Chương 36: Vị võ sư Châu Hòa trấn

Vật đổi sao dời! Cuộc đời thay đổi! Định lệ “Hợp tan tan hợp” là chung cho cả muôn vật, nên sau bữa tiệc vui họp đủ mặt anh hùng bao quanh Lý thiếu hiệp, hậu duệ vị đệ nhất công thần nhà Đại Tống Lý Lăng vương thì U Linh nữ chủ được mọi người thuyết phục phải chịu chữa bệnh để cải tạo dung nhan.


Vạn Diệu sơn trang là nơi xảy ra nhiều việc kỳ lạ nhất trên đời. Cô gái “cùi” thoạt tiên quá cảm động vì lòng tốt của mọi người, không muốn mọi người vì mình chữa bệnh mà hại lây đến hạnh phúc cả ngàn người khác.


Chữa một thân hình lở lói, da thịt “thúi nát” để trở nên một hình hài “lành mạnh” không phải là câu chuyện một sớm một chiều có thể làm xong ngay được.


Đó là một công việc đòi hỏi nhiều kiên trì, cố gắng và nhẫn nại. Phải mất đủ một trăm lẻ tám ngày, cô gái trầm mình trong nước thuốc cho da thịt rửa thúi tiêu tan đi, rồi mặt mũi thân thể bệnh nhân được bọc chất thuốc lá “hồi dương”, bị thôi miên vào một giấc ngủ lâu ngày trong địa huyệt.


Các luồng “tĩnh điện” trong “Trung Cung” giữa Bát quái đồ trong địa huyệt sẽ tập trung trong người nàng và làm sống dần lại các thớ thịt đã ch.ết.


Như vậy, toàn thể khu vực Vạn Diệu sơn trang trù mật phải biến thành khu vực lặng lẽ bao quanh ngôi “cổ mộ” khổng lồ, không vật gì bén mảng tới khuấy động để làm đứt đoạn cuộc “cải tử hồi dương” của một thân thể nằm im bất động như một thi hài đã ch.ết.


available on google playdownload on app store


Mọi người bắt buộc phải tạm xa lánh sơn trang trong thời gian U Linh nữ chủ chữa bệnh. Nàng sẽ như xác ch.ết ướp nằm ngủ trong lòng đất.


Nàng sẽ làm một cuộc “thoát xác” và các nhánh lá sẽ tạo nên một thân thể “hình người mới”. Cái vỏ “phong cùi” sẽ bong ra và khi toàn thân đã mọc một lần bì phu thì người chữa bệnh sẽ đến cho uống linh đan khiến U Linh nữ chủ hồi tỉnh lại.


Sau giấc ngủ mê man hơn một năm trời, U Linh nữ chủ sẽ “lột xác” biến thành một cô gái có bộ mặt đẹp đẽ như khuôn đúc chiếc mặt nạ bạc đeo trên mặt kia.


Sắc đẹp “hồi phục” của nàng sẽ đem lại sự sung sướng cho bản thân cô gái, nhưng chưa biết kết quả đạt được có đúng theo ý muốn hay không, ngay lúc khởi đầu đã đòi hỏi bọn người Mã phu nhân phải hy sinh mất công sức nhiều ngày trong ngôi mộ trong cỗ thi hài nằm.


Tiểu Bạch, Thanh Diện Thần Quân, Vị Hải công nương phải trở về Quảng Mục trường tại phủ Diên Bình và Trực Lệ để gầy dựng lại thế lực đã mất.
Nhất Tiếu và Thần Ma Mật Tăng đi chiếm lĩnh Ngũ Đài sơn để chấn chỉnh lại sơn môn theo chỉ hướng “hành thiện” cứu đời của Lữ Huệ thiền sư.


Lý Thanh Hoa bắt buộc phải ở lại bên cạnh Mã phu nhân để giúp bà thực hiện việc cải tử hồi sinh cho con gái Lão Thần Y, như vậy mới đúng nghĩa là trả ơn cứu mạng khi xưa của Lão Dị Nhân, người anh em cùng học với ông thánh nghề thuốc.


Việc tìm gặp Ngũ Độc Thiên Nhân để trao phong thư Lý Thanh Hoa hồi âm lại cho con người có “trăm bộ mặt”, có những hành động lập dị “vào thần ra quỷ”, tung hoành giữa hai chữ Thiện và Ác, giữa hai quốc gia Liêu và Tống, giữa hai hình thức cải trang lúc “nam” lúc “nữ”, làm Mã phu nhân vẫn không biết ủy thác cho ai phụ trách.


Bà liền ngỏ ý với chàng thanh niên tài giỏi tuyệt luân, nhưng lúc nào cũng buồn bã như người mất hồn mất trí vì mốt huyết hải sư cửu cũng có phần vì bị kẻ khác phỗng tay trên mất người yêu quý nhất đời cũng có.


Thất Tình Tú Sĩ đương buồn phiên nên sau khi thấy nói bà giao phó công việc tìm gặp Ngũ Độc Thiên Nhân thì vui sướng lãnh nhận ngay. Phen này chàng sẽ trả được mối thù tên hai mắt “xanh lè” kia đã ức hϊế͙p͙ chàng trong cuộc cờ đương “thắng” phải khẳng định mình bị “bại”.


Đồng thời, phen này tái xuất giang hồ, chàng được rảnh tay trở về Ngọc Hư quán, tìm lại tên sư huynh La Côn và sư đệ Vũ Bộ Dương để hạch tội.


Nhưng Mã phu nhân cũng không khỏi lo chàng một mình ra đi không khỏi có điều chi khuyết điểm lấy ai ám trợ. Nàng Chi Mai ngồi bên nghe nói vậy tức thời hăng hái tình nguyện xin đi theo để giúp đỡ.


“Bông hoa rừng” này mơ ước từ lâu được xuống Trung Nguyên để thăm cảnh vật nơi đế đô thành thị mà từ trước chỉ được nghe mọi người nói chuyện tán dương mà mắt chưa hề được mục kích. Chuyến đi này sẽ giúp nàng mở mang kiến thức, nhận định rõ ràng tính tình phong tục người Hán để tương lai có bước lên ngôi vị Miêu Cương động chủ không bỡ ngỡ trong việc xử thế và bảo tồn danh dự.


Nhưng chắc chắn chỉ có Lý Thanh Hoa là am hiểu thâm tâm cô gái.


Nàng “sơn nữ” đã buồn, từ khi biết rằng mối tình yêu của nàng đối với Lý thiếu hiệp chỉ hoàn toàn là ảo mộng! Nàng chẳng thể cùng chàng kết tâm sắt. Mối tình yêu bắt buộc phải đổi thành tình bạn của đôi anh em “kết nghĩa” không hơn không kém. Nàng Chi Mai cũng bị thất tình! Mối tình pha lẫn sự kính phục chưa đến nỗi sang mối tuyệt vọng, đau khổ sâu đậm như Cao Kỳ Nhất Phương ôm nặng trong tâm hồn từ mấy năm nay.


Mã phu nhân vui vẻ để nàng Chi Mai đi cùng với Cao thiếu hiệp. Khi hai người đã sửa soạn hành trang xong, lúc Cao Kỳ Nhất Phương dắt con tuấn mã Bạch Tuyết Long Câu ra khỏi sơn trang thì có tiếng người gọi theo :
- Hai vị hãy chờ đợi! Tôi cũng được phép đi với hai người!


Cao Kỳ Nhất Phương và nàng Chi Mai ngoảnh lại thấy Lãnh Diện Băng Tâm cũng đương tay xách thanh kiếm gỗ, tay xách khăn gói chạy theo.
Mọi người đưa tiễn phía sau.
Lý Thanh Hoa trao phong thư cho Cao Kỳ Nhất Phương ân cần dặn nghĩa đệ :


- Ta nhận thấy không phải chỉ có một mình hiền đệ là kẻ chạy theo “hoa hạnh phúc”. Vậy xin hiền đệ nhớ lời ta dặn, sau khi đã tìm đặng bông hoa hạnh phúc thì giúp cho những người đi theo hiền đệ sự vui sống trong tình thương yêu hơn là sống trong cô độc thất vọng và lạnh lùng.


Cao Kỳ Nhất Phương không hiểu câu nói của nghĩa huynh chỉ âm thầm tiếp nhận phong thư, thản nhiên trả lời :


- Chuyện đời có nói “Hoa mai nở hai lần”. Tôn huynh muốn chữa một cô gái lở lói thành một giai nhân để cô ấy am hiểu sự “sống và yêu”. Còn em làm sao mà có được hạnh phúc, tìm thấy một em Thiếu Cơ nguyên vẹn thứ hai trong đời em? Nhưng không hiểu anh nghĩ thế nào lại bắt em, ngoài sự trông nom cô gái “mán cóc”, ngây ngô về để đó lại còn đèo thêm thằng “mặt lạnh như tiền”, nửa sư nửa đao phủ. Em biết tính nết nó rồi đây thay đổi ra sao, nó sẽ là Thập Thiện Đan Tâm có lòng lành cứu chữa muôn dân hay rồi còn là đệ nhất Thất Sát Tinh giết người như ngóe?


Lý Thanh Hoa cười và nói rằng :
- Kẻ đi tu thanh Phật hay không là tùy ở người cầm kéo róc tóc cho hắn. Cao đệ đã dùng kiếm “thí phát” cho y, thành chân tâm hòa thượng hay sẽ thành tử tù cạo trọc, cái đó còn tùy ở tâm hắn và một phần tài năng “chuyển hồn” kẻ dữ hóa lành của Cao đệ!


- Em có phải là Bồ Tát đâu mà hiền huynh giao cho em trọng trách làm vậy?
- Bồ Tát thì còn có “giọt nước cành dương” cải hóa tâm tính con người. Hiền đệ không phải là Bồ Tát thì hiền đệ đóng vai ông “thầy giáo” dạy học trò biết tình yêu thương trong đạo lý và lẽ phải.


- Dạy ai thì dễ chứ làm sao mà dạy được thằng cha có bí pháp Chiêu Minh kiếm pháp, kiêu ngạo đầu óc đã thấm nhuần yêu tà từ muôn ngàn kiếp.


Lãnh Diện Băng Tâm thấy Cao Kỳ Nhất Phương từ chối nguây nguẩy không chịu mang hắn đi theo vì sợ hắn đổi thay tính làm điều quấy phá dọc đường thì vội nói lời cam quyết :


- Cao huynh không e ngại! Tiểu đệ vẫn giữ nguyên cái đầu trọc làm sư này! Nếu làm điều gì quấy phá, xin Cao huynh cứ chặt phăng cái đầu này đi em không tiếc! Em có nói dối thì có... có Chi Mai đây làm chứng.
Nàng Chi Mai nhìn Lãnh Diện Băng Tâm thấy đôi mắt chàng ta năn nỉ quá xá, cũng nói hộ :


- Người biết hối cải còn cao quý hơn là người chưa hề biết tội lỗi mình làm hoặc có kẻ ngoan cố lầm lỗi vẫn khăng khăng chối cãi không chịu nhận. Lãnh huynh là bậc kỳ tài đánh kiếm, đi theo bọn mình càng thêm vây cánh. Em làm chứng là Lãnh huynh sẽ xử sự đàng hoàng, không để điều chi thất thố khiến Cao huynh phải buồn phiền.


Tức thời, cả người đều lên ngựa ra đi. Mọi người đứng trông theo vẫy tay tiễn biệt. Bỗng Lý Thanh Hoa gọi với theo :
- Cao đệ! Hãy tạm nhận “lộ phí” riêng của ta kính tặng! Làm xong công việc thì về, đừng có giao du quá trớn để nhà mong!


Nói rồi chàng ném đến vút một “túi gấm nhỏ” nặng trĩu về phía Cao thiếu hiệp. Chàng tú sĩ vươn tay nhẹ nhàng đỡ lấy, cho vào trong bọc hành trang đeo sau lưng ngựa, miệng nói lớn :
- Cám ơn Lý đại huynh! Em sẽ về sớm hơn hạn định!


Tuy nhiên, chàng cũng nghĩ bụng: đại huynh ta cũng quá cẩn thận đâm ra lẩm cẩm. Hai người kia mang theo rất nhiều vàng bạc. Đi đường mang theo nhiều tiền là tối kỵ, không biết tại sao đại huynh ta lại không nghĩ như vậy, còn cho thêm kim ngân mục đích để làm gì?


Xa xa, ngọn Thất Chỉ sơn nhỏ dần, khuất sau phía chân trời. Cao Kỳ Nhất Phương từ trước tới nay đi xa lúc nào cũng có Nhất Tiếu ở bên. Tính tình Nhất Tiếu lỗ mãng, nóng nảy, nên khiến chàng tú sĩ phải thận trong, dè dặt từng ly từng chút.


Lần này xuất ngoại với Lãnh Diện Băng Tâm, tuy chưa hiểu rõ tâm tánh ra sao, nhưng qua trận đấu cờ tại rừng trái cây Điền gia trang dạo nọ, chàng nhận thấy hắn ta “đa sát” quá vì vậy nên không ưa thích, hơn nữa bộ mặt Lãnh Diện Băng Tâm cứ lạnh lùng, khinh khỉnh, thật khó thương vô cùng!


Nhưng bây giờ, ngắm lại thì thấy đầu hắn ta róc tóc nhẵn bóng. Đầu tóc không bù xù như trước, bao nhiêu vẻ hợm hĩnh, lì lợm đã thay thế bộ mặt trắng trẻo, ngoan ngoãn, muốn lấy lòng đồng bạn hơn trước.
Phá tan bầu không khí bất thông cảm giữa hai người, Thập Thiện Đan Tâm khơi chuyện trước :


- Nè, Cao huynh đừng giận tiểu đệ nữa! Tiểu đệ hoàn toàn khâm phục tài đánh cờ nhất thiên hạ của Cao huynh.
Nàng Chi Mai nói :


- Hai người đã đánh cờ với nhau thì là bạn thân với nhau rồi! Em thấy họ có thân nhau mới chân ngồi đầu cù cưa với nhau hàng giờ không thiết gì đến ai, chỉ biết quân cờ và bàn cờ thôi.


