Chương 16: Mê cung
Ngày 24 tháng 7, 4 giờ 38 phút
Avignon, Pháp
Khi tiếng sấm vang lên từ bên ngoài lâu đài, Kat vẫn đang chờ Vigor. Ngài linh mục đã đi xuống chỗ cầu thang tối om cách đây mười lăm phút.
“Để nhìn thử xem sao.” Ông nói.
Cô rọi đèn pin xuống cầu thang.
Ông ấy ở đâu nhỉ?
Cô tính đi theo ông, nhưng sự thận trọng giữ cô ở lại nguyên vị trí. Nếu ông ta gặp chuyện gì chắc ông ta sẽ kêu lên. Cô nhớ tới chuyện bị một tảng đá làm họ bị kẹt cứng trong ngôi mộ Thánh Peter. Nếu như có điều gì xảy ra ở đây? Ai biết đâu mà tim họ?
Cô vẫn ở đó, nhưng quỳ người xuống gọi: “Vigor!”
Những tiếng bước chân trả lời cô, vội vã, trèo lên từ dưới kia. Một ánh đèn mờ mờ, rõ dần. Vigor trèo lên giữa bậc thang. Ông vẫy cô lại.
“Cô phải nhìn thứ này.”
Kat thở một hơi dài. “Chúng ta nên đợi Gray và những người khác gọi đã.”
Vigor trèo thêm một bậc nữa, cau mày. “Tôi cũng quan tâm như cô thôi, nhưng rõ ràng ở đây có những bí mật cần được giải. Đó cũng là mục đích chúng ta được cử đến đây như một nhóm tiền trạm. Làm như vậy chính là cách chúng ta giúp những người khác. Long Đình và tất cả những kẻ khác đang ở Thụy Sỹ. Có lẽ phải mất hàng giờ đồng hồ nữa chúng mới tới đây được. Chúng ta cần tranh thủ thời gian này đừng để lãng phí.”
Kat ngẫm nghĩ điều ông ta nói. Cô lại nhìn đồng hồ. Cô cũng nhớ việc Gray không hài lòng về chuyện tỏ ra quá thận trọng. Nhưng cô cũng rất tò mò.
Cô gật đầu. “Nhưng chúng ta cần kiểm tr.a mỗi lần mười lăm phút để chờ Gray gọi đến.”
“Tất nhiên rồi.”
Kat đeo túi lên vai rồi vẫy ông ta xuống dưới. Cô đặt một trong những chiếc điện thoại di động vào lò sưởi để có thể tiếp nhận bất cứ cuộc gọi nào gọi tới rồi để lại ít nhất một dấu vết nếu như họ bị đóng lại mắc kẹt dưới đó cũng có thể phát hiện được.
Trong khi cô bị chê trách là quá thận trọng thì cô cũng không phải là kẻ khinh xuất.
Cô nhường lại điều này cho Gray.
Kat cúi xuống theo sau Vigor. Cầu thang dẫn thẳng một đoạn sau đó quành lại rồi chui xuống sau hơn. Kỳ lạ là không khí xem ra khô ráo hơn là tối.
Cầu thang dẫn đến một cái hầm ngắn.
Bước chân của Vigor vội vàng hơn.
Theo sau tiếng vọng lại từ bước chân của vị linh mục, Kat cảm thấy có một cái hang lớn nằm ngoài. Điều này được khẳng định ít phút sau.
Cô bước tời một cái kè đá dài chừng ba mét. Ánh sáng từ đèn pin của hai người tỏa rộng ngang qua mái vòm tròn, nơi đây ở trên cũng như dưới. Chắc trước đây một thời nó là một cái hang tự nhiên bằng đá granit, nhưng người ta đã mất rất nhiều công để cải tạo.
Quỳ xuống, cô lấy tay lần theo những phiến đá phía dưới chân, rõ ràng chúng là các tảng đá cẩm thạch thô được gắn lại. Đứng lên, Kat rọi ánh sáng vào bốn phía và xuống phía dưới.
Những nghệ nhân tài hoa đã xây một loạt mười hai cái kèo bằng gạch cao từ trần xuống tới nền ở dưới. Địa điểm này hình dáng tương tự như một hình tròn. Bậc trên lại cao hơn bậc dưới, giống như một nhà hát lộ thiên hoặc một kim tự tháp lộn ngược.
Cô chiếu ánh sáng ngang qua khu vực.
Nó không phải là trống rỗng.
Cái vòm bằng đá granit dày chạy từ những chiếc kèo do cái cây cột lớn đỡ. Kat nhận ra đường vòm cong. Những trụ tường bay. Giống như những cái cột đỡ trong những nhà thờ Gô-tích. Thực ra, cả khu vực này có vẻ vừa rất cao sang vừa không có trọng lượng của một cái nhà thờ.
“Cái này được xây dựng cho các hiệp sỹ Templar.” Vigor nói, đi dọc theo cái kè. “Chưa bao giờ tôi thấy cái tương tự như thế này. Một bản hợp ca của hình học và kiến trúc. Một bài thơ bằng đá. Kiến trúc Gô-tích với sự hoàn hảo nhất của nó.”
“Một cái nhà thờ ngầm dưới lòng đất.” Kat lẩm nhẩm, bái phục.
Vigor gật đầu. “Nhưng nhà thờ dùng để tôn vinh lịch sử, nghệ thuật và tri thức.” Ông dang rộng đôi tay.
Song cái đó lại không cần thiết.
Những trụ bằng đá chỉ làm mỗi nhiệm vụ là đỡ một mê cung của các cột gỗ. Những cái giá, phòng ốc, bậc và cầu thang. Thủy tinh vung vãi. Vàng lấp lánh. Nó đã chứa cả một kho sách vở, cuộn giấy, văn bản, di tích, tượng và những đồ vậ lạ lùng bằng đồng. Mỗi bước chung quanh hình như mở ra chân trời mới giống như một viễn cảnh rực rỡ. Các bức họa, những góc cạnh không thể tưởng tượng được, những mâu thuẫn về góc độ được đá và gỗ hỗ trợ.
“Đây là một cái thư viện khổng lồ.” Kat nhận xét.
“Và là bảo tàng, nhà kho và nơi trưng bày.” Vigor kết thúc. Ông vội vã bước sang phía trên.
Một cái bàn đá giống như bàn thờ không xa nơi cửa hầm.
Một cuốn sách gáy bọc da mở ra dưới thủy tinh… thủy tinh vàng.
“Tôi sợ không dám chạm vào đó,” Vigor nói. “Nhưng cô có thể nhìn được rất rõ qua đó.” Ông rọi đèn xuống những trang đã mở.
Kat liếc nhìn cuốn sách. Nó được trang trí toàn bằng sơn dầu. Một văn bản minh họa. Những văn tự nhỏ li ti ở phía dưới trang. Nó có vẻ như một danh sách.
“Tôi nghĩ đó là danh mục của toàn thể thư viện.” Vigor nói. “Một cái kè và một hệ thống nạp tư liệu. Nhưng tôi cũng không chắc lắm.”
Bàn tay của linh mục để hờ trên cái hộp thủy tinh rõ ràng là sợ không muốn chạm vào đó. Họ đã biết được hiệu quả của những nguyên liệu siêu dẫn nhu vậy rồi. Kat lui lại. Cô để ý là toàn bộ khu vực này lấp lánh loại thủy tinh tương tự, ngay cả các bức tường của các vị kèo cũng có những đĩa thủy tinh xen kẽ, gắn chìm vào như những cánh cửa sổ, khám đá quý.
Điều đó có nghĩa gì?
Vigor vẫn cúi xuống cuốn sách. “Đây rồi nó liệt kê bằng tiếng Latinh Đá thần của Thánh Trophimus”
Kat nhìn ông chờ một lời giải thích.
