Chương 44 nghìn lẻ một đêm - chuyện người đánh cá
2. Bốn con cá có màu sắc khác nhau cùng những chuyện kỳ lạ
Hoàng đế bắt từng con lên xem xét một cách chăm chú. Và, sau khi ngắm nghía hồi lâu, nhà vua truyền cho tể tướng:“Khanh hãy mang những con cá này đến chỗ con đầu bếp khéo tay mà hoàng đế Hy Lạp gửi đến biếu ta; ta cho rằng những con cá đẹp thế này ăn chắc sẽ ngon”. Tể tướng thân hành mang cá đến tận tay chị đầu bếp và nói:“Đây là bốn con cá có người vừa mang đến dâng hoàng đế. Người ra lệnh cho mày nấu cho ngài dùng.”
Làm xong công việc được giao, tể tướng trở lại; hoàng đế lại sai ông ta trao cho lão đánh cá bốn trăm đồng vàng. Vị đại thần làm ngay rất chu đáo. Lão đánh cá chưa bao giờ có một lúc trong tay một món tiền to như vậy, bàng hoàng trước niềm hạnh phúc, và tưởng như mình đang trong giấc mơ. Nhưng lão hiểu ngay ra đây là cảnh thực, lão có thể dùng nón tiền này để chi dụng trong gia đình. Lão ra về…
Còn người đầu bếp của vua, chị ta đang ở trong tình cảnh vô cùng bối rối. Thoạt tiên, chị rửa sạch những con cá tể tướng vừa mang lại, bỏ vào xoong, cho dầu và đặt lên lò để rán; đến chừng cho rằng cá đã chín một mặt, chị lật sang mặt kia. Nhưng, kỳ lạ xiết bao! vừa lật những con cá lại thì lập tức tường nhà bếp tự dưng mở ra. Từ đó bước ra một cô nương trẻ tuổi, xinh đẹp tuyệt trần và hình dáng thanh tú: nàng bận một chiếc áo xa tanh hoa, kiểu Ai Cập, tai đeo hoa, ở cổ là một chuỗi ngọc lớn và những vòng vàng nạm hồng ngọc, tay cầm một chiếc đũa bằng gỗ sim. Nàng đến cạnh cái xoong, và trước sự ngạc nhiên của chị bếp đang đứng im như phỗng, nàng đưa đầu gậy gõ vào một con cá mà nói:“Này cá, này cá, mi có làm phận sự không?”. Cá không trả lời, nàng nhắc lại câu hỏi đó, thế là cùng một lúc bốn con cá cùng ngẩng đầu lên và cùng nói rất rành mạch:“Vâng, vâng, nếu các ngài đếm thì chúng tôi đếm; nếu các ngài trả nợ các ngài thì chúng tôi trả nợ của chúng tôi, nếu các ngài chạy trốn thì chúng tôi thắng, và chúng tôi lấy làm hài lòng”. Bốn con cá nói xong những lời đó, cô nương trẻ tuổi liền hất đổ cái xoong và quay lại chỗ bức tường mở ra lúc nãy, tường đóng lại ngay trở về nguyên hình như cũ.
Khi chị bếp khiếp đảm vì bấy nhiêu điều kỳ diệu, tỉnh ra khỏi nỗi kinh hoàng và đi nhặt những con cá rơi trên lửa, thì tất cả đều đã cháy đen hơn than, không còn có thể dâng lên nhà vua được nữa. Chị ta hết sức đau khổ và bắt đầu lớn tiếng khóc gào:“Than ôi! Thân tôi rồi sẽ ra sao? Җù tôi kể lại cho hoàng đế nghe những điều tôi vừa thấy, cầm chắc Người cũng chẳng tin nào, và cơn thịnh nộ của Người đối với tôi sẽ ghê gớm đến đâu!”
Chị ta đang rầu rĩ như vậy thì tể tướng bước vào, hỏi cá đã nấu xong chưa. Chị thuật lại tất cả những gì vừa xảy ra, và chúng ta cũng có thể hiểu được. Câu chuyện ấy làm, cho tể tướng hết sức ngạc nhiên; nhưng ông không về tâu lại với hoàng đế mà lại đi bịa ra một lý do nào đó cũng lọt được tai Người. Đồng thời ông sai người đi gọi lão đánh cá đến ngay lập tức. Khi lão đến, ông bảo:“Này lão đánh cá kia, hãy mang đến cho ta bốn con cá khác giống như những con hôm qua lão mang tới đây, vì một việc không may xảy ra, làm cho những con cá hôm qua không dâng lên hoàng đế được”. Lão đánh cá không nói ra ngay điều hung thần căn dặn, nhưng để khỏi phải nộp cá ngay trong ngày hôm đó, lão tả sự đường xá xa xôi để xin khất đến sáng sớm mai sẽ mang đến nộp đủ.