- Chi Mai ngây thơ lắm, tưởng bộ hai người ngồi vào bàn đánh cờ với nhau là họ thân tình với nhau lắm sao? Họ nghĩ mọi cách để thắng, còn ác liệt hơn là đánh nhau nữa đấy.
- Em cứ tưởng hễ giận nhau muốn đánh nhau, cứ nhìn thấy mặt là ghét muốn bỏ đi, còn ngồi với nhau cả giờ làm sao được?


Đan Tâm trả lời :
- Chi Mai thực thà không biết! Cao huynh nói đúng đấy! Cùng ngồi đánh cờ với nhau mà thực ra là muốn giết nhau. Trước kia, sư phụ tôi ở trong nhà ngục đánh cờ với tôi, người kể chuyện đánh cờ với ai kẻ đó bị thua thì cũng giết! Nếu kẻ đó thắng ta thì lại càng nên giết đi nữa!


- Nếu vậy là xấu! Chi Mai ở trong bàn thấy các người già, ông Lục ông Châu, họ đánh cờ uống rượu tri kỷ với nhau. Thắng thì vỗ tay cười, thua cũng vỗ tay cười, uống thêm rượu lăn ra ngủ khì... vui vẻ đúng là “cờ tiên rượu thánh” chứ có lối đánh cờ quỷ gì chỉ nghĩ cách vác cả bàn cờ rap hang nhau.


Cao Kỳ bật cười chỉ vào mặt Đan Tâm nói :
- Cô đâu có biết lúc tôi ngồi đấu cờ với tên ăn cướp này, tay lúc nào cũng phải nắm chặt chuôi thanh Song Nhạn Thiên Linh kiếm giấu trong cây dù. Nó lăm le chặt đầu tôi mấy lần trong cuộc cờ đấy!
Chi Mai nghe vậy la lớn :
- Dữ quá đa! Có đúng thiệt vậy chăng?


Đan Tâm chắp hai tay trước ngực :


- Mô Phật! Đúng như vậy! Đúng vậy! Lúc anh đưa ra những nước chiếu bí đệ chỉ muốn vung kiếm quạt cho anh một phát! Nhưng Chi Mai phải biết, bên các anh ấy cũng chẳng dại gì? Chị Tiểu Bạch, anh Nhất Tiếu cũng thủ thế cả rồi! Giá đệ có chọc được ảnh một phát thì ảnh cũng quạt lại một phát, ra gì!


Chi Mai nói :
- Thế là “bên tám lạng, bên thì nửa cân” phải không. Ở Trung Nguyên một cân bằng mười sáu lạng, mỗi lạng mười sáu chỉ, phải không?
- Em hỏi để làm gì?


- Để biết cách trả tiền cho đúng mức! Em nghe nói người Trung Nguyên gian ngoa lắm. Con người càng tính khôn thì lại càng xấu. Em đi chơi lần này cho biết chứ thực tình em không thích người Trung Nguyên.


- Ở đâu cũng có người xấu, cũng có người tốt. Đây, tên xấu nhất Trung Nguyên bây giờ lại cạo trọc đầu đương làm sư thời Phật, cưỡi ngựa đi bên em đó. Em có thương được hắn không? Nó thuộc loại... “xấu số dzách” đấy!
Chi Mai nhìn, ngắm rồi cười hoài :


- Từ hôm em săn sóc thuốc thang cho anh lành bệnh em không thấy một chút chỉ là xấu ở anh ấy hết, tâm tánh dễ thương. Chỉ có cái đầu trọc tếu là “xấu” làm mất vẻ “bô trai”. Giá anh để tóc nguyên vẹn như Cao huynh thì có lẽ...
Cao Kỳ gặng hỏi :
- Thì sao...


- Thì... thôi chẳng nói nữa, mắc cỡ. Để lúc khác em sẽ nói.
- Lúc khác là lúc nào?
- ... là lúc em vào chùa, em khấn xin với đức Phật!
Đan Tâm thở dài một cái :


- Em cứ ngập ngừng làm anh hết hồn. Anh thanh minh với em không phải là anh tự nguyện róc tóc rồi đi tu, mà là Cao huynh lấy kiếm gọt tóc của anh bắt anh phải đi tu đấy! Anh ấy là “Phật sống” của anh. Không cần phải vô chùa, em nghĩ thế nào về anh thì cứ nói thẳng với ảnh đó.


Cao Kỳ Nhất Phương hiểu ý, nói lảng sang chuyện khác :
- Thôi đường dài, cứ rong cương lỏng lẻo thế này thì vài năm nữa cũng chẳng tới thành Lâm An. Chúng ta nên đi nhanh để tới quán trọ trước khi trời đổ tối.


Thế là cả người tế ngựa vùn vụt chạy trên đường thiên lý. Đúng là ba kẻ “vui đời, yêu người”, tâm hồn khoáng đạt đi tìm hoa hạnh phúc.


Cao Kỳ Nhất Phương và Thập Thiện Đan Tâm rất cưng chiều nàng Chi Mai, biết sơn nữ lần đầu tiên nhập Trung Nguyên, nên không nói mà cùng đồng một ý, muốn đem cái hay, cái đẹp, cái tráng lệ nơi đô thị khoe khoang cùng cô ta.


Chi Mai cũng rất khôn ngoan. Nàng cố giữ gìn thái độ để hai chàng không nhận thấy sự ngờ nghệch của mình.


Sau hai ngày rong ruổi vó câu, phủ thành đầu tiên được đón tiếp ba người là Liêm Khê phủ, nhà trên mười ngàn nóc, dân đinh chục vạn dư. Tuy không phải là một trấn trù mật vào bậc nhất, nhưng đối với nàng Chi Mai xưa nay quen sống trong rừng xanh núi đỏ, nhà cửa đông đúc lắm cũng lơ thơ vài chục nhà sàn, không bằng một giáp tại nơi đây.


Cao Kỳ đã có ý đi gấp đường để có thể vô nội thành trước giờ Thân. Qua cổng thành, phố xá hiện ra, nhà cửa san sát liền nhau dãy dài. Cảnh náo nhiệt tưng bừng khác hẳn chốn sơn lâm làm “sơn nữ” dù khéo giữ bộ mặt thản nhiên cũng không khỏi láo liên đôi mắt.


Nàng cưỡi ngựa đi giữa, khép chặt cương cho sát chặt Cao Kỳ :
- Người ở đâu mà nhiều thế? Họ mặc hàng gì mà coi đẹp dữ. Họ giàu có quá xá. Tại sao làm những vòng vàng vòng bạc của họ bóng sáng đẹp hơn vòng vàng đeo nơi cổ chân em?
Cao Kỳ ghé tai nói nhỏ :


- Không phải toàn là vàng cả đâu! Họ đeo vàng giả đấy Chi Mai ạ! Họ làm gì có nhiều vàng khối như chúng ta lấy ở trong núi Bạch Hoa cương đem về!
- Các cô gái ở đây đẹp quá xá! Da họ trắng như bột lọc, má hồng, môi son đẹp dữ a!


- Chi Mai ơi! Họ tô son trát phấn để đánh lừa những chàng trẻ măng mới ra đời như con chim vành mo còn vàng lợi. Nếu cạo phấn lau chùi vết son đi thì em sẽ trông rõ nước da vàng ệch như người bị phù thương, đôi môi lợt lạt như kẻ ch.ết trôi, không còn đẹp nữa đâu!


- Anh tả nghe ghê khiếp! Người Trung Nguyên kỳ quá nè!
Đan Tâm chép miệng :
- Thế mà khối kẻ biết vậy vẫn cứ đâm đầu vô! Trước khi trong số thiêu thân nhảy vào lửa đó phải có cả... “bần tăng” lúc nào cũng dẫn đầu hướng đạo.


- Chi Mai có thấy người ta bắt đầu ngắm nghía và trầm trồ khen ngợi vẻ đẹp thiên nhiên của Chi Mai không?
- Họ nói gì em đâu có hiểu!
- Họ nói, trông kìa hoa “phong lan” ở sơn cốc, trông kìa nước da khỏe mạnh của cô gái miền núi, của lạ rừng thiêng?


Chi Mai giương đôi mắt đen láy màu huyền nhìn Cao Kỳ như hỏi :
- Anh trọc đầu nói thiệt hay rỡn em!
Thấy Cao Kỳ gật đầu, nàng nhìn quanh, quả nhiên thấy đám đông chú mục nhìn mình. Không chút e thẹn, nàng ngửng mặt, khuôn mặt phẳng đẹp kiêu hãnh, lấy hai gót chân thúc bụng ngựa cho tiến bước.


Thực tình thì sơn nữ Chi Mai rất đẹp, người đứng hai bên vệ đường mỗi lúc một đông, đứng xem ba người như coi đám rước.
Đan Tâm (tức Lãnh Diện Băng Tâm) thấy vậy lấy làm chướng mắt, chỉ muốn rút kiếm ra nạt nộ và mắng những kẻ vô lễ đó một trận tơi bời :


- Chúng bay giương mắt ếch ngó cụ “cố nội” bay đấy ư?
Nhưng Cao tú sĩ giơ tay ngăn cản :
- Người ta ngắm nhìn mình thì mặc kệ người ta. Cho ngựa chạy nhanh tìm lữ điếm mà nghỉ ngơi có hơn là gây chuyện lôi thôi, mất thì giờ, vô tích sự?


Chàng rẽ ngựa sang phố xá có nhà cửa cao sang rộng rãi, tìm kiếm biển đề lữ quán sang trọng nhất.
Chàng thuê ba căn phòng rộng rãi, lịch sự ở chốn thị thành, đồng tiền có quyền năng sai khiến hơn hết thảy.


Thoạt tiên chỉ là một chú phổ kỵ hất hàm hỏi ba người cần dùng gì? Rồi đến người tài phú chạy ra hỏi han. Kế đến viên quản lý khách quán thân hành dẫn đi lựa chọn nơi ăn chốn ngủ. Dẫn tới phòng nào, Cao Kỳ cũng chê là bẩn thỉu, bê bối, chật hẹp.


Sau khi đặt lạng vàng vào tay viên quản lý, chàng nói vắn tắt :
- Quý tiệm không đủ điều kiện cao sang để “Quận chúa” tạm nghỉ! Cảm phiền cầm tạm ít tiền “nhậm xà” và cho biết lữ quán nào sang trọng xứng đáng hơn không?


Đồng tiền có năng lực đánh mạnh hơn thế lan truyền, viên quản lý được vàng cuống cuồng chạy gọi vị tài chủ. Vài phút sau đã thấy lão bụng phệ hấp tấp chạy ra, cúi rạp xuống nói :


- Kính chào Quận chúa, Quận chúa ở phương nào hạ giá giáng lâm mà “tệ chủ” không hay biết sớm thân nghênh tiếp, thực đáng tội ch.ết. Nay có ngay đại phòng để Quận chúa dừng chân.


Thế rồi gia nhân rối rít, chạy ra, chạy vô, cả vợ tên chủ lữ quán cũng ra tiếp đón ba người vào khu vực quán xá dành riêng cho các thượng quan. Lẽ tất nhiên, chúng cho mướn phòng ngủ với một cái giá chỉ có những đại phú gia hoặc “thượng quan” đầu tỉnh mới có đủ tiền mướn nổi.


Trả tiền xong, bước vô phòng quả thấy trang hoàng đẹp đẽ khác thường. Tuy chẳng thể bằng cung điện nội thất triều đình, nhưng tất cả đều đã lạ mắt với nàng Chi Mai lắm rồi.
Ánh sáng mọi vật huy hoàng bóng lộn đã làm cô gái sống trong man rợ trở nên rụt rè và quê kệch.


Chính nàng cũng chẳng hiểu tại sao, ở nơi đây, lúc ban đầu mọi người tiếp đón lạnh nhạt, chỉ một chút vàng với tiếng “Quận chúa”, thì con người đã biến đổi từ thái độ làm bộ làm tịch của người chủ, tụt thẳng xuống thái độ của những tên nô dịch hèn hạ, sai bảo điều gì cứ vâng dạ cuống quýt lên.


Tất cả họ đều làm “tôi tớ” đồng tiền. Đồng tiền có quyền năng vô hạn.
Nhưng đó là vấn đề đã xưa hơn trái đất, và còn tồn tại như mái nhà nhọn chỉ lên trời, con chó bốn chân ngoe nguẩy cái đuôi khi được cho sực.


Lần đầu tiên, Chi Mai đặt mình nằm ngủ trên giường phủ ấm, nệm lụa lót bông nõn êm ái.
Thức ăn được mang vào tận phòng, khách dùng những món lạ vị ngon. Vì đi đường mệt nhọc nên cả ba ai ở phòng nấy, nghỉ ngơi rất sớm.


Trời bừng sáng lúc nào không hay, Cao Kỳ vươn vai ngồi dậy, vô tắm rửa thay quần áo.
Sau khi y phục gọn ghẽ chàng sang phòng Chi Mai gọi cửa xem nàng đã dậy chưa, nhưng chỉ thấy im lìm không có động tĩnh chi hết?


Lo ngại chàng sang phòng Đan Tâm thấy vẫn ngáy o o, cửa phòng quên không khóa, những lữ quán mắc tiền, sang trọng, vấn đề an ninh bảo đảm vẫn hơn mọi nơi khác. Đồ đạc không bị suy chuyển mất mát.
Cao Kỳ bẹo tai Đan Tâm nói rằng :


- Sư mô gì mà lười như... anh chàng đại lãn, mặt trời lên cao còn nằm trườn trên giường, mai sau phải vô chùa tụng kinh niệm Phật, thức khuya dậy sớm thì sao?
Đan Tâm mắt nhắm mắt mở trả lời :


- Em chắc “tu tâm” thì đặng chứ tu chùa khó đặng lắm! Nhưng cần gì, người ta thường nói “thứ nhất tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa” cơ mà. Làm thầy chùa, còn lâu mới thành Phật đặng! Bản tính lại ưa mau lẹ, gì cũng muốn làm tắt! Cho đến võ đấu, tới ba hiệp mà không chém rụng đầu đối thủ coi như là rồi!


