Chương 6: Đan Mạch: COPENHAGEN - Thiên đường của những giấc mơ

SAU GẦN MỘT ĐÊM LANG thang ở Hamburg, chuyến tàu hơn 7h sáng xuất phát từ Hamburg đưa chúng tôi tới Copenhagen bằng cả đường sắt lẫn đường thủy. Khi tàu tới cửa biển và chui luôn vào chiếc tàu thủy rộng lớn tự lúc nào, tôi vẫn chưa khỏi ngỡ ngàng. Từ trước tới nay, tôi mới chỉ biết đến việc xe hơi được vận chuyển bằng tàu thủy còn việc chiếc tàu hỏa với tốc độ di chuyển gần như nhanh nhất nước Đức chui cả vào trong một chiếc tàu thủy vẫn còn quá mới mẻ với tôi. Khi tàu đã ở trong, chúng tôi buộc phải ra khỏi tàu hỏa và lên tàu thủy ở ngay cầu thang bên cạnh. Chiếc tàu thủy rộng lớn đưa chúng tôi tiến về phía thủ đô. Trên tàu có đầy đủ mọi tiện nghi: những nhà hàng hải sản nho nhỏ nhưng sang trọng, những cửa hàng bán đồ lưu niệm, mỹ phẩm… Ở đây, người ta có thể đi dạo thoải mái, như thể có một thành phố thu nhỏ ở trên tàu vậy. Chúng tôi bước ra boong tàu, gió thổi mạnh như muốn quật ngã tôi. Nhưng vẫn có rất nhiều người chịu khó chịu lạnh để ngắm đại dương trong nắng, khoảnh khắc ấy thật đẹp biết bao.


Copenhagen đón tôi vào một buổi trưa tháng Năm se lạnh. Nằm ở phương Bắc nên thời tiết ở đây có lạnh hơn một chút so với các nước châu Âu khác. Sau khi đã làm thủ tục nhận phòng và nghỉ ngơi một chút, tôi và Việt Anh tìm một tấm bản đồ thành phố để bắt đầu khám phá thủ đô nhỏ bé nhưng vô cùng đáng yêu này.


Đan Mạch là nước nằm trong Linh minh châu Âu nhưng vẫn có đồng tiền riêng, nên để thuận tiện chúng tôi đã đổi sang tiền bản xứ. Sau phút ngỡ ngàng vì thành phố quá đẹp, tôi giật mình bởi đây dường như cái gì cũng đắt. Đã từng tới Paris và London, tôi cứ ngỡ đó là những thành phố đắt đỏ nhất châu Âu, nhưng khi tới Copenhagen rồi tôi mới biết Paris vẫn còn thua xa. Một chai nước lọc loại 0, l giá ở Đức chỉ khoảng 40-50 cent nhưng ở đây lên tới gần hai euro. Đồ ăn thì còn “kinh khủng” hơn nhưng không nỡ để em Yến Anh ăn bánh mì chống đối nên Việt Anh hay mời tôi ở quán ăn nhỏ “Yam Yam”. Chúng tôi mua một ít cơm và rau trộn với cái giá cắt cổ rồi sau đó ăn chung. Tôi nhận ra rằng mức sống của người Đan Mạch khá cao, ít nhất là cao hơn tôi tưởng tượng rất nhiều.


Copenhagen hấp dẫn khách với các kiến trúc cổ xưa, các lâu đài, các nhà thờ và những con kênh chảy qua thành phố. Chúng tôi đi dạo trong ánh nắng chiều vàng óng hắt lên những ngôi nhà cao tầng và soi bóng dưới mặt nước. Chiều Copenhagen thật bình yên trong tiết trời se lạnh do ảnh hưởng của gió biển. Chúng tôi băng qua những cây cầu và đi dạo trên những con đường lát đá mỏng với những ngôi nhà chung cư treo hoa lơ lửng trên ban công. Do địa hình khá bẳng phẳng nên xe đạp rất phổ biến ở Copenhagen. Lần đầu tiên bước ra đường phố Copenhagen, tôi đã ngỡ đây là một Amsterdam thứ hai của châu Âu. Đi thêm một đoạn nữa, chúng tôi dừng chân trên một cây cầu màu trắng, Việt Anh bảo tôi: “Quay lại phía sau mà xem em kìa, nắng vàng phủ đầy trên những ô cửa kính phía trên cao”. Tôi quay lại, ngước lên nhìn và ngỡ ngàng. Chao ôi, nắng chiều ở bán đảo Scandinavia đẹp  biết bao nhiêu. Chiều Copenhagen hiện ra thật bình yên trong cái se se lạnh của gió biển. Gió luồn lách qua từng con đường lát đá mỏng, vi vu trên từng cây cầu, chui cả vào các khu nhà chung cư đùa giớn cùng giàn hoa lơ lửng trên ban công và lao theo đoàn người chạy xe đạp trên phố.