“Ông ta là một vị thánh, người đầu tiên truyền bá đạo Thiên chúa đến khu vực này của nước Pháp. Người ta nói rằng ngài đã được chúa Jesu viếng thăm trong một cuộc gặp bí mật của những người theo đạo Thiên chúa giáo trong một nghĩa địa. Chúa Jesu quỳ trên một chiếc quan tài và dấu vết của ngài vẫn còn đó. Nắp quan tài trở thành một báu vật, được coi là đem lại kiến thức của Chúa đối với những ai nhìn thấy.” Vigor nhìn lên nhà thờ mái vòm của lịch sử. “Người ta nghĩ nó đã vĩnh viễn bị mất đi, nhưng nó đang ở đây, giống như rất nhiều thứ khác.”
Nhưng gần như hầu hết mọi thứ…” Vigor giơ chiếc đèn pin lên. “Theo bản liệt kê, ở một nơi nào đó có cất giữ Mandylon.”
Kat trợn tròn mắt. “Đấy là cái gì vậy?”
“Cái khăn liệm thực sự của chúa Jesu, một di vật thay thế cho cái khăn liệm ở Turin. Vật này đã được lấy từ Edasa mang đến Constantinope vào thế kỷ thứ X, nhưng trong thời kỳ của những vụ cướp bóc, nó biến mất. Nhiều người nghi vật đó được cất giữ trong số những báu vật của Đền thờ các Hiệp sỹ Templar.” Vigor gật đầu. “Kia chính là bằng chứng. Và rất có thể chính la khuôn mặt thực sự của chúa Jesu.”
Kat cảm thấy sức nặng của thời gian… tất cả đang treo trên hình học hoàn hảo.
“Một trang.” Vigor lẩm bẩm.
Kat biết rằng ngài linh mục đang nói về những kỳ tích được liệt kê trong một trang của cuốn sách gáy bọc da. Nó trông có vẻ như phải dày đến một nghìn trang.”
“Thế cô tìm được những gì ở đây?” Vigor nói thì thào.
“Thế ngài đã tím đến tận chỗ dưới cùng chưa?” Kat hỏi.
“Chưa. Tôi quay lại để dẫn cô tới đây.”
Kat đi xuống cái cầu thang hẹp dẫn xuống một tầng dưới. “Ít nhất chúng ta cũng cần năm được khái niệm tổng thể về khu vực này rồi quay lên.”
Vigor gật đầu, nhưng xem ra ông vẫn có vẻ lưỡng lự chưa muốn rời cuốn sách.
Cuối cùng thì ông cũng đi theo Kat khi cô bước xuống cầu thang xoáy trôn ốc. Kat nhìn vào một nơi. Toàn bộ kiến trúc treo lơ lửng trên đầu cô, treo suốt biết bao thời gian ở nơi đây.
Rồi thì họ cũng tới được bậc thang tầng cuối cùng. Một vài bậc dẫn tới một cái sàn rộng, góc có cái vì kèo cuối cùng. Thư viện không kéo dài xuống dưới. Tất cả kho báu được xếp ở trên, được giữ bằng cách treo lên một cặp vòm cuốn khổng lồ, chạy xuống tận vì kèo cuối cùng.
Kat nhận ra chất liệu đá của những cái vòm này.
Không phải granit, cũng không phải cẩm thạch.
Lại là đá nhiễm từ.
Bên cạnh đó, dưới những vòm cuốn nhô lên ngay giữa sàn la một cái cột cao đến thắt lưng bằng đá nhiễm từ, giống như một ngón tay bằng đá chỉ lên trên.
Kat thận trọng leo xuống tầng dưới. Một cái bậc đá granit tự nhiên bao bọc quanh một sàn thủy tinh dày. Thủy tinh vàng. Cô không bước lên trên đó. Những bức tường dày bao bọc xung quanh nó cũng được gắn những chiếc đĩa vàng thủy tinh phản chiếu được. Mười hai chiếc, cô đếm, giống như tổng thể số vì kèo.
Vigor đến chỗ cô.
Giống như Kat, ông ghi nhận mọi chi tiết, nhưng cả hai đều tập trung sự chú ý vào những đường vạch bằng bạc – nhiều khả năng là platinum nguyên chất chạy xung quanh sàn. Hình ảnh này về mặt nào đó thích hợp như một sự chấm dứt đối với cuộc tìm kiếm lâu dài. Nó mô tả một mê hồn trận dẫn tới một cái nơ hoa hồng ở giữa. Một cái cột tròn trĩnh bằng đá từ vươn lên từ chính giữa.
Kat ngắm nghía chỗ này. Cái mê cung, những cái vòm đá nhiễm từ, sàn thủy tinh. Tất cả những điều đó gợi cho cô tới ngôi mộ của Alexander, với cái kim tự tháp và cái vũng nước phản chiếu sáng.
“Nó giống như một điều bí mật nữa cần được giải mã.” Cô nhìn kỹ vào những báu vật treo trên đầu. “Nhưng nếu như chúng ta đã mở được kho báu cổ đại của các nhà Tiên tri, thì còn phải tim cái gì nữa?”
Vigor bước tới gần hơn. “Đừng quên chiếc chìa khóa vàng của Alexander. Chúng ta vẫn chưa cần nó để mở bất cứ thứ gì ở đây.”
“Điều ấy có nghĩa là…”
“Phải có cái gì đó ngoài thư viện này.”
“Nhưng là gì?”
“Tôi không biết,” Vigor nói. “Song tôi đã nhận ra phương thức của cái mê cung này rồi.”
Kat quay lại phía ông.
“Đấy là mê hồn trận của Daedalus.”
5 giờ 2 phút sáng
Trên bầu trời nước Pháp
Gray chờ để hỏi những người khác cho đến khi họ lại bay lên tiếp. Chiếc máy bay trực thăng đã đưa tất cả họ tới sân bay quốc tế Geneva, nơi Hồng y Spera có một chiếc máy bay riêng loại Gulfstream đã được tiếp đầy nhiên liệu sẵn sàng để khởi hành đi Avignon. Thật ngạc nhiên khi một quan chức cao cấp của Vatican có thể có những thứ như vậy.
Điều đó buộc Gray hỏi câu thứ nhất.
“Vatican thuê một điệp viên của Hiệp hội để làm gì?” Anh hỏi.
Năm người bọn họ đều quay lại từ ghế của mình, nhìn nhau.
Ngài chỉ vào cô gái đang ngồi bên cạnh, đó là một nhóm nhỏ hơn, hành động một cách độc lập. Chúng tôi đã nghe nói về sự quan tâm cũng như hành động của Long Đình. Chúng tôi đã bắt đầu sử dụng Hiệp hội để điều tr.a về tổ chức này ở ngoại vi.”
“Các ngài thuê những lính đánh thuê?” Gray chất vấn.
“Cái chúng tôi tìm kiếm để bảo vệ đòi hỏi ít hơn là phương tiện chính thống. Để dùng lửa trị lửa. Danh tiếng của Hiệp hội có thể là tàn bạo, nhưng họ rất được việc, tôn trọng hợp đồng và hoàn thành công việc bằng môi cách.”
“Nhưng họ đã không ngăn được vụ thảm sát ở Cologne.”
“Đó là sự thiển cận về phía chúng tôi, tôi e là như vậy. Chúng tôi không được ý nghĩa việc chúng ăn cắp văn bản Cairo. Hoặc chúng hành động nhanh như vậy.”
Hồng y thở dài rồi vặn vặn những chiếc nhẫn vàng ở hết ngón tay này sang ngón khác, một cử chỉ sợ hãi. “Có quá nhiều sự đổ máu. Sau những vụ thảm sát đó, tôi lại gặp Hiệp hội để trực tiếp cấy vào một điệp viên trong bọn họ. Thật dễ dàng làm được việc này sau khi Sigma đã được gọi vào cuộc. Hiệp hội đã đề xuất dịch vụ của họ, Seichan cũng đã có sự hợp tác với các anh rồi và tui Long Đình đã bị dính đòn.”