- Chi Mai đã dậy chưa? Đưa nàng đi xem phủ thành, may sắm một bữa cho Chi Mai vui thích.
Cao Kỳ vòng ra phía ngoài thấy cửa song hé mở liền đứng ngoài nhòm vào, gọi nhỏ mấy tiếng “Chi Mai! Chi Mai!”. không thấy tiếng ai trả lời cả.


Chàng thất kinh không hiểu cô nàng sáng sớm đã một mình đi đâu? Đồ đạc, đoản kiếm, cây ná, giỏ tên và hành trang vẫn để y nguyên trên bàn lớn giữa phòng.
Thật là kỳ lạ! Đi đâu cũng phải nói qua cho chàng biết mới phải chứ! Hay là Chi Mai bị cường đạo... bắt cóc đem đi mất tích.


Tuy nhiên vốn tính tình hành động thận trong, Cao tú sĩ liền quay trở về phòng mình, giắt bảo kiếm và đi quan sát vòng quanh bên ngoài xem sao? Nơi đại khách quán lịch sự này vườn hoa rất rộng, có nhiều cây cổ thụ mọc để có bóng mát cho khách trọ.


Trong lúc chàng tìm tòi quanh quẩn dấu vết thì thấy có tiếng động sột soạt trên cao và có kẻ dùng vỏ cây nhắm người chàng ném tới. Theo phía vỏ cây bay lại, chàng ngước mắt trông lên thì thấy rõ ràng là Chi Mai đương nằm đánh đu trên cành cao chót vót. Nàng đã lấy thừng làm võng mắc vào hai cành cây leo lên ngủ ngoài trời như sơn nhân.


Chưa kịp hỏi han gì thì Chi Mai đã oang oang nói vọng từ trên xuống :
- Ngủ trong phòng khó thở quá, leo lên đây quang đãng, thoáng khí, ngủ ngon ghê!
Biết nói sao nữa, Cao Kỳ đành chỉ cười ruồi, gọi nàng xuống, bảo đi tắm gội rửa mặt thay y phục đi thăm phố phường.


Trong khi chờ đợi nàng Chi Mai thay đổi quần áo và sai người thuê kiệu để “Quận chúa” đi thăm phủ thành, Cao Kỳ thu nhặt tiền nong. Chàng chợt nhớ đến cái túi gấm Lý Thanh Hoa ném cho chàng lúc khởi hành vào phú chót.


Không ngờ chẳng mở túi nhỏ ra coi thì thôi, vừa mở ra xem thấy trong có một vật làm chàng ngây ngất cả tâm thần?


Số là trong túi gấm, không kể những viên kim cương mài dũa phát tia sáng lóng lánh lại còn có một chiếc mũ “bối tử” bằng lụa thiên thanh nhỏ bé mà trước đây người tình của chàng đã đội buổi thi ngựa đầu tiên. Chính chiếc mũ xinh đội xéo trên mái tóc và khuôn mặt người đẹp đã ban cho chàng một tiếng “sét” ái tình khiến chàng tan vỡ trái tim, đã bao năm tháng khôn bề hàn gắn.


Đột nhiên bữa nay “kỷ vật” của người yêu không biết từ đâu lại qua tay Lý Thanh Hoa rớt vào túi gấm này để chàng cầm lấy nâng niu, nhớ nhung nhung nhớ.
Đã bao năm, mùi lan hương vẫn chưa tàn phai. Ngửi mùi hương thơm tự chiếc mũ phảng phất tỏa lên tâm hồn chàng cũng bay cao vút chín tầng mây.


Biết bao câu hỏi vấn vương trong đầu có? Thế này là nghĩa lý gì? Hoàn Mỹ Thiếu Cơ tiểu thư hiện nay ở đâu? Ông cụ Mỹ Nhiệm Công còn sống hay đã ch.ết? Hoàn Mỹ Thái Cơ, biểu tỷ của nàng bây giờ ra sao?
Bao nhiêu kỷ niệm những ngày xa xưa tái diễn trên màn trí nhớ một cách mơ hồ, không rõ nét.


Chi Mai và Đan Tâm, hai người đã vô tới phòng đứng cạnh chàng hồi nào mà chàng không hay?
- Trời! Chiếc mũ của cô nào mà vừa đẹp, vừa xinh như vậy?


Cao Kỳ Nhất Phương lúc đó trông rõ là một anh chàng trồng cây si hạng nặng, mặt cứ nghệt ra không sao trả lời đặng. Chàng lúng túng bỏ chiếc mũ vô túi gấm, trong lúc vội vàng thấy từ trong mũ rớt xuống đất một mảnh giấy nhỏ.
Trong giấy chỉ đề vỏn vẹn hàng chữ ngắn :


“Những hạt kim cương để làm xâu chuỗi kính tặng Hoàn Mỹ Thiếu Cơ tiểu thư Bình Giang hầu Lâm Hòa Trấn”.
Đọc xong, chàng lại càng bâng khuâng chẳng hiểu Lý Thanh Hoa muốn mách bảo chàng những điều gì? Không lẽ quay về Vạn Diệu sơn trang để hỏi lại cho rồi?


Đan Tâm thấy Cao tú sĩ mất hết vẻ tự nhiên, đoán biết chiếc mũ đàn bà con gái có liên can tới anh chàng “thất tình hạng nặng” này, không dám hỏi xía vô chuyện tư, chỉ ngâm nga :
- Âu yếm làm chi, khổ lắm ai ơi! Tu là cõi phúc, nên róc tóc đi tu cho yên một đời!


Tên tài chủ bụng phệ đã lễ phép vào vấn an và báo tin là kiệu và ngựa đã sẵn sàng ngoài sân.
Đan Tâm vẫn hát nghêu ngao tiếp theo :
- ... Muốn yên một đời, trong nhà không ngủ được thì trèo lên cây!


Chi Mai nắm tay định tặng cho “Tân hòa thượng” một đấm vào bả vai, nhưng hắn đã lạng người tránh né.


Cuộc đi thăm đó đây trong thành nội, Phủ Liêm Khê không làm nàng Chi Mai ngơ ngẩn. Người ngơ ngẩn nhất đám hôm đó lại là Cao Kỳ Nhất Phương. Anh chàng như người mất hồn, bộ điệu “mán xá” hơn ai hết! Đi vào giữa đám đông cứ tưởng đi chốn đông người, hết đụng người này lại xô nhằm người nọ, khiến Chi Mai phải lanh miệng xin lỗi hộ mấy lần.


Thực là trái ngược, Chi Mai hỏi han, mua bán, sắm sửa những vật nàng thích.
Khi trở về lữ quán, thay vì ai trở về phòng người nấy như tối trước, Chi Mai đòi đi xem hát vì nàng nghe nói ở Trung Nguyên có những rạp hát bội, con hát quần áo mũ măng, ca nhạc hát xướng hay lắm!


Thực tình, Cao Kỳ chỉ muốn rời Liêm Khê đi thẳng ngay đến Châu Hòa trấn, tìm hỏi đến dinh thực Bình Giang hầu xem biết là vị nào để hỏi thăm tin tức Thiếu Cơ và nguyên do cái mũ xinh xinh của nàng? Nhưng nói thẳng ra chỉ e không tiện, sợ hai người chế giễu, mà để trong bụng thì cứ thấy ngày giờ dài dằng dặc, ngổn ngang trăm nghìn mối sợi lòng thòng.


Chàng vờ lấy cớ bị nhức đầu nằm nhà không đi đâu hết, đặng chờ Đan Tâm nói với lão tài chủ cùng dẫn vợ con hắn, đưa Chi Mai xem rạp hát nào hay nhất Phủ Thành.
Tưởng nằm ở phòng, ngủ được chút nào chăng? Ai ngờ: Khạc chẳng ra cho, nuốt chẳng vào.
Chữ tình không biết nói làm sao?


Kết cục lại đành mở túi gấm lấy chiếc mũ cầm tay ngắm nghía mãi. Bất giác, chàng chợt ngủ lúc nào không biết, chiếc mũ úp trên ngực. Nửa đêm thức giấc, chợt nhớ tới Chi Mai không biết nàng xem hát đã về chưa?


Để yên tâm, chàng mở cửa phòng lần ra phía ngoài nhòm qua song cửa xem Chi Mai còn nằm ở trong hay đã mở cửa song ra ngoài vườn hoa leo lên ngọn cây cao ngủ khèo trên đó?


Quả nhiên thấy trong phòng còn đốt nến mà cửa song lại bỏ ngỏ không khép. Đêm đó anh sáng trăng. Chàng ra ngoài nhìn xem thiếu nữ đã “leo cây” chưa?


Sợi thừng kết làm võng còn đó mà bóng người không thấy đâu? Hay nàng đã tìm cành cây khác leo lên ngủ. Thực là khổ! Chàng thề nguyện nếu biết thế này thì bận sau đi đâu chỉ một mình để được tự do hành động theo ý muốn của mình, đằng này cứ bị bó buộc như bà già trông nom trẻ nít.


Sau khi tập trung nhỡn lực tìm hết nhành cây này tới cành cây nọ, không thấy tăm hơi bóng vía cô “mán cóc” ở đâu cả. Chàng tức mình, định bụng trở về phòng ngủ, mặc xác cô ta.


Thì đã thấy một bóng đen tay xách chiếc ná từ đầu tường hoa nhảy xuống, định thần trông rõ thì là... Chi Mai. Không hiểu nửa đêm không ngủ còn xách ná đi bắn ai trong đêm tối? Ở phủ thành làm gì có thú rừng? Hay Chi Mai đã nhằm mèo chó nuôi nhà người ta bắn chơi?
Phải hỏi cô ta mới được!


Dưới ánh trăng Chi Mai mặc bộ y phục mới mua hồi sớm. Đó là bộ đồ chẽn bằng vóc màu hồ thủy, y phục bó sát người để lộ những đường cong tuyệt đẹp, trông Chi Mai như một pho tượng nữ thần cử động...


Thấy nàng hiện ra trên bãi cỏ, từ trên nóc nhà cũng có một bóng đen khác nhảy xuống. Thấy thân pháp từ cao buông xuống nhẹ nhàng hơn chiếc lá rụng tỏ ra bóng lạ đó phải có bản lĩnh cao cường, Cao tú sĩ cả kinh để tay lên chuôi kiếm nhưng khi nhìn rõ mặt thì tưởng ai té ra là người cũng bọn Lãnh Diện Băng Tâm.


Chưa kịp hỏi lời nào, Lãnh Diện Băng Tâm đã trách móc trước :
- Thấy mất tích Chi Mai tôi đã tưởng việc gì đã xảy đến cho Chi Mai, đêm khuya không ngủ còn xách ná bắn ai vậy?
Người sơn nữ hồn nhiên đáp :


- “Em cứ tưởng chỉ có ở trên rừng mới có ma. Ở thành thị cũng có lắm mà! Nằm ngủ trên cây cao em nghe thấy từ xa có tiếng khóc nỉ non vọng lại. Tiếng khóc của người đàn bà rất ai oán. Em cứ tưởng những người sống ở đây, họ vui sướng lắm, không có ai đau khổ!


Tiếng khóc giữa đêm khuya thanh vắng làm em nghĩ đến những người bị “ma làm” ở trong buồng. Mà đúng như vậy! Có người đàn bà xõa tóc đi ra phía gốc cây xoan, lấy thừng làm thòng lọng treo cổ lên cành cây tự sát.
Người đàn bà đó bị mà “thần vòng” đến bắt đem đi.


Nếu mặc kệ thì người đàn bà sẽ ch.ết! Em phải vô phòng lấy chiếc ná lắp một mũi tên, bắn cho đứt sợi dây thòng lòng thắt cổ. Người treo cổ rơi bịch xuống đất. Em tưởng họ sẽ tỉnh lại ma không bắt hồn họ đem đi nữa.


Không ngờ người đàn bà ấy lại khóc một hồi rồi lại buộc nối đầu dây và chui đầu vào thòng lọng một lần nữa.


Em phải sang tháo dây, gỡ nút cứu cho người đàn bà quyên sinh đó hồi tỉnh lại. Người đàn bà đó chắc bị mà làm “nặng” lắm nên khi hồi tỉnh lại chỉ khóc lóc và nói những gì em nghe không hiểu.


Em đành quay về định tìm Cao huynh hỏi xem có cách nào bảo họ đừng thắt cổ tự tử như thế. ch.ết như vậy lại thành mà, rồi con ma thắt cổ lại đi tìm một người khác quyến rũ người ta thắt cổ. Người Miêu, cả khi cả nhà bố mẹ con cái lần lượt theo nhau thắt cổ ch.ết lần lần hết cả nhà!


“Cái ma” ấy nó độc lắm!”
Cao tú sĩ nghe Chi Mai nói vậy liền bảo nàng dẫn đi gặp người đàn bà khốn khổ đó hỏi đầu đuôi tại sao mà khóc lóc, đêm khuya ra gốc cây treo cổ tự vận?


Chi Mai dẫn hai chàng hiệp sĩ lại cuối tường đi vòng ra sau một rặng cây, vượt qua dãy nhà kho bỏ trống thì tới một sân cỏ rộng. Bên đống rơm cho lừa ngựa, một người đàn bà đầu tóc rũ rượi, phủ phục rên rỉ.