Lão đánh cá vội vã đi ngay trong đêm đến ven đầm. Lão buông lưới, kéo lên và lại bắt được đúng bốn con cá, mỗi con một màu khác nhau, đúng y như lần trước. Lão liền quay trở về và mang đến cho tể tướng ngay, kịp thời hạn đã hứa. Vị đại thần nhận cá và cũng lại thân hành mang đến cho nhà bếp; rồi một mình ông ở lại cùng chị bếp. Chị ta bắt đầu mổ cá ngay trước mặt tể tướng rồi đặt lên lò đúng như cách thức chị đã làm bốn con cá ngày hôm qua. Khi cá rán đã chín mặt này, chị lật để rán mặt kia, thì tường nhà bếp tự dưng lại mở ra, và cũng chính cô nương ấy xuất hiện, tay cầm chiếc đũa. Nàng đến cạnh cái xoong, gõ vào mặt con cá và nói lên những lời y như ngay hôm trước; tất cả bốn con cá đều ngẩng đầu và trả lời đúng như câu đã hỏi.
Bốn con cá trả lời xong, cô nương trẻ lại dùng đũa hất đổ cái xoong, rồi lại trở về đúng chỗ bức tường vừa mở ra để cho nàng xuất hiện. Tể tướng chứng kiến tất cả cảnh đó.“Kỳ dị quá, khác thường quá, không thể nào giấu Hoàng đế được,– ông nói,– ta phải đến tâu ngay cho Người rõ điều kỳ lạ này”. Nói xong, ông đi tìm nhà vua ngay và kể lại cho vua nghe một cách trung thực câu chuyện vừa rồi.
Hoàng đế rất đỗi ngạc nhiên, và nôn nóng muốn tự mắt nhìn thấy ngay điều kỳ diệu đó. Vì vậy, nhà vua sai đi tìm lão đánh cá đến và phán:“Này lão kia, lão có thể lại mang đến cho ta thêm bốn con cá nữa màu sắc khác nhau không?”. Lão đánh cá tâu:“Nếu hoàng đế rộng lòng cho hạn trong ba ngày thì lão xin hứa là sẽ làm vừa lòng Người”. Được nhà vua đồng ý. Lão lại đi đến cái đầm lần thứ ba, và lần này cũng may mắn không kém hai lần trước, bởi vì ngay từ mẻ lưới đầu tiên, lão đã bắt được bốn con cá khác màu. Lão không quên mang đến ngay lập tức cho hoàng đế: Nhà vua càng hài lòng vì không nghĩ là chóng có được cá đến thế, liền hạ lệnh ban cho lão thêm bốn trăm đồng vàng.
Vừa có cá, lập tức nhà vua sai mang đến cung điện của mình tất cả những thứ cần thiết cho việc nấu nướng. Hoàng đế và tể tướng đóng chặt cửa lại, vị đại thần làm cá, cho vào chảo bắc lên bếp, rồi khi cá chín mặt này, tể tướng lật sang rán mặt kia. Thế là tường cung điện nứt ra nhưng lần này không phải là cô nương trẻ tuổi mà là một tên da đen bước ra. Tên da đen mặc áo quần nô lệ, người cực kỳ cao to, tay cầm một chiếc gậy lớn màu lục. Nó tiến đến cạnh cái chảo bắc trên bếp, đưa gậy gõ vào một con cá và nói giọng dữ tợn:“Này cá, này cá, mi có làm phận sự không?” Nghe hỏi con cá ngẩng đầu lên và đáp:“Vâng, vâng chúng tôi đang làm phận sự; nếu các ngài đếm thì chúng tôi cũng đếm; nếu các ngài trả nợ của các ngài thì chúng tôi trả nợ của chúng tôi; nếu các ngài chạy trốn thì chúng tôi thắng, và chúng tôi lấy làm hài lòng.”