Seichan nói xen. “Tôi nhận được lệnh phải tìm cho ra tụi Long Đình đã biết được những gì, phi vụ của chúng ta đã tiến tới đâu và đánh gục chúng nếu như tôi thấy thích hợp.”
“Giống như đứng nhìn khi chúng tr.a tấn các linh mục.” Rachel nói.
Seichan nhún vai. “Lúc đó tôi đến muộn. Và một khi nó đã diễn ra rồi thì không có cách nào ngăn được gã Raoul.”
Gray gật đầu. Anh vẫn còn giữ đồng xu từ Milan. “Và cô cũng giúp chúng tôi tẩu thoát nữa.”
“Nó phù hợp với mục đích của tôi. Bằng cách giúp đõ anh, tôi làm nhiệm vụ của tôi là bắt bọn Long Đình luôn phải đối mặt với thách thức.”
Gray nhìn Seichan nói. Thực ra cô ta đang ở bên phía nào? Với kiểu cô ta bắt cá hai tay, ba tay một lúc như vậy, liệu cô ta còn giấu diếm gì nữa? Nghe cô ta giải thích thì có vẻ ỗn nhưng những cố gắng của cô ta là nhằm mục đích đánh lừa để phục vụ cho Hiệp hội.
Vatican thật quá ngây thơ khi tin cậy họ… hoặc cô ta…
Nhưng đằng nào cũng thế, Gray vẫn còn thiếu cô ta một món nợ.
Như kế hoạch, cô đã thu xếp để cho Monk được đưa ra khỏi bệnh biện trước khi đồng bọn của Raoul ra tay. Gray đã hình dung cô ta phải huy động một vài trong số các điệp viên của Hiệp hội không gọi cho Hồng y Spera, người đã thuê cô. Nhưng ngài Hồng y đã thực hiện điều đó, tuyên bố Monk là đại sứ của Vatican rồi đưa anh ta ra khỏi đấy.
Và vì vậy họ đang trên đường tới Avignon.
Còn một điều nữa làm Gray thấy lấn bấn.
“Nhóm của ông ở Vatican,” anh nói nhìn thẳng Spera, “Thế lợi ích của họ là gì?”
Spera đặt tay lên bàn. Rõ ràng, ông ta miễn cưỡng đề cập sâu thêm nữa, nhưng Rachel đã bước tới trước mặt ông. Cô cầm hai bàn tay của ông kéo ra rồi cúi xuống nhìn kỹ hơn.
“Ngài có hai chiếc nhẫn vàng với dấu của giáo hoàng trên đó.” Cô nói.
Hồng y rút hai bàn tay lại, lấy bàn tay này úp lên bàn tay kia.
“Một trong những chức vụ của tôi là Hồng y,” ông giải thích, “còn một chức vụ nữa là bộ trưởng ngoại giao. Những chiếc nhẫn giống nhau, đấy là truyền thống.”
“Nhưng trông chúng không giống hệt nhau.” Cô nói. “Tôi đã không để ý khi ngài khép bàn tay lại như vậy. Với những chiếc nhẫn ở mỗi bàn tay cạnh nhau như thế. Chúng không giống nhau. Chiếc này phản chiếu hình ảnh của chiếc khác. Những bản sao phản anh chính xác.”
Gray chau mày.
“Chúng là sinh đôi.” Rachel nói.
Gray hỏi để được xem chiếc nhẫn. Cô ta nói đúng. Hình ảnh đối nghịch của dấu ấn giáo hoàng. “Và Thomas có nghĩa là sinh đôi.” Gray lẩm bẩm, nhìn chăm chú vào Hồng y. Anh nhớ đến bình luận của Spera về làm thế nào một nhóm nhỏ trong Vatican đã thuê Hiệp hội. Giờ thì Gray hiểu nhóm nào rồi.
“Như vậy ngài là một bộ phận của nhà thờ Thomas.” Anh nói. Vì vậy đã cố bí mật ngăn chận tụi Long Đình.”
Spera hít một hơi dài rồi chậm chạp gật đầu. “Nhóm của tôi đã được chập nhận nếu không được nâng cấp thành một phần của Nhà thờ Giáo hoàng. Mặc dù đức tin ngược lại nhưng Nhà thờ lại không năm ngoài khoa học hay nghiên cứu. Những trường đại học, bệnh viện và cơ sở nghiên cứu Cơ đốc giáo ủng hộ những tư tưởng, quan điểm và ý tưởng mới đi trước. Và đúng như vậy, một phần nào đó rất bảo thủ, chậm đáp ứng nhưng nó lại bao gồm những thành viên đã thách thức và giữ cho Nhà thờ thích nghi. Đây là vai trò mà chúng tôi vẫn phục vụ.”
“Thế còn về quá khứ thì sao?” Gray hỏi. “Cái tổ chức cổ điển của các nhà giả kim chúng ta đang săn đuổi? Những dấu vết mà chúng ta đang theo?”
Spera lắc đầu. “Nhà thờ Thomas ngày nay không giống như cũ. Nhà thờ đó đã biến mất dưới thời các giáo hoàng Pháp, biến đi cùng với Đền thờ các vị Hiệp sỹ Templar. Đạo đức, xung đột và bí mật đã chia tách nó sâu hơn, chỉ còn lại bóng ma và những lời đồn đại. Số phận thực sự của nhà thờ Ngộ đạo ấy và đường lối cổ xưa vẫn còn là bí hiểm đối với chúng tôi.”
“Vậy là các ngài cũng không biết gì về tất cả những cái đó giống như chúng tôi?” Monk nói.
“Tôi e là như vậy. Chỉ có điều chúng tôi biết rằng nhà thờ cũ vẫn tồn tại. Nó không chỉ là truyền thuyết.”
“Cũng giống như Long Đình.” Gray nói.
“Đúng vậy, nhưng chúng tôi tìm cách gìn giữ sực bí mật, tin vào trí thông minh của tổ tiên chúng tôi, tin rằng nó được cất giấu vì một lý do nào đó và những tri thức ấy sẽ tự bộc lộ khi thời gian chín mùi. Bọn Long Đình thì ngược lại, cố tìm kiếm để khám phá bí mật qua tắm máu, tham nhũng và tr.a tấn, chúng tìm kiếm không gì khác hơn là một quyền lực để thống trị và cai quan tất cả. Chúng tôi đã lột mặt nạ chúng hàng thế hệ rồi.”
“Vậy bây giờ bọn chúng đã rất gần.” Gray nói.
“Và chúng có chiếc chìa khóa vàng.” Rachel nhắc, lắc đầu.
Gray xoa mặt mệt mỏi. Anh đã phải trao chiếc chìa khóa đó, chính anh. Anh cần có chiếc chìa khóa để thuyết phục Raoul về sự trung thành mới của Seichan. Chắc chắn đây là một trò chơi, song đó cũng là toàn bộ kế hoạch giải thoát. Raoul đã được tính sẽ bị bắt sống hoặc giết ch.ết tại lâu đài nhưng tên đốn mạt này đã chạy thoát.
Gray nhìn Seichan. Cảm thấy như mắc lỗi, anh đã muốn nói điều gì đấy để giải thích mọi chuyện nhưng anh lại được giải thoát khi viên phi công nói trên loa.
“Mọi người phải thắt dây an toan. Máy bay đang bay vào một vùng thời tiết xấu.” Những tia chớp vạch ra các đường ngoằn ngoèo chạy qua các đám mây phía dưới.
Tiếng sấm nghe như trên cao hơn, rực sáng một góc trời rồi biến mất vào màn đem đen sẫm. Họ đang bay vào một vùng có bão.