Chàng tiến lại gần, dùng lời nói ngọt ngào an ủi và hỏi nguyên do. Người đàn bà lau nước mắt và kể lể :


- Tôi là một góa phụ, quê ở An Huy chồng ch.ết chỉ một đứa con trai nhỏ. Nhà nghèo không đủ ăn nên mới tìm lên đây sinh sống. Nhưng tưởng không nuôi được con thì tìm nơi giàu sang phú quý bán con cũng như là gởi gắm hài nhi vào được nơi ăn no, đỡ khổ mau nên người. Không phải tôi tham tiền mà bán con vào nhà giàu. Ai ngờ, sau khi nhận tiền ký kết giấy tờ xong mới biết là người ta bỏ tiền ra mua con tôi không phải để nuôi nấng nó nên người, mà là để đem nó làm vật hy sinh. Biết vậy tôi trả tiền, đòi lại con mà người ta không có nghe.


Chi Mai nghe người đàn bà nói rành mạch nỗi niềm, nàng tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi Cao Kỳ rằng :
- Ở Trung Nguyên có chuyện mua trẻ con bằng tiền hả? Nhưng rồi đem “hy sinh”, có phải là đem đi tế thần sông, thần núi phải không?
“Hòa thượng” Đan Tâm xác định câu hỏi của Chi Mai :


- Ngày xưa, ở một vài địa phương, bọn phù thủy phương thuật có bày trò đem trẻ nít, đồng nam đồng nữ thọc huyết tế thần linh, để cầu đảo trời mưa khi hạn hán, hoặc cầu xin khỏi nạn động đất đổ nhà đổ cửa! Cũng có nơi chở đồng nam, đồng nữ ra giữa sống tế thần Hà Bá tránh nạn đắm đò, đắm thuyền, hoặc thủy lao trôi nhà cửa, ngập lụt ruộng nương điền sản. Nhưng bây giờ các mối dị đoan tín nhảm đó đã bị quan quân ngăn cấm không còn nữa.


Cao Kỳ nói theo :


- “Chắc từ ngày xảy ra câu chuyện: Có vị quan cai trị ở miền Giang Nam thấy dân chúng địa phương quá tin theo ông đồng, bà cốt nên mới thông lệ “cưới vợ” cho hà bá, mỗi năm bắt dân làng cung ứng một đồng nữ đem ra bờ sông tế thần sông thì đem “trầm hà” nói là rước xuống thủy cung làm vợ cho hà bá. Vị quan nọ muốn diệt trừ nạn tệ đoạn khốc hại đó, liền nói rằng :


- Phải cho “ông mai, bà mai” xuống báo tin cho Hà Bá hay trước là cô dâu sắp tới thủy cung.
Rồi truyền lính hầu tóm cổ ông đồng bà cốt quăng xuống sông. Thế là các tên chủ xướng ch.ết “ngủm” rồi, viên quan nói :
- Chờ lâu không thấy ông mai, bà mai trở lên cho hay tin, vậy xin mời ông chủ hôn xuống xem sao?


Những kẻ a dua đề xướng ra việc tế lễ, lấy vợ cho thủy thần đều xanh xám mặt mày không ai muốn được chỉ định là kẻ chủ hôn. Giai thoại này đã làm cho việc dùng đồng nam đồng nữ làm con sinh trở nên mất hết ý nghĩa và không còn những sự làm ch.ết mạng người một cách vô nghĩa lý nữa”.


Chi Mai hỏi :
- Nhưng tại sao hiện nay, theo lời người đàn bà vẫn còn việc mang con trẻ ra làm vật “hy sinh”. Vậy thì hy sinh cái gì? Tại sao bọn phù thủy được mọi người tin như thế?
Chàng thiếu hiệp đáp :


- Theo tôi biết thì dân chúng phần nhiều cầu an, nhẹ dạ cả tin và dễ bị lạm dụng. Theo cổ tục người Hán tin theo phong thủy, không muốn thân nhân ch.ết mất xác. Bằng mọi cách phải thu thập lấy thi hài để đem chôn cất tử tế, có như vậy thì dòng họ làm ăn mới khá giả. Những kẻ bị ch.ết trôi, ch.ết chìm dưới sông, ai biết xác ở chỗ nào dưới đáy sông mà mò, vớt lên được. Bọn phù thủy bao giờ cũng tinh mà hơn. Chúng biết loại rùa hay ăn thịt thối xác rữa, chúng bỏ đói con rùa rồi lấy dây buộc vào lỗ lủng xiên cạnh mai rùa, rồi thả con vật đó xuống dòng sông. Con rùa tới chỗ thây ma ch.ết đuối, dừng lại thì người ta cứ nhằm chỗ đó mà lặn xuống thì vớt đặng thây mà.


Như vậy, người nhà nạn nhân thu thập được thi hài kẻ xấu số.
Chỉ cần một việc kỳ lạ đầu tiên theo các điều hão huyền về sau cũng được tin theo. Nhà có con gái mà gả cho thủy thần lấy làm vợ thì chắc chắn cả nhà được thần phù hộ.
Còn gì “hách” bằng làm anh sui, chị sui với tiên thánh.


Còn gì “le” với thiên hạ trong làng bằng có con gái làm bà chúa dưới đáy thủy cung, có con rể là ông Hà Bá. Ai đi đò qua sông, quá giang qua bến mà không kính nể ông nhong bà nhong của vị thần khúc sông đó?


Từ chỗ lợi dụng, đưa một số người ngu ngốc lên mây xanh, rồi đem reo rắc sự khủng bố tinh thần, đe dọa bắt con gái nhà người ta mỗi năm một người gả cho Hà Bá thì nhà nào có con gái lớn lên mà được các ông đồng bà cốt chiếu cố, chẳng rét run lên bần bật.


Chi Mai nghe Cao Kỳ giảng giải, miệng há hốc ra, thán phục vô cùng. Nàng không ngờ anh chàng từ trước tới nay, lúc nào cũng buồn như “cú rũ” lại là một nhà triết học hiểu rộng, biết nhiều, uyên bác đến thế?
Nàng để cho chàng thiếu hiệp ngưng “thao thao bất tuyệt” rồi mới vào đề :


- Như vậy người đàn bà này có bị người ta mua đứa con bà đem vất xuống sông không?
Người đà bà lắc đầu.
- Vậy tại sao bà bảo người ta “hy sinh” đứa con trai nhỏ của bà?
- Câu chuyện này khó nói lắm! Ông võ sư ở Châu Hòa trấn...


Người đàn bà vừa nói tới đây thì đã thấy có hai người đàn ông xách đèn từ trong nhà kho bỏ trống đi ra. Người lực lưỡng đi trước lớn tiếng mắng rằng :
- Con mụ điên chỉ nói lảm nhảm. Quý vị quan nhân đừng nghe lời nói lăng nhăng của con mụ điên đó!


Người đàn bà có vẻ sợ hãi, ôm mặt khóc ròng và lẩm bẩm như van nài :
- Vâng tôi nói tầm bậy tầm bạ... xin các người đừng nghe... mặc kệ tôi, để tôi được thắt cổ ch.ết đi cho rồi! Tôi không muốn sống nữa!
Hòa thượng Đan Tâm tức giận mắng lớn :


- Hai anh kia ở đâu xía vô làm cắt ngang câu chuyện của người ta! Điên hay không việc gì đến các anh?
Hai người đàn ông không để ý tới nhà sư trẻ tuổi, chỉ to tiếng mắng át người đàn bà :


- Chúng ta đã thương mi cô độc một mình, cho tạm trú nơi đây cho mi đủ ăn đủ uống đủ sống cho yên cái thân hèn hạ. Đã không biết điều lại còn cà kê dê ngỗng. Sớm mai sẽ tống khứ mi đi nơi khác, rồi thì mi muốn tự vận ch.ết nơi đâu cũng được. Không ai thương tiếc, ngăn cấm làm gì đâu?


Cao tú sĩ trợn mắt hỏi :
- Hai người là ai, sao lại hắt hủi, dọa dẫm kẻ thế cô như vậy?


- Chúng tôi là người canh gác ban đêm khu vực chung quanh lữ quán. Các ông là khách không việc gì phải quan tâm đến người đàn bà ở đậu này. Xin mời các vị trở về phòng khách nghỉ ngơi đừng làm bận rộn đến kẻ khác.
Đan Tâm cười nhếch nửa miệng :


- Á! Vậy thì hai anh chỉ là người làm công trong lữ quán! Chắc các anh không biết chúng ta là kẻ bị làm bận rộn, nghe không? Chúng ta không làm bận rộn ai hết! Hai anh chưa đủ tư cách dạy khôn bọn ta, mau đi tìm chủ các anh lại cho hỏi đầu đuôi câu chuyện!


Tên cao lớn lực lưỡng xách chiếc đèn lồng hậm hực trả lời :


- Đúng các người là “thượng khách” của bản quán mới có quyền sai bảo chúng tôi. Chúng tôi không chối cãi. Để chúng tôi đi gọi chủ chúng tôi tới giải thích cho các người, nhưng tốt hơn hết là đừng nên đặt chân tới Châu Hòa trấn!


Y dằn giọng đe dọa. Cao thiếu hiệp sợ Đan Tâm nổi đóa, ra tay làm hư việc nên bảo hòa thượng rằng :
- Hiền đệ hành động phải lắm! Chúng ta nên nói chuyện với chủ hơn là nói với đày tớ! Chi Mai kéo người đàn bà khóc lóc đi theo về phòng.


Lát sau, chủ nhân lữ quán mắt nhắm mắt mở, tới hỏi đầu đuôi tự sự. Chàng thiếu hiệp kể lại cho hay. Kế đó chàng hỏi Chu Hòa Trấn ở cách phủ thành bao xa? Vị võ sư danh tính là gì? Có cách nào giúp đỡ người đàn bà lấy lại đứa con đã bán không?


Chủ lữ quán bụng phệ vừa ngáp vừa lắc đầu lia lịa.
- Xin các đại quan nhân và Quận chúa bỏ qua việc này đi thì hơn. Người lương thiện, ưa thích sự làm ăn yên ổn không ai dám nhắc tới tên Châu Hòa trấn chứ đừng nói là tìm hỏi đặt chân đến đó nữa!


- Tại sao vậy? Nơi đó là tổ giặc cướp, toàn những tên thành tích bất hảo tụ tập hay sao? Vì cớ chi người đàn bà bán con lại nói là bà ta sẽ bị hy sinh? Hy sinh tính mạng trẻ con để làm gì?


- Các đại quan nhân và Quận chúa ở xa mới đến không biết. Nơi đó không phải là sào huyệt của bọn cướp của giết người. Những ai vô tình mang trẻ nít tới trên đó, nếu không bị dụ dỗ đem bán đi thì trẻ cũng bị bắt cóc mang đi mất tích. Tôi không tin ở thời buổi này có ông ba bị chín quai, mười hai con mắt hay những con mụ chằng tinh ưa thích ăn thịt trẻ nít hôi tanh ngon lành gì? Tôi nghe phong phanh hình như có võ sư nào ở Châu Hòa trấn muốn dùng trẻ nít để giúp hắn ta ghép hạch để “cải lão hoàn đồng” người già hóa trẻ lại hay là dùng máu trẻ nít để luyện “Đồng Tử Âm Dương Chưởng Kiếm”, đúng không! Nếu không đủ số đồng nam đồng nữ từ tám tuổi tức những trẻ sanh từ năm Giáp Thìn trở xuống thì có lẽ các ông thầy võ đó sẽ xuống tận phủ thành Liêm Khê để tìm chọn trẻ nít bắt hoặc đem đi. Vậy, chẳng một người dân nào dám tố cáo. Và nếu có cáo giác, khiếu nại lên quan phủ thì cũng như không vì chính viên phủ quan cũng đã sợ hãi cho gia nhân đem tiểu công tử và tiểu thơ ẩn náu đi nơi khác để tránh khỏi tai họa. Dù biết chuyện tày trời xảy ra trong quản hạt, cũng đành làm ngơ để khỏi bị hỏi thăm sức khỏe. Tôi cũng đã mở lòng nhân đức cho người đàn bà khốn nạn mất con tạm trú ở đây, song không hiểu tại sao bả lại nghĩ đến chuyện tự vận.


Người ta trả giá cũng hùng hậu lắm. Năm chục lượng vàng một đầu trẻ. Chẳng hơn tại Hà Bắc người mẹ đem bán con đổi lấy đặng dăm “củ khoai lang” không đặng.


Người đàn bà đã trót bán con móc trong bao thắt lưng, lấy ra một gói giấy phòng năm chục lượng vàng đưa cho mọi người và nói rằng :
- Ai quý tiền hơn tình ruột thịt thì không biết, tôi xin trả vàng để đổi lấy lại con!
Chi Mai gạt tay bà bảo cất tiền đi :


- Yên tâm! Ta bảo hai hiền huynh của ta giúp lấy lại đứa con trả lại cho bà. Việc hoàn lại tiền nong chúng ta đảm trách. Nào Châu Hòa trấn ở đâu? Đi tới đó ngay lập tức!
Đan Tâm hỏi :
- Ủa, khởi hành ngay bây giờ ư? Không ngủ nữa sao? Tôi buồn ngủ lắm rồi. Để sáng mai đi sớm.


Nói rồi đưa mắt nhìn Cao Kỳ nhờ thiếu hiệp quyết định. Ai ngờ nghe thấy ba chữ Châu Hòa trấn, Cao thiếu hiệp cũng mong tới đó hơn ai hết. Chỉ tiếc là thiếu đôi cánh mọc trên vài để bay cho mau chóng hơn.
Chàng lặng lẽ quay lại ra lệnh cho viên tài chủ :


- Bảo người đóng yên cương và dắt ngựa cho chúng ta lên đường ngay đêm nay đi Châu Hòa trấn. Cho thêm một người dẫn đường càng hay. Bao nhiêu phí tổn ta thanh toán tức khắc.


Viên chủ quán liền chỉ định kẻ làm công xách đèn lồng làm hướng đạo viên dẫn đường cho các thương khách được chiều lòng.
Người đàn bà bán con không biết cưỡi ngựa, Chi Mai cho bà ngồi chung ngựa mình đi cho mau chóng.