Các con cá chưa nói dứt lời, tên da đen đã đánh đổ cái chảo làm cho cá cháy thành than. Làm xong, nó ngạo nghễ rút lui, trở vào chỗ bức tường mở ra lúc nãy, và bức tường lại khép lại y nguyên như cũ. Nhà vua bảo tể tướng:“Sau khi đã nhìn thấy những việc vừa rồi, đầu óc ta không thể nào thanh thản được. Chắc chắn những con cá này nói lên một điều gì đó dị thường mà ta muốn làm sáng tỏ”. Nhà vua sai tìm lão đánh cá, người ta dẫn lão đến. Nhà vua nói:“Này lão đánh cá, những con cá ngươi mang đến gây cho ta lắm nỗi băn khoăn. Người bắt những con cá ấy ở nơi đâu?”
– Tâu bệ hạ, thần đánh ở một cái đầm nằm giữa bốn quả đồi phía bên kia quả núi mà ta thấy kia.
– Khanh có biết cái đầm ấy không?– nhà vua quay hỏi tể tướng.
– Tâu bệ hạ, không, và thần cũng chẳng nghe ai nói đến bao giờ, mặc dù từ sáu mươi năm nay thần vẫn đi săn quanh vùng này và từng sang bên kia quả núi ấy.
Hoàng đế hỏi từ hoàng cung đến cái đầm ấy bao xa: lão đánh cá quả quyết đi bộ không quá ba tiếng đồng hồ. Nghe lời quyết đoán ấy, và vì hãy còn đủ sớm để có thể đến nơi trước khi trời tối, nhà vua ra lệnh cho tất cả triều thần lên ngựa: lão đánh cá làm nhiệm vụ dẫn đường.
Họ leo lên núi và khi đổ xuống sườn bên kia, mọi người hết sức ngạc nhiên thấy một cánh đồng rộng từ trước đến hay chưa từng ai đến. Cuối cùng họ đến tận cái đầm nằm giữa bốn quả đồi, đúng như lão đánh cá đã thuật. Nước trong đầm trong leo lẻo đến nỗi có thể nhìn thấy rõ tất cả các con cá giống hệt như những con lão chài từng mang đến hoàng cung dâng vua.
Hoàng đế dừng lại bên bờ đầm, và sau một lúc say sưa ngắm đàn cá, nhà vua hỏi các quan thượng thư và tất cả triều thần, làm sao lại có thể chưa hề có ai trông thấy cái đầm chẳng cách thành phố bao xa này. Các quan đáp họ cũng chưa từng nghe nói đến bao giờ. Nhà vua phán:“Bởi tất cả các ngươi đều bảo là chưa một ai từng nghe nói đến, và ta cũng ngạc nhiên không kém trước sự mới lạ này, ta quyết định sẽ không trở lại hoàng cung chừng nào chưa hiểu rõ vì tao cái đầm này có ở đây, và vì sao cá trong đầm lại có bốn màu”. Nói xong, nhà vua ra lệnh hạ trại; lập tức hành cung của nhà vua và các lều vải của triều thần được dựng lên ngay bên bờ đầm.
Chập tối, hoàng đế lui về hành cung, cho gọi riêng tể tướng đến bảo:“Khanh này, đầu óc ta băn khoăn kỳ lạ: cái đầm chẳng biết từ đâu dời đến chốn này, tên da đen xuất hiện trong cung điện của ta, những con cá mà chúng ta đã nghe nói đến, tất cả những cái đó kích thích mạnh mẽ tính hiếu kỳ của ta đến nỗi ta không sao nén được lòng nôn nóng muốn biết cho tận tường. Ta sẽ một mình đi xa nơi hạ trại, ta ra lệnh cho khanh hãy giữ kín không cho ai biết là ta vắng mặt; khanh hãy ở trong hành cung của ta; và sáng sớm mai khi các thượng thư và quần thần đến chầu, khanh hãy cho họ lui về, bảo rằng ta hơi khó ở và không muốn tiếp ai. Những ngày sau đó, khanh cứ tiếp tục nói với họ như vậy cho đến khi ta trở về.”
Tể tướng trình bày nhiều lý do, cố làm cho nhà vua thay đổi ý kiến; ông nói đến những điều nguy hiểm, những nỗi gian lao nhà vua sẽ phải trải qua một cách vô ích. Nhưng mặc cho ông dở hết tài hùng biện, hoàng đế vẫn không thay đổi ý định của mình, lại chuẩn bị thực hiện nó. Người mặc một bộ áo quần thuận tiện cho việc đi bộ, mang theo một thanh gươm, và khi thấy mọi nơi trong trại đều yên tĩnh, vua ra đi một mình không đi cho ai theo hầu.