5 giờ 12 phút sáng
Avignon, nước Pháp
Vigor bước tới cái kè bằng đá bao bọc sàn thủy tinh và mê cung. Ông im lặng ngẫm nghĩ một phút, bị lôi cuốn bởi sự bí hiểm nơi đây.
Cuối cùng ông nói. Không có góc ch.ết hoặc điểm ch.ết. Đó chỉ là một cong đường dài, liên tục và ngoàn ngoèo. Cô có thể tìm thấy một mê cung giống hệt như cái này bằng đá trắng và xanh ở nhà thờ Chartres bên ngoài Paris.”
“Thế nó được dùng để làm gì ở đây?” Kat hỏi. “Và vậy thì tại sao ông lại gọi nó là mê hồn trận Daedalus?”
“Mê hồn trận Chartres có rất nhiều tên. Một tên là Le Dedale hoặc Daedalus. Được đặt theo tên một nhà kiến trúc huyền thoại người đã xây dựng mê cung cho vua Minos của Crete. Mê hồn trận này là nhà của Minotaur, một quái vật to như con bò mộng đã bị dũng sĩ Theseus đánh bại.”
“Tại sao lại đặt một cái mê cung như thế trong nhà thờ Chartres?”
“Đấy không phải là Chartres. Đỉnh cao của việc xây dựng các nhà thờ vào thế kỷ XIII, khi mốt xây dựng kiểu Gô-tích đi vào cao trào, rất nhiều mê cung đã được đặt trong các nhà thờ. Amiens, Rheims, Arras, Auxerre… là tất cả các mê cung khi ta bước vào sảnh đường. Nhưng hàng thế kỷ sau Nhà thờ đã phá hủy tất cả, coi chúng là những di tích vô đạo, trừ cái ở Chartres.”
“Tại sao người ta để lại mê cung ở Chartres?”
Vigor lắc đầu. “Nhà thờ này luôn được coi là đặc thù so với luật lệ. Gốc rễ của nó thực sự là ngoại đạo, được xây dựng trên một nơi hành hương nổi tiếng của ngoại đạo. Nhưng ngày nay, không giống như các nhà thờ khác, nó không có một vị vua, giáo hoàng hoặc một nhân vật nổi tiếng nào được chôn cất dưới chân nhà thờ cả.”
“Nhưng cái đó không trả lời việc tại sao mê cung lại được đặt ở đây?” Kat hỏi.
“Tôi hình dung có thể có một vài giải thích. Đầu tiên, mê cung Chartres được xây dựa trên một văn bản giả kim Hy Lạp vào thế kỷ thứ hai. Những hình tượng phù hợp với những nhà giả kim biến mất của chúng ta. Nhưng mê hồn trận ở Chartres cũng lại là đại diện cho cuộc hành trình từ thế gian này lên thiên đường. Những người đi lễ ở Chartres phải bò bằng chân và tay theo con đường đau khổ này sang thế giới khác. Vì vậy, mê cung còn có một cái tên khác-đường tới Jerusalem, hoặc đường tới thiên đường. Đấy là một chuyến đi về mặt tinh thần.”
“Liệu ngài có nghĩ rằng điều đó gợi ý chúng ta phải tự mình làm cuộc hành trình ấy, theo sau các nhà giả kim để quyết điều bí mật lớn cuối cùng của họ?”
“Chính xác là vậy.”
“Song chúng ta sẽ làm thế nào?”
Vigor lắc đầu. Ông có một ý tưởng, nhưng cần có thêm thời gian để suy nghĩ. Kat nhận ra ông nói chuyện không thoải mái và cô rất tôn trọng ông nên không ép.
Thay vì vậy, cô nhìn đồng hồ.
“Có lẽ chúng ta nên quay lại. Xem liệu Gray có tìm cách liên lạc không?”
Vigor gật đầu. Ông quay nhìn lại một lần nữa, chiếu ánh đèn pin dọc qua khu vực. Nó phản xạ lại trên nên thủy tinh: nền đá và những mảnh được gắn trên tường. Ông chiếu đèn lên. Nhiều hình ảnh phản chiếu lập lòw, những viên ngọc quý trong một cái cây kiến thức khổng lồ.
Đã có lời giải đố ở đây rồi.
Ông cần phải tìm ra nó trước khi quá muộn.
5 giờ 28 phút
Trên bầu trời nước Pháp.
Tại sao họ không trả lời?
Gray ngồi áp chặt cái điện thoại trên máy bay vào tai. Anh vẫn cố gọi cho Kat. Nhưng không may chút nào. Có thể vì trận bão, làm nhiễu tín hiệu. Chiếc máy bay chảo đi chảo lại, cố lách qua những tia chớp.
Anh ngồi gần cửa sau khoang ngồi để có chút riêng tư. Những người khác, ngồi trên ghế buộc dây an toàn vẫn đang tiếp tục trò chuyện.
Chỉ có Rachel thỉnh thoảng lại nhìn xuống, lo lắng nghe tình hình ông bác. Nhưng cũng có thể cô còn có chút gì khác. Từ khi họ được cứu ở Lausanne, cô chưa rời xa anh một bước. Cô vẫn từ chối không chịu kể chi tiết những gì diễn ra tại lâu đài. Một nỗi ám ảnh khủng khiếp vẫn đeo đuổi cô. Và từ đấy như thế cô đã tìm được chút vững tâm từ anh. Không bám giữ, đó không phải là cô. Nó không chỉ là sự tái khẳng định, trần mình ra vào lúc này. Không cần phải nói thêm gì nữa.
Và trong khi Monk vẫn bị mệt chưa tỉnh táo hoàn toàn, Gray vẫn tin rằng họ sẽ nói chuyện với nhau sau. Họ là những chiến hữu, người bạn tốt của nhau. Họ sẽ vượt qua.
Nhưng Gray không đủ kiên nhẫn với Rachel. Một phần trong anh muốn có ngay một giải pháp và câu trả lời với những điều đã làm cô phiền toái. Bất cứ cố gắng nào trao đổi về những gì xảy ra ở Lausanne đều bị bác đi… một cách nhẹ nhàng nhưng cũng rất kiên quyết. Tuy nhiên, anh vẫn đọc được nỗi đau đớn, tất cả những gì anh có thể làm là đứng bên cạnh cô, chờ đợi cho đến khi cô sẵn sàng nói chuyện.
Bên tai anh, điện thoại vẫn reo liên tục không ngừng khi bên kia có người nhấc máy. “Bryan đang nghe đây.”
Lạy Chúa. Gray ngồi thẳng dậy. “Kat, Gray đây.”
Những người khác trong khoang đổ dồn về anh.
“Chúng tôi đã có Monk và Rachel ở đây.” Anh nói. “Mọi việc ở đó thế nào rồi?”
Giọng của Kat vang lên, sôi nổi một cách khác thường, nghe với sự thoải mái. “Chúng tôi khỏe. Chúng tôi đã tìm ra lối vào bí mật.” Cô tiếp tục giải thích vắn tắt những gì họ đã phát hiện ra. Thỉnh thoảng một vài câu lại bị trận bão làm ngắt quãng.
Gray chú ý thấy Rachel nhìn anh chăm chú trong khi cô ngồi cứng tại chỗ. Anh gật đầu về phía cô. Bác cô vẫn khỏe.
Cô nhắm mắt cảm ơn rồi ngồi thụt vào ghế.
Sau khi Kat chấm dứt, anh kể lại vắn tắt diễn biến ở Lausanne. “Loại trừ sự chậm trễ do cơn bão gây ra, chúng tôi sẽ hạ cánh xuống sân bay Avignon trong vòng ba mươi phút nữa. Nhưng chúng tôi không có nhiều thời gian hơn bọn Long Đình, có thể chỉ hơn một tiếng thôi nếu may mắn.”