Xuyên qua trung tâm thành phố, ở hai đầu là hai quảng trường rộng lớn, Stroget dài hơn 2km, chỉ dành cho người đi bộ và luôn đông nghịt người qua lại. Có rất nhiều quán ăn tập trung trên con đường này, từ những nhà hàng Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kì đến Ý, Pháo và dĩ nhiên cả Đan Mạch nữa. Từ những quán ăn bình dân cho đến những quán ăn đắt đỏ, du khách tới đây luôn có rất nhiều sự lựa chọn phù hợp với túi tiền của mình. Không chỉ có vậy, con phố này cũng có rất nhiều bảo tàng nhỏ trưng bày những đồ vật lạ kì, hấp dẫn.


Từ con đường này, có khá nhiều con hẻm nhỏ tỏa đi khắp nơi. Những con hẻm nhỏ lúc ban mai dường như vẫn còn đang ngái ngủ, thậm chí ngay cả những cửa tiệm bán đồ ăn sáng trông rất bắt mắt cũng vẫn còn thưa thớt người. Cách trưng bày của những tiệm ăn ngoài trời Copenhagen khá ấn tượng. Khách ngồi dưới ánh nắng sớm mai nhấm nháp chút đồ ăn, trên những chiếc ghế mây họ ngồi bao giờ cũng có một tấm chăn mỏng để nếu cần thì ai cũng có thể quàng lên người cho đỡ lạnh.


available on google playdownload on app store


Những bước chân vô định đưa chúng tôi tới Christianborg, nơi có trụ sở Quốc hội, Tòa án tối cao và cũng là văn phòng của thủ tướng. Từ đây, chúng tôi đi thẳng tới bờ biển, mặt nước xanh được nhuộm những tia nắng vàng lóng lánh. Tôi để cho gió hất tung mái tóc mình và hít hà mùi hương của biển… Chợt nhớ lại lời bài hát của Trịnh Công Sơn năm xưa “Ngày mai em đi, biển nhớ tên em gọi về…” va tôi tự hỏi không biết ngày mai tôi đi, biển nơi này có còn nhớ dấu chân tôi? Tôi bảo với Việt Anh rằng em có thể ngồi đây cả giờ đồng hồ để phơi nắng và ngắm mặt biển mà không thấy chán. Chưa bao giờ tôi thấy Copenhagen đẹp như trong khoảnh khắc này.


Từ Christianborg, chúng tôi tới Quảng trường Kogens Nytory và ăn trưa ở đó. Chao ôi, giá cả Copenhagen lại một lần nữa làm tôi sững sờ. Mỗi ly bia bình thường chỉ chừng ba euro, nhưng ở đây lên tới tận bảy euro, đã thế Việt Anh uống xong lại chê là không ngon, hóa ra bia Đức vẫn là nhất. Một cốc côca loại 300ml cũng lên tới tận bốn euro và món ăn rẻ nhất cũng chừng 20 euro. Thôi thì đành thực hiện chiến lược “xót tiền ngon bụng” vậy. Dòng kênh đào Nytory đi qua quảng trường này được kiến tạo cách đây 300 năm nhằm mục đích buôn bán bằng đường thủy được thuận lợi. Dọc hai bên bờ kênh là những ngôi nhà cổ nhưng sặc sỡ sắc màu do người ta sơn quét lại cho đỡ cũ kĩ và cũng để thu hút du khách. Khi xưa, đây là nơi ăn chơi của các thủy thủ từ nhiều châu lục khác nhau nhưng bây giờ, nơi này phần lớn đều để phục vụ du khách. Những chiếc thuyền trên kênh sẵn sàng đưa khách du lịch tham quan một vòng, bất cứ ai còn muốn nán lại thì sẽ thưởng thức bữa ăn “ngay dưới bầu trời”, theo cách gọi của người Đan Mạch.


Cung điện Amalienborg (Cung điện Mùa đông của Hoàng gia) nằm cách đó không xa và được xây dựng từ năm 1794 theo lối kiến trúc của Pháp. Báo chí vẫn thường ca ngợi rằng đây là một trong những cung điện đẹp nhất châu Âu. Cung điện này được Vua Frederik III xây dựng từ năm 1667 đến năm 1673 và được đặt theo tên của Hoàng hậu Sophie Amalie. Cung điện bị cháy vào tháng Tư năm 1689, chỉ còn lại khu vườn và được giữ nguyên cho đến năm 1748. Năm 1750, Cung điện Amalienborg được xây dựng lại trên một mảnh đất có hình tám cạnh với lối kiến trúc Baroque. Chúng tôi đến đây vào buổi chiều nên không được chứng kiến nghi lễ đổi gác vì nghi lễ này thường bắt đầu lúc 12h trưa.


Rất lâu sau, tôi có đọc một bài báo trên Phụ nữ Việt Nam với tựa đề “Đàn ông mê xe hơi” nói về một cuộc điều tr.a vần đây, rằng tuy rất mê xe hơi nhưng nếu phải lựa chọn giữa xe và người yêu thì số đàn ông lựa chọn người yêu vẫn cao hơn xe hơi 3%. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của người phụ nữ trong mắt đàn ông hay nói chính xác hơn, đàn ông thật thông minh khi biết lựa chọn phụ nữ trước xe hơi, nhưng tôi vẫn không thể nhịn được cười khi cuối cùng, tác giả lại kết luận rằng: “Thông minh là thế, nhưng đàn ông thật ngây thơ. Họ quên mất rằng phụ nữ đẹp có làm người yêu mãi cũng đến ngày thành… vợ. Và giai thoại khủng khiếp về vợ lại bắt đầu. Mà vợ thì không bao giờ thích chồng quá ưu ái xe hơi”.