Nhà vua hướng theo một quả đồi mà đi, và leo lên sườn đồi cũng chẳng khó nhọc bao nhiêu. Đường xuống càng dễ đi hơn; và khi đã tới đồng bằng, nhà vua tiếp tục đi mãi tới khi mặt trời mọc. Trông thấy đằng xa, trước mặt mình có một tòa nhà lớn, nhà vua lấy làm mừng, hy vọng rằng đến đấy sẽ có thể biết rõ được điều đang muốn biết. Đến gần, nhà vua nhận ra đấy là một cung điện tráng lệ, hay đúng hơn là một lâu đài rồi kiên cố, xây bằng cẩm thạch đen nhánh, mặt ngoài bọc thép mịn và nhẵn bóng như gương. Thú vị vì đi chưa bao lâu đã gặp được một vật ít ra cũng xứng đáng với sự hiếu kỳ của mình, nhà vua dừng lại trước cửa lâu đài và ngắm nghía rất chăm chú.
Tiếp đó, nhà vua đến sát cái cổng có hai cánh cửa, một cánh bỏ ngỏ. Mặc dù có thể tự do bước vào, nhà vua vẫn cho là nên gõ cửa. Nhà vua gõ một tiếng nhè nhẹ và chờ ít lâu: không thấy ai ra, tưởng người ta chưa nghe, nhà vua lại gõ một tiếng nữa mạnh hơn nhưng vẫn chẳng thấy, chẳng nghe ai đến: nhà vua lại đập mạnh hơn nữa, và lần này cũng vẫn chẳng có ai xuất hiện. Điều đó làm cho nhà vua cực kỳ kinh ngạc, bởi vì không thể nghĩ rằng một tòa lâu đài được bảo quản tốt như thế này lại bị bỏ đi không có ai ở.“Nếu không có ai ở”– nhà vua tự nhủ–“ta chẳng có gì mà sợ; nếu có người thì ta đã có cách để mà tự vệ.”
Cuối cùng, hoàng đế bước vào, và đi băng qua một cái tiền đình. Nhà vua cất tiếng nói to:“Không có ai ở đây sao, để mà tiếp một người khách lạ qua đường muốn xin ngụm nước!”. Nhà vua nhắc lại câu đó hai ba lần: nhưng mặc dù nói khá to, vẫn không có tiếng trả lời. Sự im lặng càng làm cho nhà vua kinh lạ. Nhà vua đi ngang qua một cái sân rất rộng, và đưa mắt nhìn bốn phía xem thử có tìm được ai chăng, nhưng vẫn không hề trông thấy một bóng người.
Không thấy có ai ở sân, hoàng đế bước vào các căn phòng rộng, ở đây những tấm thảm trải đều bằng lụa quý, các bục gỗ và sập ngồi đều bọc vải La Mếchcơ và rèm cửa thì bằng vải Ấn Độ loại đắt tiền nhất, dát vàng và bạc. Nhà vua bước tiếp sang một phòng khách tuyệt diệu, chính giữa là một bể nước lớn có bốn con sư tử bằng vàng ròng, mỗi con chầu một góc. Miệng các con sư tử phun nước, nước rơi xuống trông chẳng khác gì kim cương và ngọc quý; cảnh tượng ấy hòa hợp nhịp nhàng với một tia nước vọt ra từ trung tâm bể, và lên cao cho tới chạm một cái vòm trang trí hoa văn theo lối Ả Rập.
Bao quanh lâu đài từ ba phía là một khoảnh vườn mà những bồn hoa, những hồ nước, những lùm cây và cơ man là vật trang hoàng đua nhau tô điểm; và cuối cùng, điều làm cho chốn ấy trở thành tuyệt diệu là muôn vàn chim chóc cất tiếng hót vang lừng không gian những khúc hát du dương; đàn chim thường xuyên sống ở đây vì đã có những tấm lưới căng bên trên cây cối và trên cả tòa lâu đài, ngăn không cho chúng bay đi.
Nhà vua thơ thẩn dạo hồi lâu từ gian này sang gian khác, gian nào cũng đều rộng lớn, đều tráng lệ. Khi đi đã mệt, nhà vua ngồi nghỉ ở một phòng làm việc trống rỗng trông ra vườn, và miên man suy nghĩ về những vật đã nhìn và đang nhìn thấy, thì đột nhiên một giọng than vãn và những tiếng rên la ai oán đập vào tai. Nhà vua nghe rành mạch những lời buồn thảm:“Hỡi định mệnh! mi đã không muốn cho ta hưởng thụ lâu một cuộc đời hạnh phúc, mi đã biến ta trở thành con người bất hạnh nhất loài người, xin thôi đừng hành hạ ta nữa, hãy cho ta ch.ết nhanh để chấm dứt những nỗi đau khổ này. Hỡi ôi! làm sao ta vẫn còn sống đây sau khi đã trải qua bấy nhiêu khổ ải?”
