích, Thạch Sanh mới đem đàn thần ra gảy. Đàn bỗng kêu lên“tích tịch tình tang”, vạch ra điều hơn lẽ thiệt, phải trái phân minh cho hàng vạn quân địch nghe.
“Đàn kêu nhân nghĩa thủy chung
Thánh tha thánh thót muôn lòng xôn xao…”
Tiếng đàn khi cứng rắn đanh thép, lúc lại mềm rẻo khuyên lơn khiến cho quân tướng mưới tám nước dần dần phải thoái chí, quy hàng một loạt. Chúng xin cấp lương ăn để về nước. Thạch Sanh ra lệnh cấp cho chúng mười tám hộc lương. Chúng chê ít, Thạch Sanh sai đem chiếc niêu của chàng ra thổi cơm cho chúng ăn. Huân mười tám nước trông thấy niêu cơm đều hết thảy ngao ngán.
Thạch Sanh đố chúng ăn hết sẽ trọng thưởng. Hàng vạn quân lính ào ào ăn mãi mà niêu cơm cứ vơi rồi lại đầy, ăn không sao hết được. Thế là một lần nữa chúng lại nhất loạt phải quy phục chàng.
Sau khi chiến thắng quân mười tám nước chư hầu, Thạch Sanh được nhà vua làm lễ nhường ngôi cho chàng, để chàng đem tài ra trị vì đất nước. Huỳnh Nga công chúa cũng được nhà vua ban chiếu phong cho làm hoàng hậu. Hai năm sau, hoàng hậu Huỳnh Nga sinh được một trai, một gái, thế là đất nước thịnh trị, gia đình hòa vui…