Chúng tôi dừng chân ở một ngôi chùa – nơi mà nhìn sang bên phải là biển, còn bên trái là một không gian xanh vô cùng rộng lớn và thoáng đãng. Tìm được một nơi tuyệt vời như thế không hề dễ dàng. Sau này,  khi về Đức rồi, trong một vài giấc mơ, tôi vẫn thấy mình tung tăng đâu đó giữa chốn thiên đường ấy.


Chúng tôi dừng chân ở Lâu đài Rosenborg – một lâu đài cổ màu hồng theo kiến trúc Phục Hưng được xây dựng vào thế kỷ XVII. Nghe nói nơi đây lưu giữ nhiều hiện vật quý nhưng khi chúng tôi đến nơi thì đã hết giờ mở cửa nên chỉ được đứng bên ngoài nhìn vào và đi dạo xung quanh. Lâu đài này được bao quanh bởi một khu vườn xinh đẹp, lúc ấy đang là mùa xuân nên những bông hoa tulip đua nhau khoe sắc.


Có lẽ ai tới Copenhagen cũng đều mong được nhìn thấy bức tượng Nàng tiên cá nổi tiếng, đặt trên một tảng đá ở cảng Langilinic, do Edward Erikasen chế tạo theo “đơn đặt hàng” của ông chủ hàng bia Carlsberg. Trước đây, khi đọc những câu chuyện cổ tích của Andersen, tôi cũng đã từng mơ về nó và nghĩ rằng sẽ thật hạnh phúc khi được chiêm ngưỡng và ôm nó vào lòng. Nhưng thật đáng thương cho tôi, nàng tiên cá đã “bị” mang sang Thượng Hải để phục vụ cho buổi triển lãm sẽ diễn ra vào cuối tháng Mười. Tôi đành ngậm ngùi, thôi thì đành vào Tivoli ngắm bức tượng giả cũng xinh đẹp không kém vậy.


Tivoli là nơi mà có lẽ ai đã từng đến Copenhagen đều không thể bỏ qua, đây là khu giải trí năm sao vô cùng lộng lẫy. Tôi từng phàn nàn là đời sống ở Copenhagen đắt đỏ nên Việt Anh cứ bóng gió luôn: “Yến Anh đi chơi là cứ phải vào chỗ năm sao cơ”. Tôi không biết phải thanh minh và lý luận thế nào vì anh chàng nói chuẩn quá nên đành chữa vội: “Ừ thì đã mất chì rồi thì cho mất cả chài luôn, bõ công đến đây rồi mà”. Khu giải trí này nằm ngay ở trung tâm Copenhagen và được xây dựng từ năm 1843, nó có sức thu hút với tất cả những ai đến Copenhagen (không ngoại trừ tôi).


Với diện tích 80.000m , tại đây có đủ mọi thứ từ các quán ăn Á, Âu, các quán giải khát, các trò chơi truyền thống và hiện đại đến những vườn hoa rực rỡ sắc màu và đài phun nước. Từ những chiếc đu quay kiểu cổ điển dành cho trẻ em đến những toa xe chạy trên những đường trượt uốn lượn dành cho những người trẻ tuổi. Rồi những anh lính bảo vệ trong trang phục Hoàng gia thuở xưa đi diễu hành hộ tống những đứa trẻ ngồi trong những cỗ xe ngựa. Tivoli cũng là khu giải trí dành cho các sự kiện văn hóa với các rạp chiếu phim và nhà hát ngoài trời.


Ngắm Tivoli vào đêm thì quả thật không còn gì tuyệt vời hơn. Ban đêm vườn hoa này được chiếu sáng bởi 100.000 bóng đèn màu. Tôi vẫn cứ ngỡ đây là một thành phố nhỏ chỉ dành cho vua chúa thời xưa và nay chúng tôi có may mắn được hưởng diễm phúc đó. 


Khi đi bộ từ Tivoli về chỗ trọ để chuẩn bị cho chuyến đi Thụy Điển vào ngày hôm sau, tôi tự nhủ khi có điều kiện, nhất định sẽ trở lại nơi này. Tôi yêu thành phố mà mọi con đường đều có thể dẫn ra biển này, yêu những cơn gió se lạnh và yêu cả ánh hoàng hôn của mặt trời phương Bắc nhuộm vàng những ngôi nhà nghiêng nghiêng. Tôi yêu cái xứ sở mà nhiều người vẫn gọi là “nơi hạnh phúc nhất thế giới” với một nền công nghiệp xanh và một lối sống lành mạnh. Tôi biết rằng đây không phải là lần cuối cùng tôi tới xứ sở của những câu chuyện cổ tích thần tiên này.






Truyện liên quan