Đan Tâm sợ làm phật ý Chi Mai đành lầm lì miễn cưỡng leo lên ngựa không nói năng gì cả.
Đoàn người ngựa đi nhanh trong tăm tối, trước còn theo quan lộ, sau rẽ sang con đường nhỏ đi hoài.
- Đường có xa không? Còn bao nhiêu dặm nữa?
Tên làm công cao lớn lực lưỡng hằn học trả lời :


- Ngựa kiệu đều bước như vầy đúng canh năm thì tới nơi!
- Dọc đường có yên ổn không?
Tên dẫn đường bật cười ha hả :


- Các ngươi sợ lắm nên hỏi như vậy, phải không? Cướp đường thì không vì có tôi đi đây, họ biết mặt rồi. Không gây chuyện cản trở. Nhưng bắt đầu nhìn thấy Châu Hòa trấn thì tôi không còn đảm bảo nữa!
- Tại sao vậy?


- Vì những người làm việc trong lữ quán quý vị vừa trọ mấy bữa qua, đều là những người “trung tín”. Tôi đã nhận tiền thuê làm kẻ hướng đạo, lẽ tất nhiên tôi phải có nhiệm vụ bảo toàn tính mạng và tiền của các người. Nhưng công việc đã ấn định rõ ràng là chỉ “đưa đường” các vị tới Châu Hòa trấn. Các vị nhìn thấy Châu Hòa trấn là coi như nhiệm vụ của tôi đã hoàn tất. Lúc đó kẻ cướp hay quân cường đạo có phanh thây quý vị muôn mảnh, lấy hết vàng bạc quý vị mang theo, chiếm đoạt ngựa của các vị đang cưỡi, những việc đó không có ăn nhằm gì đến kẻ ngu hèn này!


Đan Tâm đang lim dim hai mắt ngủ gà ngủ gật trên mình ngựa, bỗng tai chàng nghe thấy những từ “phanh thây”, “muôn mảnh”, “cướp tiền chiếm ngựa” thì tự nhiên tỉnh ngủ, hai mi mở choàng.
Chàng hất hàm hỏi :


- Cứ nghe mi nói, ta thấy mi là một người làm việc “trung tín”, phân minh vô cùng. Ta muốn hỏi mi hai điều, mi làm ơn trả lời ta rõ. Điều thứ nhất là nếu chúng ta nhờ mi bảo tiêu, tính mạng và tài sản thì mi sẽ lấy thêm bao nhiêu tiền công? Điều thứ hai là ta nhờ mi đi gọi đông kẻ cướp đến để đánh cướp chúng ta, mi đòi bao nhiêu tiền công?


Tên kia nghe nói giật mình ngần ngừ giây lát rồi mới nói :


- Sư ông hỏi điều gì mà kỳ lạ vậy? Điều thứ nhất là dù trả bao nhiêu tiền tôi cũng không thể bảo tiêu tính mạng quý vị tới Châu Hòa trấn. Điều thứ hai lại càng không thể được nữa vì luật lệ giang hồ ở Châu Hòa trấn khác với luật lệ tại nơi khác.
- Mi nói thế nào? Ta không hiểu?


- Dễ ợt có chi mà không hiểu. Rủi cho các vị là vì các vị quá siêng năng đối với việc người đàn bà mà quý vị không quen biết kẻ nào đặt chân tới khu vực trấn đó thì tính mạng và tàn sản thuộc quyền vị võ sư tại đó. Có bao nhiêu tiền của, lừa ngựa mang theo thì phải trao cho bọn đồ đệ của vị võ sư. Vô trong trấn kẻ nào khỏe có quyền sai bảo kẻ yếu chứ không như ở đây, kẻ có tiền sai bảo kẻ không có tiền. Như vậy làm sao tôi bảo tiêu tính mạng cho các vị? Làm sao tôi đi gọi kẻ cướp để bóc lột các vị? Luật lệ nơi đó cấm đoán hai người đánh một dù là đồng môn, đồng bạn cũng bị người trong trấn nghiêm trị. Quy tắc “một chọi một” được duy trì khắt khe hơn bất kỳ ở nơi nào khác từ trước tới nay và quy luật thứ hai “bất can thiệp” thì lại càng nghiêm ngặt hơn nữa. Thuận mua thì bán, thuận bán thì mua. Không có lệ bán xong tay lại còn đòi hoàn tiền đổi ý kiến như người đàn bà ngu dại này. Đã tuốt kiếm ra khỏi vỏ thì tử đấu, sống còn ch.ết bỏ, không ai can thiệp. Cấm lấy số đông đánh ít.


Đan Tâm nghe chuyện, cơn ngủ bay đi, mắt tỉnh hơn sáo sậu :
- Đánh lén đâm sau lưng thì sao?


- Không được đánh lén đâm sau lưng. Kẻ nào tới Châu Hòa trấn mà mang theo ám khí bị cảnh cáo trước. Nhưng tôi đã nói là mọi người phải nạp hết tiền của, võ khí còn giấu giếm ám khí làm sao được? Còn nếu đâm lén sau lưng ám toán kẻ có võ công tài giỏi hơn mình, không diện đấu mà lại làm cái trò “chó đớp trộm” thì sẽ bị vứt vào chuồng nuôi lang sói đói cho chúng cắn xé ăn thịt.


- Nếu như vậy thì võ sư ở Châu Hòa trấn có tinh thần thượng võ lắm nhỉ? Anh đã gặp mặt ông ta lần nào chưa? Niên tuế ông ta bao nhiêu? Già hay trẻ?


- Câu hỏi khó trả lời vô cùng. Đến nơi sẽ biết: Tôi tài nghệ non nớt đứng vào hạng chót, làm sao có hân hạnh được diện kiến thầy dạy võ cá kình, cá voi được. Vả lại tôi đã nói luật lệ quy tắc trong giang hồ mỗi nơi mỗi khác. Thông thường nhập môn sau khi làm lễ “bái tổ, bái sư” thì kẻ đó làm thầy mình suốt đời. Một miếng võ mình đã học, người ta là thầy mình rồi. Nửa miếng võ người ta truyền thụ cho mình, người ta đã là sư mình rồi. Ở Châu Hòa trấn, thắng được làm thầy, thua thì làm trò. Đó là một định lệ tân kỳ và dễ hiểu, ai ai cũng chấp nhận như vậy cả.


Cao thiếu hiệp lắc đầu, tặc lưỡi :
- Như vậy là “võ sư, võ phụ” còn ra cái thể thống đếch gì nữa? Ông thầy dạy võ già thì phải yếu. Học trò trẻ thì khỏe. Như vậy học trò lại trở nên làm thầy, thầy lại đảo xuống làm trò coi sao tiện?
Kẻ dẫn đường hỏi vặn lại :


- Có gì mà không tiện? Bây giờ ông có nhiều tiền bạc thì ông làm chủ nhân, mướn tôi sai khiến tôi. Một mai kia, ông tiêu hết tiền, tôi có nhiều tiền bạc, ông tình nguyện làm mướn cho tôi, tôi bỏ tiền ra thuê ông. Ông có thấy sự việc “thay vị, đổi ngôi” như vậy là bất tiện không?


Hòa thượng Đan Tâm xoa gãi cái đầu trọc, nhe bộ răng trắng cười hì hì :


- Hay! Thằng cha này nói nghe xuôi tai, nghe được! Lý sự cứng, đánh võ bằng chân tay, đao kiếm thế nào tao chưa biết nhưng “đánh võ bằng mồm” của mày có hạng lắm! Như vậy thì chúng tao đặt chân tới Châu Hòa trấn, bọn ta biết thằng nào là võ sư “thầy”, thằng nào là võ sư “trò” mà hỏi thăm được.


Kẻ dẫn lộ thản nhiên đáp lại :


- Vì thế nên tôi mới nói với các ông, đến nơi thì biết. Hỏi bây giờ khó trả lời lắm! Luật lệ mỗi nơi mỗi khác. Không phải là “hắc” mà bảo luật lệ của lục lâm rừng xanh, rừng đỏ. Không phải là “bạch” mà bảo là quy tắc của chính đạo, quân tử mã thượng phong lưu.
Đan Tâm hỏi tiếp :


- Ta nhận xét thấy anh quen thuộc với luật lệ thổ nghi nơi đó? Như vậy anh tán thành hay phản đối?
Kẻ dẫn đường không trả lời.
Nàng Chi Mai cầm roi ngựa quất mạnh vào mông con tuấn mã cho chạy vọt lên trên mà rằng :


- Lý thuyết mãi, cù cưa nhức óc! Chúng ta nên phi nước đại cho chóng tới nơi. Nếu đánh nhau thằng được thì ỷ tài làm cha làm thầy thằng bị thua, như vậy không (...) thành sao được. Còn trong trường hợp bị thua ức nhưng phải nhịn, có phản đối trong bụng, nói ra nó đánh nữa thì sao? Anh làm công này cũng nói lăng nhăng, quấy quá cho xong việc. Bất kỳ ở đâu, người chủ chốt đề xướng ra luật lệ là người phải có thế lực mạnh. Không lẽ, đến Châu Hòa trấn, bọn ta gặp ai đánh người nấy cho tới khi đụng độ với thằng cứng cựa nhất mới tìm ra ai là vị võ sư đệ nhất nơi đó ư?


Mọi người đồng khen phải thúc ngựa chạy nhanh hơn tên bắn. Hết canh tư sang tới canh năm. Tên dẫn đường dừng ngựa trên một ngọn đồi cao. Từ phía xa văng vẳng có tiếng gà gáy sáng. Trông xuống dưới đồi thấy hiện ra quan lộ lớn chạy tới nẻo trường giang, trên mặt lộ người ngựa xe cộ đi như nước lũ về bến đò.


Hắn lấy tay chỉ một thị trấn lớn, nhà cửa san sát như bát úp gần ngọn sông và nói :
- Kia kìa, Châu Hòa trấn ở bên nớ! Từ giờ trở đi, nhiệm vụ đã chu toàn, tôi xin trở về phủ thành, các vị tự mình định liệu.


Nói rồi quay đầu ngựa ra roi chạy miết. Nhưng Đan Tâm đã túm lấy áo ngực, mắng nhiếc :
- Này anh làm công “bất trung tín”! Trước khi tha anh toàn mạng, cần nói để anh biết. Tại sao anh không chỉ đường cho chúng ta? Đường nào đường nhỏ xuyên rừng núi? Anh làm ta chạy ngựa ngày đêm thêm đói và mệt?


Nói rồi lấy tay vỗ khẽ vào bao đao của hắn đeo sau lưng mà rằng :


- Ta trông suốt qua cặp mắt anh thấu tới óc anh. Anh là một tên bất lương định tâm dụ chúng ta vào đường hẻm tìm gặp đồng bọn lâu la để chặn cướp bóc lột của chúng ta. Nhưng biết chúng ta thuộc hàng thứ dữ nên không dám, đúng không? Ta cho nén vàng này đem về lữ quán làm kỷ niệm.


Tên làm công vừa sợ vừa mừng tiếp lấy nén vàng. Lúc nhìn kỹ, mồ hôi nhỏ giọt vì thấy Đan Tâm kẹp hai ngón tay bóp bẹp thoi vàng y như bóp bẹp thỏi kẹo mạch nha.
- Tay ta quen gõ mõ, sọ đầu người chỉ dầy có sáu ly và không rắn bằng thoi vàng này. Vậy liệu nhớ kỹ và câm cái miệng!


Hắn cúi đầu vâng dạ rối rít, lạy tạ cáo lui. Chạy ngựa được trăm bước thấy thanh đao cắm trong vỏ phát tiếng lọc sọc lỏng lẻo, hắn vội rút ra xem thì bản đao đã bị hòa thượng vỗ đùa chơi gãy vụn làm nhiều mảnh, tên làm công choáng váng đầu óc cơ hồ muốn té xỉu ngã ngựa.


Bọn Chi Mai cho ngựa sải xuống dốc, leo lên quan lộ nhập bọn khách thương đông đảo đi ra mé sông.
Bờ sông là nơi phồn thịnh, trên bến dưới thuyền khách quá giang chen chúc nhau. Thuyền đò nào cũng chật ních. Nhưng trước khi xuống đò, ai nấy phải đi qua một đồn kiểm soát.


Đó là một tòa nhà rất rộng lớn. Bọn Chi Mai nhận xét thầy mọi người ra vô rất trật tự, không có quan quân canh gác, nhưng hình như ai cũng am hiểu luật lệ nơi đây.
Lúc vô thì ào ạt vào cùng một cổng, nhưng lúc ra lại ra sáu ngả khác nhau xuống bến đậu thuyền.


Càng vô trong sân tiếng nói ồn ào bớt hẳn đi, vô trong nhà thì nhường lại cho sự im lặng hoàn toàn.


Khách thương hồ với hàng hóa, đồ đạc thì chịu phần kiểm soát đi ra ngách kẻ buôn người bán. Thợ công nghệ theo đoàn ngũ công nghệ, chừng trông kỹ mới biết người nào cũng lãnh đính bài đeo nơi ngực mới được xuống đò vô Châu Hòa trấn.


Xét ra lời của lên làm công hướng đạo cũng không sai sự thật mấy chút.
Theo bảng hướng dẫn, bọn Chi Mai đi vô cửa khách lạ chưa từng tới Châu Hòa trấn bao giờ. Có lẽ vô sau “khách môn” ngoài bọn Chi Mai không thấy bóng vía một ai khác.


Bước chân vô căn phòng khách được tiếp đón rất niềm nở. Có người thư ký mang bút giấy lại biên chép những lời mình khai.


Nàng Chi Mai thì lấy tên là Bạch Phong Lan tiểu thư, Cao thiếu hiệp mang tên cũ là Cao Nhị Tiếu, nhà sư Đan Tâm giữ nguyên bộ tên Thập Thiện Đan Tâm hòa thượng, người đàn bà khai tên họ Lập.
Về phần lý do thì mỗi người nói phần lý do của chính mình :
- Lý do thứ nhất là xin hoàn lại đứa con cho Lập Thị.