Seichan đã cung cấp cho họ tin tức về phương tiện giao thông của bọn chúng. Raoul có hai chiếc máy bay giấu ở một
sân bay nhỏ cách Lausanne chừng nửa giờ ô tô. Tính toán với tốc độ máy bay của chúng, họ sẽ có một khoảng cách trước chúng một chút. Một khoảng thời gian mà anh cố gắng giữ.
“Với việc tất cả thành viên viên an toàn nữa,” Gray nói với Kat, “tôi sẽ phá vỡ sự im lặng với chỉ huy trung tâm. Liên lạc với giám đốc Crowe. Tôi sẽ liên hệ với ông ta tìm cách phối hợp sự hỗ trợ dưới đất của nhà cầm quyền địa phương. Tôi sẽ gọi khi nào hạ cánh. Vào lúc này, nhớ là canh chừng phía sau lưng.”
“Không quên điều đó, chỉ huy. Chúng tôi chờ anh.”
Gray bỏ máy. Anh ấn nút số điện thoại trung tâm Sigma. Nó đi qua một loạt tổng đài rồi cuối cùng thông.
“Logan Gregory nghe đây.”
“Tiến sĩ Gregory, chỉ huy Pierce.”
“Chỉ huy.” Giọng nghe rất cáu kỉnh.
Gray cắt luôn sự bực bội của ông ta vì việc đã thiếu liên lạc. “Tôi phải nói chuyện với Painter Crowe ngay lập tức.”
“Tôi sợ điều ấy là không thể, chỉ huy. Giờ đã là gần giữa đêm. Giám đốc đã rời nhiệm sở cách đây năm tiếng đồng hồ rồi. Không ai biết ông ta đi đâu. Can nhiễu lại làm không nghe rõ tiếng của ông ta, thậm chí còn nặng nề hơn cả sự bực bội của ông ta với Gray.
Cuối cùng thì Gray cũng hiểu được tâm trạng của ông ta. “Giám đốc đang làm gì mà rời nhiệm sở vào lúc này.”
“Có thể ông ta tới DARPA để phối hợp với tiến sĩ McKnight.” Logan tiếp tục, “nhưng tôi vẫn là chỉ huy của phi vụ này. Tôi muốn được nghe báo cáo toàn bộ về những hoạt động của anh.”
Bỗng nhiên Gray cảm thấy không thoải mái khi nói chuyện. Painter Crowe đi đâu nhỉ? Hay thậm chí ông bị giết rồi. Ý nghĩ đó làm anh lạnh cả người. Hay là Gregory ngăn cản anh không cho tiếp cận với giám đốc. Có một lỗ dò nào đó ở Sigma. Anh có thể tin ai đây?
Anh cân nhắc mọi chuyện và chỉ làm việc gì anh có thể. Có thể cũng không hay lắm nhưng anh đành phải dũng cảm tiến hành.
Anh treo máy, không liên lạc nữa.
Mình không thể mạo hiểm.
Mình đã cưỡi lên lưng tụi Long Đình rồi, không thể nào lùi bước được.
5 giờ 35 phút sáng
Cách bảy mươi dặm, Raoul nghe cơ sở của hắn báo cáo vào chiếc điện thoại trên máy bay. Một nụ cười trên khuôn mặt hắn. “Chúng nó vẫn ở trong lâu đài của giáo hoàng à?”
“Vâng thưa ngài.” Tên gián điệp trả lời.
“Và anh biết là nơi chúng đang ở đâu rồi chứ?”
“Vâng thưa ngài.”
Raoul đã có cuộc gọi từ lâu đài sau khi nghe tin từ Avignon. Hắn đã liên hệ với một vài nhân mối ở Mác – xây. Chúng đã được cử đi Avignon để săn hai nhân viên kia: ngài linh mục và con chó cái Sigma - kẻ đã đâm thủng tay hắn.
Raoul kiểm tr.a đồng hồ trên máy bay. Bọn chúng sẽ hạ cánh trong vòng bốn mươi phút nữa.
“Chúng tôi có thể diệt chúng bất cứ lúc nào.” Tên gián điệp nói.
Raoul nói không chút ngần ngừ. “Hãy làm ngay đi.”
*
5 giờ 39 phút sáng.
Avignon, nước Pháp.
Kat thoát ch.ết chỉ trong gang tấc.
Đứng cạnh lò sưởi, cô đang dùng một đồng xu để mở chiếc đèn pin. Đồng xu lăn qua ngón tay cô rồi rơi xuống đất. Cô cúi xuống nhặt lên.
Tiếng cạch của cò súng như cùng một lúc với tiếng đập mạnh vào bức tường đá ngay trên đầu cô.
Có kẻ bắn tỉa.
Vẫn cúi xuống, Kat lăn một vòng trên sàn, rút khẩu Glock ở trong bao ra. Cô hơi nhỏm người lên rồi giơ súng bắn qua hai đầu gối. Thẳng vào chỗ cửa ra vào tối om nơi những phát súng vừa được bắn ra.
Kat bóp cò bốn lần, những phát súng rải đều một chỗ.
Cô nghe có tiếng hự thật mạnh rồi tiếng khẩu súng rơi xuống sàn đá. Một cái gì đó thật nặng đổ bịch xuống.
Lăn trên sàn, cô tới chỗ Vigor. Ngài linh mục cúi khom người gần đường hầm dẫn ra từ lò sưởi. Cô đưa cho ông khẩu súng rồi nói “Nằm xuống bắn bất cứ ai ông nhìn thấy.”
“Thế còn cô thể nào?”
“Đừng, đừng có bắn vào tôi.”
“Ý tôi muốn nói là cô đi đâu?”
“Đi săn.”Kat đã tắt đèn pin. Cô lấy ra kính nhìn đêm rồi đeo lên mắt. “Có thể còn những tên khác nữa.” Cô rút ra một lưỡi dao dài từ chỗ thắt lưng.
Trong khi Vigor chúi người xuống đường hầm, Kat di chuyển về phía cửa, kiểm tr.a lối vào. Lúc này mọi vật đều có màu xanh lá cây. Ngay cả tia máu đang phụt ra cũng vậy. Đó là sự vận động duy nhất trong sảnh, làm thành một vũng máu quanh xác ch.ết nằm sõng xoài.
Cô tiến tới xác người đàn ông ăn mặc quần áo dù loang lổ.
Lính đánh thuê.
Phát đạn của cô quá là may mắn, bắn trúng vào họng gã. Cô cũng chả buồn kiểm tr.a xem mạch của hắn. Cô giật lấy khẩu súng của gã rồi nhét vào bao súng của mình.
Vẫn cúi khom người. Kat lần mò ra khỏi sảnh rồi đi vòng qua khu vực bếp. Nếu như còn có những tên khác, chúng phải ở gần đây. Cú phục kích trượt vừa rồi chắc phải làm chúng kiếm nơi ẩn nấp. Đồ ngu. Chúng quá tin vào vũ khí, hoả lực, hoàn toàn trông cậy vào tên bắn tỉa làm công việc cho chúng.
Cô tua một vòng. Không gặp ai cả.
Bên phải.
Kat thò tay vào túi ba lô, lấy ra một gói nặng. Cô bẻ gẫy cái nắp nhựa rồi đặt nó thấp ngang hông. Quay một vòng trong góc, cô bước vào một gian sảnh duy nhất dẫn vào bếp. Cô nhô người cao hơn một chút rồi bước đi tự tin về phía trước.
Mồi nhử.
Kat vẫn nắm chặt lưỡi dao bằng tay phải. Tay trái rắc hết những thứ trong gói xuống sàn.
Những viên bi cao su, bọc ngoài bằng một loại cao su đặc chủng.
Không nhìn thấy dù đeo kính nhìn đêm.
Chúng lăn xuống rải rác trên sàn phía sau cô, dính chặt hoặc di chuyển mà không hề gây tiếng động.