Hoàng đế xúc động vì những lời than thở đáng thương, liền đứng dậy và đi về hướng tiếng nói phát ra. Đến trước cửa một căn phòng rộng, nhà vua vén rèm nhìn vào và trông thấy một chàng trai trẻ khôi ngô ăn mặc rất sang trọng ngồi trên một chiếc ngai hơi cao hơn mặt đất. Mặt chàng ảo não. Nhà vua đến gần và chào. Chàng trai trẻ đáp lễ bằng cách cúi đầu rất thấp song không đứng lên:“Thưa ngài,– chàng nói với nhà vua,– tôi biết rằng lẽ ra tôi phải đứng lên hầu tiếp ngài với tất cả nghi lễ xứng đáng với cương vị ngài, nhưng vì vấp phải một trở ngại quá to lớn cho nên không thể làm được, mong ngài miễn tội cho.”
– Thưa ngài,– nhà vua đáp,– tôi rất biết ơn những lời tốt đẹp của ngài đối với tôi. Còn về cái việc ngài không tiện đứng lên, cho dù nguyên nhân thế nào đi chăng nữa, xin ngài chớ có bận tâm. Bị lôi cuốn bởi những lời than thở của ngài, xúc động sâu sắc trước nỗi khổ ải của ngài, tôi đến đây mong được giúp đỡ ngài. Nếu Thượng đế cho tôi được phép làm nhẹ bớt những sự đau đớn của ngài, thì tôi nguyện mang hết sức lực của mình ra làm cho bằng được. Tôi mong ngài hãy vui lòng kể cho tôi nghe những điều bất hạnh của ngài; nhưng trước hết xin hãy nói cho tôi rõ cái đầm ở gần đây trong đó cá có bốn màu sắc khác nhau ý nghĩa ra làm sao, tòa lâu đài này là thế nào, tại sao ngài lại ở đây và vì đâu ngài chỉ có mỗi một mình?
Đáng lẽ trả lời những câu hỏi đó, chàng trai trẻ lại khóc lóc thảm thiết:“Định mệnh mới trớ trêu làm sao! Nó thích hạ xuống thấp những người mà nó từng đưa lên cao. Đâu là những người được hưởng thụ một cách thanh bình hạnh phúc nó ban cho, đâu là những người có cuộc sống luôn luôn yên lành và trong sáng?”
Cảm thương tình cảnh chàng trai trẻ, nhà vua khẩn khoản yêu cầu chàng nói rõ cái gì đã làm cho chàng đau khổ sâu sắc dường ấy,“Than ôi!– chàng trai trẻ đáp,– làm sao tôi có thể không đau buồn, thưa ngài? Làm sao đôi mắt tôi có thể không là những suối lệ chẳng bao giờ khô cạn?” Nói đến đây, chàng vén áo lên để nhà vua trông thấy chàng chỉ là người từ đầu đến thắt lưng, còn từ nửa người trở xuống là bằng cẩm thạch đen.
Hoàng đế hết sức kinh lạ khi trông thấy tình cảnh đáng thương của chàng trai trẻ. Nhà vua nói:“Điều ngài cho thấy đó làm cho tôi kinh rợn và kích thích sự hiếu kỳ của tôi; tôi nóng lòng muốn biết câu chuyện của ngài mà tôi tin là rất kỳ lạ; và tôi tin chắc rằng cái đầm và những con cá kia đều có dính líu vào; bởi vậy xin ngài hãy kể cho tôi nghe; ngài sẽ cảm thấy như được an ủi chừng nào, vì những kẻ đau khổ bao giờ cũng cảm thấy nhẹ nhõm chút ít khi thuật lại những điều đau khổ của mình với người khác.”
– Tôi không muốn từ chối những đòi hỏi đúng đắn của ngài– chàng trai trẻ đáp– mặc dù không thể thuật lại mà không khuấy động những nỗi đau như dao cắt; nhưng xin báo trước để ngài chuẩn bị đôi tai, bộ óc và cả đôi mắt nữa, bởi vì những điều ngài sắp nghe đây vượt xa tất cả những gì mà trí tưởng tượng có thể hình dung là dị thường nhất.