- Lý do thứ hai là hỏi thăm dinh thự Bình Giang hầu.
- Lý do thứ ba xin bái yết vị võ sư Châu Hòa trấn.
Trong khi chờ đợi, có người hầu rót nước châm trà tử tế. Bọn Chi Mai ngồi chờ, vừa chú ý xem xét thấy mọi sự tổ chức ngăn nắp chu đáo không có sự hỗn độn, xấc láo gì cả.


Cứ cách vài phút lại có người ra lễ phép thưa gửi :
- Cảm phiền mấy vị chờ đợi. Quý vị cần dùng gì xin sai bảo, sẽ có người phục dịch ngay. Việc của quý vị phải trình lên người trên quyết định, hiện đã phái người qua đò, chạy ngựa vào trong trấn, chỉ khoảng giờ Thìn là có hồi âm.


Xảy nghe tiếng chân người chạy rầm rập, thính tai nghe thấy nói :


- Đặc biệt có tín hiệu báo “hỏa tốc” truyền tin bằng lệnh tiễn. Thì ra họ tổ chức rất tài, dùng tên bắn vun vút từ trạm này qua trạm khác từ bên kia sông qua ải, mũi tên cắm phập vào môn bài ở lầu thượng. Chi Mai là một tay thiện xạ kỳ tại nghe gió tên nàng phải khen thầm là họ đã dùng một loại cung hay nỏ đặc biệt lắm mới bắn được những mũi tên chính xác, đi rất mạnh và rất xa.


Thủ lệnh buộc ở đuôi tên. Chính viên chủ trạm kiểm soát đã vội vàng mũ áo xênh xang dẫn thủ túc, trịnh trọng ra tận chỗ bọn Chi Mai ngồi chờ, cúi rạp làm lễ bái kiến và mời mọi người vào sảnh đường đặc biệt.


Sự nghênh tiếp đúng nghi thức đối với những vương giả trào đình nghĩa là phòng khách có nhã nhạc, đàn sáo tưng bừng. Hoa thơm bình bông thơm ngát bày biện, reo rắc khắp nơi. Bọn Chi Mai được mời ngồi trên những chiếc đôn ỷ phủ gấm sang trọng.


Viên “ải chủ” mời mấy người lên lầu cào trông xuống dòng sông. Tại đây đã đặt một bàn tiệc nhỏ trên bày các món ăn điểm tâm có hạng còn bốc hơi nóng nghi ngút để mấy người ăn sáng.


Mục khoảng này rất phù hợp với bao tử Đan Tâm đã trống rỗng vì phải chạy ngựa qua đêm tới sáng.
Chỉ riêng có Lập thị tức người đàn bà bán con thấy sự thụ tiếp, khoản đãi quá ư “vương giả” đâm ra lo sợ không dám nhón đũa.


Chi Mai vốn tính hồn nhiên ăn uống ngấu nghiến không chút e dè.


Viên chủ ải cầm cờ xanh phất cho long thuyền bên bờ kia qua đón. Toàn thân thuyền dát lá vàng mỏng, ánh kim quang lóe sáng phản chiếu xuống mặt nước làm cả một vùng tỏa hào quang rực rỡ. Cột buồm và sàn thuyền đều dát bạc mỏng, trên thuyền gấm nền huyết dụ thêu một con chim phượng khổng lồ xòe cánh. Ngự thuyền của bậc vua chúa hoàng cung chưa chắc đã được trang hoàng lộng lẫy đến thế! Long thuyền mang cánh buồm thêu phượng cặp bến làm các đò ngang nhỏ bé vội chèo rạt sang hai bên để thuyền lớn lấy lối vào.


Đoàn tỳ nữ và tháp tùng trải những bức thảm hoa từ sạp thuyền lên đến tận bực thềm nhà kiểm soát. Những tên đô tùy cởi trần lực lưỡng cắp đại đao chia nhau đứng nghiêm chỉnh thành hai hàng dài để đón tiếp các vị khách quý.


Mọi người từ tứ phía ào ào xúm đông lại xem cuộc lễ nghênh tiếp tân khách của phủ Bình Giang hầu.
Họ hỏi nhau :
- Bình Giang hầu là ai nhỉ? Ông nào mà lớn vậy?
- Có phải Bình Giang hầu là ông võ sư Châu Hòa trấn không?


- Không biết họ đón tiếp những ai? Chắc những người này còn lớn hơn ông lớn Bình Giang hầu?


Chính bọn Chi Mai đứng trên thượng giang lầu ngó xuống cũng ngơ ngẩn không biết là người ta bầy ra cuộc đón tiếp vĩ đại này là để đón tiếp những nhân vật nào? Không lẽ họ đón tiếp bọn mình? Tại sao long trọng quá xá vậy? Bên này bến đã nhộn nhịp. Bên kia bến lại nhộn nhịp hơn. Cờ xí cứ dựng lên như do tay một thầy phù thủy đương “rắc đậu thành binh”!


Mà ngắm đến mình thực là chán ngấy! Quần áo bụi bặm, Chi Mai đáng lẽ phải mở bọc hành trang mặc tấm áo bạch hổ vào thì mới oai vệ hơn, Đan Tâm phải mặc một chiếc cà sa trăm mụn vá kim tuyến, ngân tuyến, sặc sỡ thì mớ xứng đáng đặt chân lên những tấm thảm hoa nối dài.


Đằng này, thiền trượng chẳng có, tay xách khăn gói vải lam, tay xách thanh kiếm gỗ cây gậy đen của thầy pháp trông chẳng ra gì cả.


Cao Kỳ tay xách chiếc dù, màu vải cũ bạc phếch, trông chẳng uy nghi chút nào. Nhìn người đàn bà bán con lại càng có bộ dạng thiểu não hơn! Giá đám người này xuống đò ngang người ta sẽ cho đi qua cổng số sáu, lẫn lộn với những người buôn thúng bán mẹt.


Ấy thế mà cứ ăn bận lôi thôi lếch thếch một bầu đoàn như thế mà kéo nhau đến đâu thì lặng yên phăng phắc đến đấy! Mấy tên đô tùy nâng đao, tay để trước ngực kính cẩn cúi đầu.


Bốn người lững thững đi bước một ra bến, xuống long thuyền. Thỉnh thoảng nghe tiếng roi da dài quất kêu đến vút trong không khí đánh xuống những kẻ đứng gần không phủ phục xuống, hoặc dám ngóc đầu ghé mắt coi trộm mặt mũi tân khách. Viên chủ ải địa đầu đi sau. Lúc tới bục trèo lên sàn thuyền, một sự bất ngờ xảy ra khác với dự đoán thông thường. Tên võ sĩ chỉ huy bọn đô tùy bỗng nhiên giơ tay ngưng mọi người lại. Ải chủ thấy cử chỉ vô lễ cất tiếng nạt nộ :


- Nhụ Đạt! Mi làm cử chỉ vô ý thức vậy?
Tên võ sĩ trừng mắt cảnh cáo :
- Lỗ Ban tôn giả hành lễ phạm quy điều rồi!
- Thế là thế nào?


- Lệnh tiễn chỉ định nghênh tiếp các “tân khách” của lệnh chủ. Con mẹ mấy bữa trước ở Châu Hòa Hội Quán bán con là một nha đầu hèn hạ, tại sao lại dùng “đại lễ” đón tiếp thị. Như vậy là thế nào?
Viên ải chủ mắng át :


- Mi chỉ là tên vệ sĩ hạng bét. Lệnh trên bảo sao làm vậy, biết gì mà dám phê bình cấp trên. Lập thị đi cùng các thượng quan đây thì cũng được hưởng chung một nghi lễ đón tiếp. Khinh người dưới của tân khách tức là khinh tân khách. Mi phạm tội rồi!


Chưa dứt lời ở trên bục hiện ra một người thấp, cao không đầy ba bộ, mặc bào màu đỏ thêu vàng rất đẹp. Vị lùn đó cất tiếng như chuông đồng :
- Kính mời tất cả các vị lên thuyền!


Cái đầu to lớn vừa cúi xuống, trong ống tay áo rộng đã bay ra quả phi tinh trùy nhắm giữa mặt Nhụ Đạt đập mạnh kêu đến “chát” một tiếng làm mặt tên võ sĩ bẹp dúm lại thân hình tung ra phía sau rơi tõm xuống rãnh bùn phù sa. Trên mặt đất cát máu bắn vung vãi và chảy loang lổ thành những vũng đỏ lớn.


Tên võ sĩ đương cầm lái thuyền thấy bạn mình ch.ết thảm dưới ngọn phi tinh trùy độc địa của người lùn, cũng bật lên tiếng lớn chống đối mãnh liệt :


- Ta nghe Nhụ Đạt nói có lý! Thuyền này chỉ chở những nhân vật nổi danh trên giang hồ, sao lại để con mụ chó má hèn hạ bước chân lên được, như vậy còn gì là thanh danh Châu Hòa trấn? Ta không thèm lái chiếc thuyền đầy nhục này được! Nè! Thần Hành Nụy Cước, mày dùng ám khí bắt nạt thằng vô danh tiểu tốt Nhụ Đạt đặng chứ còn ta, ta đâu có phục ngươi!


Viên ải chủ Lỗ Ban tôn giả hét lớn :


- Láo quá hà! Kỷ luật mất hết rồi sao? Toàn những quân vô lễ thở ra lời phản nghịch! Nói rồi xòe tay tung chưởng định đánh lái thuyền. Tên võ sĩ lái thuyền cũng giơ tay vung chưởng đánh lại. Hai luồng chưởng khí công của hai võ lâm cao thủ chạm nhau rất mạnh, phát ra tiếng nổ như sét đánh lưng trời.


Bọn người đứng xem trên bờ thấy trên chiếc thuyền có người loạn đả dữ dội vội ù té, không ai bảo ai, chạy nhủi như đàn vịt. Cuộc đón tiếp đương thập phần long trọng, vì cuộc sát đấu mất cả trật tự. Nhưng các tên đô tùy và võ sĩ trên thuyền vẫn đứng đâu yên vị tại đó, mặc cho hai người đánh nhau.


Thần Hành Nụy Cước đã thu trùy vào ống tay, đứng cùng bọn Chi Mai chờ xem kết quả trận đấu. Tuy nhiên vẻ bực tức hiện rõ trên nét mặt ông già lùn tịt nọ.


Lỗ Ban tôn giả lúc đó đã cởi bộ áo bên ngoài, trên mình chỉ còn bộ đồ chẽn màu xám. Công lực của hắn rất hùng hậu nên chưởng phong làm đứt cả những sợi chảo lớn buộc cánh buồm chính. Võ sĩ lái thuyền phản công rất hăng hái, nhưng bị lùi dần ra mạn thuyền, bèn bám lấy một sợi dây đu người nhảy vút lên trên, chiếm lấy vị trí ngọn cột buồm.


Giao đấu chiếm được thế cao vẫn lợi hơn. Nhờ vậy kình lực của hắn đánh xuống phía dưới những ngọn chưởng phong mạnh như vũ bão hơn từ dưới đánh lên. Có tiếng người la :
- Lỗ đệ hãy nhẹ tay kẻo làm cong cột buồm, Lệnh chủ trừng phạt đấy!


Viên ải chủ căm tức không biết dùng cách nào để đánh bại tên võ sĩ lái thuyền hỗn láo, thì một mũi tên dài như một ngọn trường thương không biết từ thuyền nào bắn tới, tiếng rít trong không khí nghe rợn người xiên lủng qua tên võ sĩ, mũi nhọn thò dài ra trước ngực.


Bị trúng mũi tên xiên qua người, thân thể vạm vỡ của tên võ sĩ quay lộn nhiều vòng và rơi xuống sông, làm vọt lên cây nước trắng xóa.


Cây tên dài như cái lao xiên cá ắt phải do một bộ máy cơ quan nào theo lệnh chủ nhân bắn ra hơn là mũi tên do người dùng cung bắn tới. Xem vậy sự phòng thủ và chiến đấu trên mặt sông nơi thủy lộ này rất là tinh tiến. Những nhân vật ở Châu Hòa trấn phải là những tay cự phách phi thường, mới chỉ là tên cầm lái và tên trạm trưởng mà đã phô diễn tài nghệ rất cao cường.


Song Cao Kỳ Nhất Phương nhận ra được Thần Hành Nụy Cước thì vui mừng khôn xiết. Chàng thiếu hiệp sớm biết rằng ở đây chàng đã gặp bạn bè giúp đỡ mình nhiều hơn là kẻ thù đối địch.


Gặp ông già lùn này thì thế nào cũng được gặp Văn Tú Tài. Chàng nhớ lại diện mạo viên kỵ sĩ mà chàng ngưỡng mộ từ hồi gặp cha mẹ tại Diên Bình phủ. Chàng tú tài đẹp trai, đầy lòng nghĩa hiệp này đã hóa trang, thủ vai Vương phu nhân để mẹ chàng bịnh hoạn ra khỏi vòng vây của Hắc Y. Mối hàm ân hãy còn mang nặng bên lòng.


Những mong có ngày gặp gỡ để có lời thâm tạ tri âm, viên tú tài đầy hạo khí hạo nhiên đáng mến ấy. Dịp đó không ngờ đã đến với sự tiếp rước quá ư nồng hậu, nhưng không phải là không đẫm máu kinh hoàng.


Chưa hiểu đầu đuôi duyên cớ ra sao, sơ sơ mất hai mạng người bị thảm sát vì vài lời đôi co cố chấp.


Chiếc long thuyền vượt qua sông rất nhanh chóng. Tới bờ bên kia, dân chúng trấn Châu Hòa kéo ra xem đông như trẩy hội. Họ xem cuộc tiếp rước lạ lùng cũng có mà xem vì tính hiếu kỳ thấy xảy ra trận đánh nhau giữa những tay võ giỏi đệ nhất, đệ nhị trong trấn cũng có.