Cô hướng về phía bếp rồi nghe có tiếng bước chân thật nhẹ phía sau. Cúi xuống rồi xoay người bằng một đầu gối, Kat phóng con dao bằng cả sức mạnh của vai và sự khéo léo của cổ tay. Con dao lao đi thật chính xác, xuyên qua mồm gã đàn ông đang há hốc miệng ngạc nhiên khi chân phải của hắn trượt vào một trong những viên bi cao su nhỏ vừa được rải. Khẩu súng của hắn văng ra, phát đạn hướng lên cao, đâm vào đám gỗ phía trên.
Rồi hắn ngã ngửa xuống, bị con dao đâm xuyên vào tận óc.
Kat lao đến chỗ hắn, trượt trên những viên bi. Khi tới nơi cô đã thấy hắn nằm yên. Cô rút con dao ra, giật lấy vũ khí của hắn rồi rút lui về phía bếp. Cô chờ thêm, hai phút nữa xem liệu có thấy dấu hiệu gì của tên hung thủ số ba hay số bốn chăng.
Lâu đài vẫn tiếp tục lặng im.
Tiếng sấm vẫn ì ầm bên ngoài phía xa bức tường. Những tia chớp chiếu qua các cánh cửa sổ ở trên cao. Cơn bão đã đổ bộ vào khu vực cao nhất của quả đồi.
Cuối cùng khi đã yên tâm chỉ còn lại họ. Kat ra hiệu an toàn với Vigor. Ông trèo lên.
“Hãy ở yên đó đã.” Cô cảnh báo sợ chưa chắc chắn.
Cô quay lại lục soát cái xác đầu tiên. Đúng như cô nghĩ, Kat đã tìm thấy cái điện thoại di động.
Khỉ thật.
Cô ngồi đó một lát, điện thoại của gã trong tay cô. Nếu như lệnh giết người được chuyển tới hung thủ, thì chắc chắn vị trí của họ trong lâu đài đã bị chúng biết.
Cô quay lại phía Vigor, rồi kiểm tr.a đồng hồ.
“Bọn Long Đình đã biết chắc chúng ta đang ở đâu rồi.” Vigor nói. Ông nhận xét, Kat lấy ra máy điện thoại. Chỉ huy Pierce cần phải nắm được tình hình. Cô gọi vào số điện thoại anh đã đưa cho mình, nhưng mãi không thấy có tín hiệu. Cô cố thử lại khi đến sát cửa sổ. Không có may mắn.
Cơn bão làm ngưng trệ mọi cuộc gọi.
Cô nhét chiếc điện thoại vào túi.
“Có thể một khi họ hạ cánh.” Vigor nói khi thấy cố mãi không liên lac được, “nhưng nếu bọn Long Đình biết chúng ta đã ở đây, tiến triển công việc của chúng ta sẽ gặp khó khăn hơn.”
“Ông tính thế nào?” Kat hỏi.
“Chúng ta làm lại.”
“Bằng cách nào?”
Vigor chỉ về phía cầu thang tối om. “Chúng ta vẫn còn khoảng hai mươi phút trước khi Gray và những người khác tới đây. Chúng ta hãy tận dụng điều đó. Chúng ta sẽ giải câu đố phía dưới, để rồi một khi họ tới có thể sẵn sàng hành động.”
Kat gật đầu trước tính toán lô gích này. Có lẽ cũng chỉ có cách duy nhất như vậy để bù lại thời gian đã mất. Lẽ ra cô không bao giờ cho phép những tên gián điệp có cơ hội tiếp cận gần đến như vậy.
“Chúng ta sẽ làm điều đó.”
6 giờ 2 phút sáng
Gray vội vã cùng với những người khác đi ngang qua đường băng vừa qua cơn bão. Họ hạ cánh xuống sân bay Avignon mới được đúng năm phút. Anh phải cảm ơn sự hỗ trợ của Hồng y Spera hoặc chí ít ảnh hưởng Vatican của ông ta. Các thủ tục hải quan đã được thực hiện ngay từ trên máy bay và một chiếc BMW đã sẵn sàng để chở họ tới Lâu đài Giáo hoàng. Hồng y cũng rời sân bay để làm việc với nhà cầm quyền địa phương. Lâu đài Giáo hoàng cần phải phong toả ngay.
Tất nhiên sẽ như vậy sau khi cả nhóm vào trong đã.
Gray vừa chạy vừa cố điện thoại cho Kat và Vigor.
Không thấy trả lời.
Anh kiểm tr.a cường độ sóng. Không vướng máy bay, những vạch trên điện thoại rõ hơn. Vậy có vấn đề gì đây?
Gray cứ để chuông reo mãi.
Cuối cùng anh đành thôi. Câu trả lời duy nhất nằm ở lâu đài. Ướt như chuột lột, họ cùng trèo vào chiếc xe đang chờ khi sấm chớp đùng đùng trên bầu trời chiếu sáng cả thành phố Avignon nằm dọc theo con sông Rhône. Lâu đài của giáo hoàng nằm nổi bật trên đỉnh cao nhất của thành phố.
“Có gọi được không?” Monk nói, chỉ vào điện thoại.
“Không.”
“Có thể vì cơn bão.” Seichan nói.
Không ai có thể tin được.
Gray phải thực hiện phần của anh.
Rachel lại nắm tay lái.
Chả có ai, kể cả Monk, phản đối.
Nhưng anh vẫn đặt khẩu súng lục lên đùi, nòng súng hướng về phía Seichan. Không cho phép có sơ suất nào. Vũ khí đã được Hồng y lấy lại từ khu hầm mộ dưới Nhà thờ Thánh Peter. Monk cảm thấy hài lòng vì mình đã lấy lại được khẩu súng, có khi còn hơn cả bàn tay bị mất của mình.
Họ bước từng người ra khỏi xe.
Rachel dẫn đường qua lối cổng chính, vì trước đây cô đã đến chỗ này rồi. Cô cùng mọi người đi qua cửa, rồi đến một cái sân rộng và bước tới cái cửa ngách như Kat đã chỉ dẫn.
Gray nhìn thấy cái khoá đã bị cưa cụt, các bộ phận bị tháo tung.
Không phải là tác phẩm đẹp của một sĩ quan tình báo trước đây.
Có kẻ nào đó đã phá để vào trong.
Gray vẫy mọi người lùi lại. “Đứng đây. Tôi sẽ kiểm tr.a đã.”
“Không phải là tôi không tuân lệnh,” Monk nói, “nhưng tôi không muốn chuyện lại bị chia tách nhau xảy ra nữa. Điều này đã không diễn ra suôn sẻ ở lần trước rồi.”
“Tôi sẽ đi.” Rachel nói.
“Còn tôi thì tin rằng anh không có thẩm quyền đối với việc tôi đi vào hay đi ra.” Seichan nói.
Gray không còn thời gian để tranh luận đặc biệt nếu như có thì anh không thể thắng được.
Họ bước vào lâu đài. Gray đã ghi vào bộ nhớ của mình bố trí của lâu đài. Anh đi trước vài bước thám thính, thận trọng nhưng nhanh chóng. Vấp phải xác ch.ết đầu tiên, anh đi chậm lại. Gã này đã lạnh ngắt.
Gray kiểm tr.a xác ch.ết. Ok, đây phải là tác phẩm của một cựu sĩ quan tình báo. Anh di chuyển tiếp, suýt nữa ngã vập mặt khi gót giày trượt trên một viên bi cao su. Anh phải dùng tay tựa vào tường để đứng vững.
Đúng là đồ chơi của Kat.
Họ tiếp tục bước vào.
Một xác ch.ết nữa nằm ngay gần lối vào cửa bếp. Họ phải bước qua vũng máu để bước vào.
Các giọng nói nghe rõ mòn một. Anh giữ những người khác lại rồi lắng nghe.
“Chúng ta đã muộn rồi,” một giọng nói.
“Tôi xin lỗi, nhưng tôi phải chắc chắn. Tất cả các góc cạnh cần phải được kiểm tra.”
Kat và Vigor. Đang tranh luận. Tiếng nói của họ vọng lên từ một cái hố giữa bếp. Một tia sáng trở nên rõ hơn.
“Kat,” Gray gọi, cố không làm cho đồng đội của mình giật thột. Anh đã thấy đầy đủ tài năng của cô phô bày ở gian bếp này rồi. “Gray đây mà.”
Kat trèo lên. Gray vẫy những người khác vào phòng.
Vigor trèo tiếp ra khỏi hố.
Rachel chạy ào tới ông. Ông mở rộng vòng tay ôm chặt cô cháu gái vào lòng.
Kat nói trước rồi chỉ về phía gian sảnh đầy máu, “Tụi Long Đình đã biết đến vị trí này rồi.”
Gray đồng ý. “Hồng y Spera đã đánh thức nhà cầm quyền địa phương ngay bây giờ. Họ sẽ tới đây luôn.”
Vigor vẫn quàng một tay quanh cô cháu. “Vậy là chúng ta có đủ thời gian”
“Để làm gì?” Rachel hỏi.
“Để mở khoá kho báu thực sự ở dưới kia.”
Kat gật đầu. “Chúng tôi đã giải câu đó ở đây rồi.”
“Thế câu trả lời là gì?” Gray hỏi.
“Ánh sáng.” Cặp mắt của Vigỏ sáng bừng lên.
°
°
6 giờ 14 phút sáng
Ông không thể đợi thêm được nữa.
Từ trên phòng đợi của sân bay nhỏ này. Hồng y Spera đã nhìn một lượt cả nhóm khi họ rời đi trên chiếc xe BMW. Ông chờ cho hết năm phút như Gray đã yêu cầu, để nhóm có đủ thời gian tới lâu đài. Ông đứng dậy rồi bước tới một trong số nhân viên an ninh, một thanh niên tóc vàng mặc quân phục.
Nói bằng tiếng Pháp, ông yêu cầu được dẫn đến sĩ quan chỉ huy trực ban. Ông xuất trình giấy căn cước Vatican. “Đây là việc khẩn cấp.”
Cặp mắt của người nhân viên an ninh mở to khi nhận ra người đang đứng trước mặt mình.
“Tất nhiên, thưa Hồng y Spera. Ngay lập tức.”
Người sĩ quan trẻ dẫn ông ra khỏi khu vực sân bay rồi qua một cửa an ninh kiểm soát bằng thẻ từ. Phía cuối sảnh là văn phòng của viện trưởng an ninh sân bay. Người lính gác gõ cửa rồi được gọi vào.
Anh ta đẩy cửa rồi vẫn giữ cánh cửa mở. Nhìn quay lại phía Hồng y, anh ta không thấy một khẩu súng gắn nòng giảm thanh đã gí ngay sau gáy.
Hồng y Spera giơ một bàn tay lên. “Không...”
Viên đạn được bắn đi nghe như một tiếng ho mạnh. Cái đầu của người lính gác bắn tung ra phía trước. Máu phun tung toé khắp phòng.
Cánh cửa một bên mở tung ra.
Một người mang súng nữa xuất hiện. Một khẩu súng lục chĩa vào bụng Hồng y Spera. Ông bị đẩy vào trong văn phòng. Cái xác của người lính gác cũng được kéo vào theo. Một người đàn ông khác rải một chiếc khăn trên sàn rồi lấy chân di di vết máu.
Cánh cửa đóng lại.
Một cái xác khác đã trang trí căn phòng rồi, đầu nghẹo sang một bên.
Viên sĩ quan trưởng an ninh.
Đằng sau cái bàn làm việc của anh ta là một khuôn mặt quen thuộc đang đứng.
Hồng y Spera lắc đầu không thể tin được. “Vậy ra ngài là một bộ phận của Long Đình.”
“Thực ra là một lãnh tụ.” Một khẩu súng xuất hiện. “Dọn dẹp mọi thứ ở đây để số người còn lại của tôi sắp tới.”
Khẩu súng được giơ lên.
Nòng súng toé lửa.
Hồng y thấy một đòn rất mạnh vào trán rồi không biết gì nữa.
°
°
6 giờ 18 phút sáng
Rachel đứng cùng với bốn người kia xung quanh cái sàn thuỷ tinh có đường bao quanh.
Kat đứng gác ở phía trên, tay cầm bộ đàm.
Bác cô lẩm nhẩm nhận xét về cái bảo tàng đồ sộ nằm phía dưới nhà thờ nhưng chả thẩy ai hỏi câu nào.
Thật sự giống như đang ở trong nhà thờ, tất cả chỉ là những tiếng thì thầm và nỗi kinh sợ.
Trong khi họ leo xuống. Rachel không giấu nổi vẻ kinh ngạc trước vô số những điều kỳ thú được cất giấu ở đây. Cô đã dành cả cuộc đời mình để giữ gìn và thu hồi những báu vật khảo cổ và nghệ thuật quý giá bị đánh cắp. Nơi đây quả là một kho tàng có thể được xếp trên bất cứ một bảo tàng danh tiếng nào. Để thống kê và phân loại nó chắc phải mất hàng chục năm ròng với sự tham gia của một tập hợp đông đảo các học giả. Sự vĩ đại của thời gian đã làm cho cuộc đời của cô thật bé nhỏ và vô nghĩa.
Ngay cả bi kịch mới vừa đây của cô, việc lộ ra quá khứ của gia đình cô lúc này hiện ra thật vô nghĩa, một vết nhơ nhỏ xíu so với cả một lịch sử dài được cất giấu nơi đây.
Mỗi bước Rachel tiến xuống sâu hơn, gánh nặng của cô dường như nhẹ bớt đi. Sức nặng của nó như nhẹ dần trong tâm trí cô. Một tình trạng không trọng lượng nào đó như bao bọc con người cô.
Gray tỳ một đầu gối xuống nền thuỷ tinh và cái mê cung được khắc bằng platinum trên đó.
“Đây chính là mê cung Daedalus.” Bác cô gật đầu rồi giải thích một cách vắn tắt lịch sử và sự gắn kết của nó với nhà thờ Chartres.
“Vậy thì chúng ta sẽ làm gì ở đây?” Gray hỏi.
Vigor bước xung quanh cái nền hình vòng cung. Ông cẩn trọng lưu ý học hãy đứng bên rìa đá granit bao phủ mê cung.
“Chắc chắn đây lại là một câu đố nữa,” ông nói, “bên cạnh mê cung chúng ta còn có cái cổng vòm đôi bằng đá nam châm ở trên đầu. Một cây cột cũng làm bằng loại đá đó ở chính giữa. Và mười hai cái đĩa bằng vàng ở trạng thái m.” Ông chỉ vào những cánh cửa sổ bằng thuỷ tinh được chôn vào tường xung quanh họ, tạo nên bởi bậc thang cuối cùng.
“Chúng được bố trí xung quanh giống như mặt kim đồng hồ.” Ông nói. “Lại là một loại đồng hồ nữa. Giống như cái kim giờ bằng thuỷ tinh đã dẫn chúng ta tới đây.”
“Có vẻ đúng như vậy.” Gray nói. “Nhưng ngài có nhắc đến ánh sáng.”
Bác cô gật đầu. “Thực ra đúng là luôn liên quan đến ánh sáng. Một lời thỉnh cầu cho ánh sáng khởi thuỷ trong Kinh thánh, ánh sáng đã tạo nên vũ trụ và vạn vật. Đó là cái mà chúng ta phải chứng minh ở đây. Giống như từ trường và dòng điện trước kia, giờ thì chúng ta phải trình diễn sự hiểu biết về ánh sáng... nhưng không phải là bất kỳ thứ ánh sáng nào. Ánh sáng với năng lượng. Hoặc như Kat mô tả ánh sáng tổng hợp.”