Nhưng điều làm họ ngạc nhiên nhất vẫn cứ tưởng “nhân vật” phải kỳ lạ cao sang oai nghi lắm mới phải? Nhưng họ chỉ thấy có vài “ngoe” ăn mặc quần áo tầm thường như những người làm công tầm thường nhất trong đám đông bọn họ.


Có ông già ăn mặc sang trọng quý phái thì lại lùn tịt đi lọt vỏ giữa những người cao nên khó nom thấy rõ.
Nhóm người Chi Mai lên ngay một cỗ xe sáu ngựa rất sang trọng, có nhiều kỵ binh đi hộ vệ tháp tùng hai bên, chạy thẳng về phía rừng thông sau thị trấn.


Mọi người đang mong chờ cỗ xe lộng lẫy dừng trước thềm một dinh thự đồ sộ, nguy nga, quân hầu, lính gác dàn chào, cờ xí ngất trời lọng tàn rợp đất. Trái lại chỉ thấy vó ngựa băng vào nơi cô tịch, đìu hiu, ông già lùn vẫy tay ra hiệu, toán kỵ mã đứng cả lại.


Nụy Cước một mình thân hành rong cương, cho người đánh xe xuống bộ. Xe chạy vô rừng sâu quanh co hồi lâu rồi chạy thẳng xuống một địa đạo rộng lớn, cửa hầm đóng lại. Bánh xe lăn trên đường lát sỏi, trông chung quanh đen kịt như đêm tối. Nếu không quen thuộc đường lối thì có lẽ không biết ngả nào lui tới, rất dễ dàng cho xe chạy đâm sầm vào vách đất.


Mạnh dạn như Đan Tâm mà cũng không tránh khỏi lo ngại, chàng hỏi Cao Kỳ rằng :
- Thằng lùn này có thể tin cậy được chăng? Hay là nó đưa chúng ta vô cạm bẫy?
- Đừng lo ngại! Ông ta không phải hạng người đê tiện thế đâu!


Dần dần mọi người thấy ánh sáng hiện ra phía trước. Bánh xe vẫn chuyển động ầm ầm. Ra tới ngoài không khí quang đãng, hai bên vách đá lởm chởm. Thì ra người ta đã đào một đường hầm xuyên sơn đi tắt ngang vào phía trong một rặng núi đá.


Chiếc xe dừng trước một tòa cổ tháp đã suy tàn, không biết xây cất từ đời nào, dãi dầu mưa nắng qua không biết bao nhiêu thế kỷ. Chỉ còn tàn tích hành lang, cột đá, sân chùa và những bậc thang bước mãi lên cao tới đỉnh, không thể đếm được là mấy trăm bậc?


Bốn bề tĩnh mịch, ngoài tiếng chim kêu vượn hú, tuyệt nhiên không thấy bóng người nào qua lại.
Mọi người đều xuống xe, theo Nụy Cước vào tòa thạch thất dưới chân ngọn tháp hùng vĩ, lạ kỳ!
Khi mọi người ngồi yên quanh bàn đá lớn, Nụy Cước giải thích :


- Tiếc rằng Văn Tú Tài chủ nhân tôi đã cưỡi con Thanh Phong mã có việc đi khỏi đây trên ngàn dặm nên tôi chưa thể thông tin cho người về ngay. Chủ nhân tôi dặn kỹ càng là hễ có người lại hỏi thăm Bình Giang hầu, ở Châu Hòa trấn thì cứ tự tiện dụng đại lễ tiếp đón rồi dùng đường bí mật đưa thẳng lại tòa cổ tháp này. Chủ nhân tôi còn dặn kỹ là người khách lạ nào, sang hèn, già trẻ, nam phụ lão ấy cũng cứ đúng thế mà làm. Không ngờ tưởng là ai lại hóa ra Cao thiếu hiệp đã từng gặp gỡ ở phủ Diên Bình và ông Lãnh Diện Băng Tâm hóa trang làm vị sư róc tóc, cô Chi Mai tức Miêu Cương động chúa nên lại càng phải thi hành đúng lời căn dặn từ trước.


Cao Kỳ hỏi :
- Lão bối có thể cho tại hạ biết Bình Giang hầu là ai không? Có liên can gì?
Nụy Cước xua tay lia lịa :


- Thiếu hiệp đã tin tưởng ở chủ nhân và tôi thì xin đừng hỏi gì hết. Sớm là một tuần, chậm là mười ngày sẽ được biết những điều muốn biết. Bây giờ tôi chỉ lo việc an toàn cho quý vị và thu dọn chỗ ăn uống nghỉ ngơi trong tòa thạch thất này. Quý vị chỉ nên đi tới lui trong phạm vi tòa cổ tháp, đừng bước ra ngoài e chạm nhằm cơ quan “địa phục lôi” hoặc hầm hố chông chà nguy hiểm lắm! Tôi cam đoan không một ai đến quấy rầy quý vị ngoại trừ chủ nhân tôi hoặc chính tôi tìm tới gặp.


Đan Tâm chỉ người đàn bà định hỏi thì Nụy Cước đáp :
- Tôi hứa danh dự sẽ trao trả con cho bà. Nhưng việc đó chỉ làm một tuần hay mười ngày sau. Chính tôi thân hành mang đến. Vậy bà họ Lập này nên lo việc bếp nước sau động đá, hầu hạ các thượng quan nhân và đại tiểu thư ở đây.


Nói rồi Nụy Cước tất tả cáo từ. Lát sau nghe tiếng vó ngựa và cỗ xe chuyển bánh rồi mất dạng luôn.
Thế là bọn người chơ vơ ở lại giữa núi rừng hoàn toàn mới lạ không thể phân biệt bốn phương tám hướng và địa thế ở vào chỗ nào đối với bến đò và Châu Hòa trấn vừa đi qua.


Đằng sau thạch thất có mấy gian phòng bày biện đủ bàn ghế mùng màn. Trong bếp nước có đầy đủ lương thực, nước uống, củi lửa. Việc tổ chức rất chu tất, đàng hoàng, ngăn nắp.


Có khoảng đất trồng rau, có chuồng gà vịt, heo dê. Có trái cây, gia vị, mắm muối gà vịt để làm cơm ngon lành. Nơi tẩm thất cũng sạch sẽ, thanh khiết.


Mấy người thu xếp hành trang vào phòng riêng rồi cùng nhau đi thăm thú chung quanh tòa cổ tháp, tôn trọng lời căn dặn không đi ra khỏi vòng rào, những tường đá và bụi trúc bám quanh khu vực ngôi nhà cổ.


Càng leo lên các bậc càng lên cao, thấy trên vách tường đá có chạm trổ hình người. Xem kỹ những bức hình chạm nổi trên vách đá nứt lở thì ra là những hình biểu trưng những giai đoạn “tham thiền nhập định” của hằng hà sa số Phật.


Những hình chạm trổ ở những bậc đá thấp thì thô kệch, nhưng càng bước dần lên cao thì nhận thấy các bức bích tượng ngày càng công phu, tỉ mỉ chân tay uốn éo, các ngón tay những các ấn quyết kỳ ngộ lạ mắt.


Lên tới ngọn tháp, nhìn xuống chung quanh cũng chỉ thấy những ngọn cây xanh ngắt, mũi đá lởm chởm, tầm mắt bị chặn lại bởi những đỉnh núi cao hơn, trông rất âm u, tâm hồn lắng dần xuống êm tịnh hư vô.


Ngày hôm đầu trôi qua không có sự gì khác lạ! Bữa cơm đầu tiên cũng không được ngon miệng cho lắm. Đêm ngủ cũng chập chờn không yên giấc, ba người chia nhau đốt lửa ngồi canh cho nhau, phòng có biến gì chăng?


Sáng sớm ngày thứ hai, ánh bình minh rọi chếch trên bề mặt các bích họa làm nổi bật những nét khắc kỳ ảo trên đó. Bỗng nhiên Đan Tâm ngắm nhìn cùng sờ vào các nét đục khắc và nói rằng :


- Ủa này! Kỳ lạ thật! Tại hạ lúc mới nhập môn truyền thụ kiếm pháp, sư phụ tôi cũng dạy phải đứng ngả nghiêng như thế này?
Cao Kỳ nghe thấy Đan Tâm nói vậy liền bảo :
- Chúng ta vô phòng lấy kiếm ra dợt thử chơi với những tư thế và ấn quyết trên những hình chạm trổ xem nó ra thế nào?


Đan Tâm nghe lời lấy Mộc kiếm ra theo tư thế ngả nghiêng biểu diễn bộ vị cho bạn mình coi.
Cao thiếu hiệp vừa ngắm hình trên vách đá so sánh với bộ điệu thi triển nói rằng :


- Thiệt là kỳ dị! Hiền đệ biểu diễn Chiêu Minh kiếm pháp tại sao lại phù hợp với những bức họa này. Bàn tay ấn quyết chưa đúng hẳn. Đứng yên để ta sửa chữa các đầu ngón tay và cổ tay xem sao.


Cứ mỗi lần Đan Tâm biến chế thì Cao tú sĩ lại theo bình đồ sửa lại từng chút một. Đan Tâm thích chí reo lớn :


- Thực là tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Trước kia sư phụ tôi còn ở trong ngục tù, có nói rằng: ngày thọ hình của sư phụ tới gấp quá rồi không thể truyền thụ một cách tinh vi, sửa chữa từng chút ít một. Bây giờ Cao huynh sửa cho mạt đệ, cứ tưởng tượng như là lúc sư phụ còn sống dạy bảo cho vậy!


Cao thiếu hiệp cũng mừng rỡ nói rằng :


- Nếu vậy kiếm thuật, kiếm khí cùng một gốc. Sư phụ Mộc Kiến Tính nghiên cứu kiếm học từ Tây phương đem về, tưởng là mới lạ không ngờ gốc vẫn là Đông phương xuất phát. Chắc vì vậy nên các vị kiếm học gia ở bực thượng thặng công nhận đạo do cùng một nguồn, như cây cùng một rễ chỉ có cành lá là “chia năm xẻ bảy” mà thôi.


Đan Tâm hỏi :
- “Ấn quyết” giúp ích gì cho bộ vị?


- Theo âm dương khí hóa, lúc con người tư thế tĩnh hay động, lục phủ ngũ tạng và bảy mươi hai kinh lạc trong cơ thể con người phải phối hợp chuyển hóa với nhau như trời đất vận hành vậy. Trời đất càng chuyển động mạnh thì gió phong hàn nhiệt thấp cũng chuyển động càng nhanh. Muốn giữ cho tâm trạng mình ở trạng thái “quân bình” thì phải biết điều hợp những động tác, nhịp thở dòng “nhân điện” chu lưu trong cơ thể. Vì vậy mọi bộ điệu, đầu ngả nghiêng, chân tay co duỗi đều ăn nhập với phủ tạng bị vận động đến cực độ. Bắt ấn quyết không đúng quy tắc tất nhiên dòng điện bị ngưng đứt tâm thần tránh sao khỏi bấn loạn. Đánh không tới, đâm không trúng, đỡ bị trệch là vì lẽ đó. Hai chúng ta từ trước tới nay chỉ quá thiên luyện tập ở mức độ thấp kém về “kiếm thuật”, chưa bước lên phạm vi luyện “kiếm khí” nên chẳng biết chút chi về “kiếm đạo” cả!


Mấy lời chỉ điểm của Cao Kỳ Nhất Phương như mở một đường lối mới cho Đan Tâm đương ngước mắt nhìn lên phía ngọn tòa cổ tháp nhẩm đếm đủ ba trăm sáu mươi bậc thềm đá.
Hắn bất giác kêu trời :


- Cao huynh mới sửa cho tiểu đệ hơn chục chiêu thế mà tiểu đệ đã thấy một trăm tám mươi đường kiếm Chiêu Minh kiếm pháp phải học lại, sửa chữa lại hết. Vậy ở đây đếm đặng ba trăm sáu mươi bậc thềm đá, biết đời kiếp nào sự học của chúng ta mới leo lên tới đỉnh ngọn tháp? Nhất huynh ngày trước đây có nói rằng: “Phật là vị võ sư đệ nhất. Phật tuyệt luân về võ đạo”. Mới đầu tôi cũng cho là Nhất huynh là nói rỡn chơi để chọc tức tiểu đệ. Không ngờ tới đây, đứng ở dưới này ngước mắt trông lên thấy làm hổ thẹn vô cùng. Thế mới biết những kẻ ngu dốt như ếch ngồi dưới đáy giếng, cứ tưởng vòm trời chỉ rộng bằng cái nia, có nhảy ra khỏi miệng giếng mới thấy trời rộng đất dài vô hạn.


Cao tú sĩ nắm lấy tay Đan Tâm nói rằng :
- Tình trạng chúng mình tu chỉnh lại những điều đã sơ đắc về kiếm pháp hôm nay cũng gấp rút như tình trạng lúc hiền đệ được Mộc Kiến Tính đại sư truyền dạy võ công trong ngục tù vậy.
- Tại sao Cao huynh lại nói thế?


- Hiền đệ quên Nụy Cước Thần Hành đã ước hẹn chúng ta chỉ có mười ngày hay một tuần là đến gặp chúng ta. Nhất định khi đó chúng ta chẳng còn được rỗi rãi để cùng nhau nghiên cứu bàn luận để học thêm kiếm pháp nữa.


- Ừ nhỉ! Thôi chúng ta chẳng nên để mất thì giờ! Cao huynh sửa chữa cho tiểu đệ từng tư thế một. Đồng thời tiểu đệ cùng Cao huynh diễn tập và sửa chữa cho nhau. Hai người cùng tập luyện thì nhanh hơn một người tự tập. Ánh sáng chiếu chếch chỉ còn soi vào bích họa từ giờ Mão tới cuối giờ Tỵ là không còn làm nổi bật các đường khắc chạm trên mặt đá mọc rêu xanh.