Gray chau mày đứng lên. “Ngài muốn nói là laze.”
Vigor gật đầu. Ông lôi ra một vật từ túi của mình. Rachel nhận ra đó là một kính hội tụ laze trong số vũ khí của Sigma. “Với năng lượng của những chất hỗn hợp siêu dẫn này đi cùng với châu báu như kim cương và đá rubi, những người cổ xưa đã có thể phát minh ra một dạng thô thiển nào đó của tia sáng tổng hợp phát ra, một loại laze thời cổ đại. Tôi tin rằng tri thức của công nghệ đó cần thiết để mở ra tầng cuối cùng.”
“Làm sao ông có thể chắc chắn như vậy được?” Gray nói.
“Kat và tôi đã đo mười hai cái đĩa thuỷ tinh gương. Chúng được sắp xếp theo những góc cạnh rất tế nhị để phản xạ và chuyển ánh sáng từ cái này sang cái khác trong một khuôn khổ được sắp đặt trước. Nhưng cần phải có những luồng ánh sáng mạnh để hoàn chỉnh cả một vòng khép kín.”
“Giống như laze.” Monk nói, nhìn những chiếc đĩa với sự quan tâm.
“Tôi không nghĩ nó sẽ nhận đủ một lượng ánh sáng tổng hợp.” Bác cô khẳng định. “Giống như loại pin Baghdad yếu chỉ dùng để kích hoạt cái kim tự tháp bằng vàng ở Alexandria, chỉ một lực nhỏ là cần thiết, một chỉ dẫn nào đấy qua sự hiểu biết về lực kết hợp. Tôi nghĩ năng lượng được giữ trong những chiếc đĩa sẽ làm phần còn lại.”
“Nhưng cái đó không phải năng lượng.” Gray nói. “Nếu ngài đúng về ánh sáng là cơ sở của bí mật ở đây, thì chất siêu dẫn không chỉ có khả năng dự trữ năng lượng trong một thời gian không hạn định mà cũng có thể dự trữ cả ánh sáng.”
Đôi mắt của Vigor mở to ra. “Vậy một chút ánh sáng tổng hợp cũng có thể giải phóng số còn lại?”
“Có thể, song làm sao chúng ta có thể tiến tới phát động chuỗi phản ứng dây chuyền này?” Gray hỏi: “Phóng tia laze vào một trong những cái đĩa thuỷ tinh?”
Bác Vigor bước xung quanh rồi chỉ đến một cái cột đá nam châm, dày khoảng hai feet nằm ở giữa sàn. “Cái cột này có chiều cao bằng chiều cao các cửa sổ. Tôi nghĩ là bất kỳ dụng cụ nào tổ tiên chúng ta đã sử dụng đều nhằm để nhắm tới một cửa sổ đặc biệt. Cái đánh dấu mười hai giờ.”
“Vậy thì là cái cửa nào?” Monk hỏi.
Vigor dừng lại ở một cái cửa sổ phía xa. “Thực sự hướng bắc,” ông nói, “sẽ mất một chút công việc bằng chân để tính toán với tất cả chỗ đá nam châm xung quanh. Nhưng là cái này. Tôi nghĩ anh đặt tia laze xuống chỉ vào cái đĩa này rồi sẽ được.”
“Xem ra có vẻ đơn giản gớm.” Monk nói.
Anh đặt một tay lên tai, lắng nghe. Mọi người nhìn vào anh.
“Kat, hãy cẩn thận,” Gray nói vào máy nghe. “Bước tới thận trọng. Cho họ biết rằng cô không phải là thù địch. Giữ bí mật về chúng tôi chừng nào cô chắc chắn.”
Anh chấm dứt cuộc gọi.
“Kat phát hiện một tốp cảnh sát Pháp. Họ đi vào trong lâu đài. Cô ấy sẽ điều tra.” Gray vẫy cả nhóm tiến về cầu thang.” Cái này sẽ phải chờ cho đến sau vậy. Tốt nhất là chúng ta nên quay lại.”
Họ bước ra khỏi sàn thuỷ tinh. Rachel chờ bác cô. Ông nhìn lưỡng lự về phía sàn thuỷ tinh.
“Có lẽ đó là tốt nhất,” cô nói, “chúng ta không nên đùa với những gì chúng ta vừa mới hiểu. Điều gì xảy ra nếu chúng ta sai?” Rachel gật đầu về phía thư viện khổng lồ của những tri thức cổ xưa đã được cất giấu ở đây. “Nếu tham quá, chúng ta có thể mất tất cả.”
Bác cô gật đầu, vòng tay ôm cô cháu gái khi họ trèo lên, nhưng cặp mắt của ông thính thoảng lại liếc xuống dưới.
Họ bước lên được bốn bậc thì có một giọng bằng tiếng Pháp ra lệnh xuống chỗ họ từ phía trên.
“Tất cả mọi người dưới đó ra ngay, tay giơ lên đầu!”
Mọi người đứng lặng.
Rachel dịch ra tiếng Anh mệnh lệnh.
Một giọng nữa nói xuống qua loa bằng tiếng Anh. Đấy là Kat.
“Chỉ huy, họ đã tịch thu máy nghe của tôi. Nhưng đây là cảnh sát Pháp. Tôi đã kiểm tr.a căn cước của viên chỉ huy rồi.”
“Có thể tốp lính này do Hồng y Spera cứ tới.” Monk nói.
“Hoặc có ai đó gọi vào báo có trộm cắp, khi thấy có ánh sáng hắt ra từ đây.” Rachel nói, “hoặc thấy cái cửa ra vào bị bẻ khoá.”
“Bước ra ngay lập tức. Đây là thông báo cuối cùng của chúng tôi.”
“Họ nghe có vẻ không vui.” Monk nói.
“Các vị chờ đợi gì với những xác ch.ết ở trên gác?” Seichan nói.
“Ok” Gray ra lệnh. “Chúng ta lên đó. Chúng ta cần chuẩn bị cho sự xuất hiện của Raoul và đồng bọn.”
Tất cả họ đều trèo lên những bậc tiếp. Gray yêu cầu họ cho súng vào bao hoặc bỏ vũ khí của mình. Không muốn gây rắc rối với cảnh sát Pháp, họ tuân lệnh chỉ huy rồi lên gác, tay giơ lên đầu.
Căn bếp, lúc trước vắng tanh giờ đây đông nghịt người mặc quân phục. Rachel phát hiện Kat lưng dựa vào tường, tay cũng để lên đầu. Cảnh sát Pháp không cho họ cơ hội. Súng được giơ lên.
Gray cố giải thích bằng một thứ tiếng Pháp, cứng nhắc nhưng họ vẫn bị chia tách và buộc phải đứng dựa vào tường? Viên chỉ huy rọi đèn dọc theo lối đi, sống mũi nhan lại vẻ rất khó chịu.
Tiếng ồn ào ở gian tiền sảnh đánh dấu bằng sự xuất hiện của một người vừa tới, một người có thẩm quyền. Rachel ngắm nhìn ngưòi bạn của gia đình đi vào bếp, ông ấy không liên quan gì đến chuyện này nhưng rất hoan nghênh. Có lẻ Hồng y Spera đã gọi ông ta?
Mắt bác cô cũng sáng lân.
" Tướng Rende. Tạ ơn Chúa!"
Đó là sếp của rachel, người cầm đầu lực lượng cảnh sát. Ông ta có bộ dạng thật bệ vệ dù không mặc cánh phục.
Bác Vigor cố bước tới nhưng bị đẩy lui.
"Ngài phải nói những viên cảnh sát này lắng nghe nếu không sẽ quá muộn."
Tướng Rende nheo nheo mắt nhìn bác cô và cười khẩy.
" Đã quá muộc rồi."
Từ phía sau ông ta Raoul bước vào.