Cao Kỳ Nhất Phương nhẩm tính :
- Với đà hai người cùng luyện tập sẽ nhanh hơn gấp đôi, tuy vậy cũng mất ít ra là năm ngày mới xong phần hạ của Chiêu Minh kiếm pháp. Còn phần thượng, hiền đệ đã được truyền dạy bao giờ chưa?


- Trước sau mới học được không quá một trăm tám mươi chiêu thức. Kể từ bậc một trăm tám mươi mốt trở lên có lẽ không phải là Chiêu Minh kiếm pháp.


Cao Kỳ xách thanh Song Nhạn Thiên Linh kiếm, chạy vội lên các bậc đá trên cao chót vót chặt đứt những cành lá rễ cây um tùm che lấp cả đồ họa. Chàng ngắm nghía lấy tay rờ xem vì nhiều tượng đã bị mòn, nứt rạn không còn nguyên vẹn. Chàng nói rằng :


- Khắp Tam Sơn Ngũ Nhạc, tinh hoa tất cả các kiếm phái cũng chỉ lên tới bậc thềm này là tuyệt học. Từ đây trở lên không có người chỉ điểm dẫn giải, thực là khó lòng tự khám phá ra được. Rất tiếc là không có Lý huynh ở đây. Ở trên đời này có lẽ chỉ có Lý huynh họa chăng mới có đủ khả năng dẫn giải mau chóng cho chúng ta hiểu rõ ở bậc “tối ư thượng thừa” này.


Đan Tâm bàn thêm :
- Học cao sau, học thấp trước. Ta cứ tu chỉnh dần dần từ dưới lên trên, may ra giác ngộ được chút nào chăng?
Cao Kỳ Nhất Phương than thở :


- Ta vốn là một cao đồ của Huỳnh Mi đạo trưởng Chưởng môn Côn Lôn kiếm pháp, nửa đời học kiếm mà đến đây vẫn còn mờ mịt như bước vào rừng thẳm. Biển học mênh mông, trí óc con người chỉ như cái gáo dừa múc được một chút nước biển cả. Biết thế này mà không có tính tự phụ, tự ái thì chẳng bao giờ thành đạt được! Nếu chúng ta ngắm kỹ thì thấy những dáng điệu và sắc diện những tượng chạm trổ ở các bực thềm dưới này đều vụng về, thô kệch thuộc phần thể chất thấp hèn chịu ảnh hưởng của ngũ hành. Thể chất mới thành hình cũng như một bào thai chưa hấp thụ ảnh hưởng của khí thể thuần dương bên ngoài để nẩy nở thành “hình người” có đủ đầu óc ngũ quan tứ chi. Nếu không đứng ngồi theo đúng bộ vị, thủ ấn quyết theo đúng thời tiết phương hướng thì chẳng thể chế ngự toàn thể các cơ năng, tuy gọi là khoa chân múa tay, tiến lên ngồi đúng thực không hơn giống “hầu” nhảy nhót múa may lạ mắt. Trái lại, biết uốn nắn ngồi đứng theo đúng phương pháp của chư vị hoạt Phật ngay từ lúc ban đầu thì cũng như bào thai được hấp thụ những linh khí trong lành của trời đất, đứa trẻ lớn lên ra đời sẽ cực kỳ thông minh, khôn ngoan biết phân biệt lẽ phải, lẽ quấy, thờ Trời kính Phật, hòa hợp tam cương ngũ thường, gây dựng được mọi sự tốt lành cho bản thân và nhân quần xã hội vậy.


Hai người liền cùng nhau hội ý, khai triển những thế võ chân truyền chiếu theo bích họa mà bổ khuyết cho nhau.
Chi Mai từ trong thạch thất bước ra, trông thấy dưới ánh triều dương, hai chàng trai trẻ theo lần các bậc đá, múa kiếm thi triển tài năng võ nghệ.


Thanh Song Nhạn Thiên Linh kiếm sáng ngời lóe mắt. Thực là một thanh bảo kiếm quý giá vô song. Mộc kiếm lúc này toàn màu đen bóng như màu hạt huyền tia nắng mặt trời chiếu vào làm đạo hắc quang tỏa rộng một vùng. Lúc ánh kiếm xoay tít nhanh, che kín cả thân hình người múa kiếm.


Chi Mai đứng ngây người như tượng. Nàng cũng đã luyện tập rất tấn tới về kiếm pháp và nhiều môn võ nghệ khác, nhưng trước tài lạ của hai kiếm sĩ vô địch, Chi Mai nhận thấy nàng còn phải học hỏi nhiều.


Sự kỳ dị là hai người vừa đảo mắt nhìn tượng hình trên vách đá, vừa chuyên tâm từng bậc thềm từ dưới lên trên, vừa tự tập tự luyện và đồng thời lại cùng giao đấu, chuyển đổi chiêu thế đánh đỡ ngay tức khắc.


Chiêu thế ở bậc trên hóa giải chiêu thế ở bậc dưới. Tức thời nhận định được quy tắc, người ở bậc dưới lại nhảy vọt lên một bậc cao hơn để đánh lại kẻ đã phá thế công của mình. Một đánh một đỡ, cuộc đấu vô cùng hào hứng.


Khi hai người lên tới nấc thứ một trăm năm mươi, Chi Mai kinh ngạc kêu “ồ”. Thiệt là một sự kỳ lạ vì nàng trông thấy rõ ràng lưỡi kiếm còn cách xa thân cây. Vỏ cây không bị lưỡi sắc động chạm tới mà thân cây gần chỗ hai người tập kiếm cũng bị “đốn” gục đổ đến ầm.


Mũi Mộc kiếm đâm trệch còn cách xa hòn đá tảng cả tấc mà mỏm đá cũng bị đâm lủng tóe lửa và lõm sâu.


Hai chàng thiếu niên kìm giữ thanh kiếm trong tay rất vững chắc. Mỗi người đứng theo một bộ vị kỳ quái! Họ chỉ nhón trên đầu mũi giầy mà đứng lâu cả khắc, người chao đi chao lại như mất thăng bằng chỉ chờ sự xô đẩy của đối phương mà hóa ra không bị té nhào.


Cũng có khi bộ điệu một người tự nhiên đứng như toàn thân đã biến thành một ông phổng đá người ta mới đẽo tạc nên đối phương tấn công như thế nào cũng đứng trơ ra đó, lay không chuyển, xô chẳng lùi. Chỉ riêng bàn tay giơ đỡ ngọn kiếm mà đối phương không cách nào đỡ được.


Lúc này, cả hai đồng biến thành hai pho tượng, chẳng công, chẳng tiến, chẳng thoái, chẳng đâm chẳng chém, chỉ khẽ chuyển động các ngón tay, thân kiếm, đầu mũi kiếm hơi rung rung tựa hồ nếu chỉ chỉ điều khiển sai lệch thanh kiếm trong một phân ly là đã mất “thượng phong” bị đối phương chèn ép, lấn áp được rồi.


Hết dụng trí lại dụng thần. Hết dụng thần lại dụng khí. Đến khi mặt trời lên đúng giữa đỉnh đầu không chiếu chếch lên mặt phẳng vách đá nữa thì hai người toàn thân đầm đìa mồ hôi ướt đẫm áo, mệt nhoài ngồi bệt cả xuống thềm đá, nhìn nhau cất tiếng cả cười.


Chi Mai lúc đó mới yên tâm bước lên các bậc thềm cao lại gần hai người. Nàng phải qua những thân cây đổ ngổn ngang ngăn chặn lối đi và những tảng đá lớn bị chém vỡ đôi, vỡ ba lăn lóc đó đây.
Nàng thở dài một cách nhẹ nhõm hỏi hai người rằng :


- Hai người biểu diễn trò chi mà kỳ cục dữ vậy? Trông mặt hai người không có hung khí, em biết không phải là đánh nhau thực. Nhưng tại sao mà kiếm không chém cây tự đổ, gươm không đụng tới đá mà đá vỡ đôi. Hai anh chắc được bậc dị nhân nào truyền phép lạ rồi. Dạy cho em học với. Em thích cái lối đánh kiếm các anh vừa phô diễn đó. Hay lắm! Hay lắm!


Đan Tâm lấy vạt áo lau mồ hôi trán cười trả lời rằng :


- Không phải dễ dàng đâu. Công phu lắm Chi Mai ạ. Kết quả Chi Mai trông thấy thì ngon lành dễ ợt, nhưng đó là sự chịu khó của nhiều năm tháng tôi luyện “mồ hôi, máu thép” mới đem sự hiểu biết của ngày hôm nay. Ý phải quyết, chí phải bền, nên cây chưa đụng mà phải đổ, đá chưa va mà phải mòn đấy.


Cao tú sĩ nói tiếp :
- Sách có câu: muốn đắc đạo phải đắc địa, phải có bạn tu, phải có pháp tốt. Thiếu một trong ba điều kiện thì chẳng thành. Chúng ta có duyên mới được đưa tới đất này, gặp bạn tốt, phép lạ để mà thành công.
Đan Tâm nhìn Chi Mai âu yếm :


- Nè! Cao huynh ạ! Tiểu đệ mà không có Chi Mai đứng mục kích hôm nay thì chẳng thể bước một mạch lên ngay tới thềm đá này.
Chi Mai hỏi dồn :
- Tại sao! Tại sao! Nói ngay đi! Tại sao không có tôi anh lại không thi triển tài nghệ tuyệt học như vậy?


- Không có Chi Mai đứng xem thì dù có ông “thầy võ” cầm roi đứng đây, một khi anh đã toát mồ hôi mệt thấy mồ thì anh dừng tay liền cho đỡ sụm bà chè. Ngặt vì, có em đứng giương mắt nhìn trô trố như con “ễnh ương”, anh sợ dừng tay thì em mất hứng nên cứ theo Cao huynh leo, leo mãi lên cao để được em phục tài, cho nên bây giờ... bao tử trống rỗng muốn Chi Mai vô làm bếp luộc cho cặp giò heo để ăn cho lại sức, mai còn tập tiếp.


- Tại sao không chịu khó tập ngay mà còn đợi đến mai?
- Không có ánh nắng chiếu chếch cho nổi tượng hình thì làm sao nhìn rồi theo đó để khai triển những chiêu thế phù hợp với bàn tay bắt quyết mới?
- Vì vậy mới gọi là Chiêu Minh kiếm pháp phải không?
Đan Tâm ngồi thẫn thờ một lúc lâu rồi đáp :


- Có lẽ như vậy! Sư phụ tôi lúc truyền thụ không giảng cho tôi biết, luyện tập không hề hỏi tại sao.
Chi Mai hỏi tiếp :
- Hai anh học được biệt tài đánh kiếm, có thể dạy cho em vài chiêu đặc biệt để trước là phòng thân, sau khỏi thua sút chị em Trung Nguyên?
Cao tú sĩ lấy tay chỉ Đan Tâm nói :


- Chi Mai vô bếp làm heo, luộc đôi giò thực mập bự chín đem dâng hòa thượng ngã mặn đỡ đói lòng, người sẽ giúp Chi Mai toại nguyện.
(Mất 2 trang)
Dù có Bạch Phong Lan khuyến khích em cả ngày, hàng giờ em cũng chỉ tới cái bậc một trăm tám mươi mốt kia là... hết sức!
Cao tú sĩ rỡn cợt :


- Hiền đệ đã diễu ta là “luyến ái làm chi... khổ lắm ai ơi”! Đã vướng vào nguồn ân biển ái thì làm sao còn tịnh tu được nữa? Em nói vậy không sợ tự mình lại mâu thuẫn với mình hay sao?
- Đường tu để dành riêng cho những người thất tình thì đi xa được bao nhiêu bậc?


Cao tú sĩ cũng hỏi lại :
- Đường tu để cho những người yêu đời thích sống như hiền đệ bây giờ, leo lên liệu leo được bao nhiêu thước?
Đan Tâm khoát tay :


- Thôi! Hãy xuống đánh chén đã! Chúng ta giúp nhau luyện tập rồi xem thử trong mười ngày leo được bao nhiêu? Thực tế trả lời hiền huynh. Nhưng em đoan chắc nếu cái cô nàng đội cái mũ xanh xanh màu thiên thanh hiện ra đứng trên kia gọi anh thì nhất định Cao huynh sẽ bay tít lên thượng đỉnh tòa tháp và thành bụt thiêng trong giây phút.


Cao tú sĩ phóng mình nhảy theo Đan Tâm xuống phía dưới đáp lại :
- Nói tầm bậy nào! Phật sẽ phạt anh mọc tóc dài rủ xuống hai tai! Nhưng ở hoàn cảnh này, ta phải xác định là kẻ yêu đời nếu tu thì sẽ tiến nhanh hơn kẻ chán đời mà đi tu.


Chi Mai ở trong thạch thất xách đôi giò heo luộc chín với gói xôi và muối tiêu chạy ra, nghe thấy nói vậy thì cười rộ mà rằng :


- Nếu có người được yêu, nếu được yêu, nếu yêu đời ai lại dại gì đi tu? Thôi dù rằng tu là cõi phúc, tình là dây oan hay tình yêu là cõi phúc, tu là dây oan thì cũng hãy ăn cho khỏi đói cái đã. Cãi nhau làm chi cho thêm mệt?


Ba người cùng ngồi xuống bậc thềm đá thấp cuối cùng chia nhau thịt xôi ăn rất ngon miệng.
Cuộc tập luyện của hai chàng trở nên ham mê tinh tiến khác thường. Qua ngày thứ năm cuộc tập luyện và tranh luận tự nhiên bớt ồn ào.
Mỗi người ngồi trên một bậc thềm im lìm như những pho tượng khắc trên vách đá.


Trông xa như hai tượng Phật ông, một tượng Phật bà. Ban đêm họ cũng không vô trong thạch động như trước nữa. Cả ba chăm chú tập công luyện khí, nhiệt độ trong người bốc ra khiến châu thân ấm áp chống lại cái khí núi pha sương đêm vô cùng lạnh lẽo.


Các động tác ngón tay của hai chàng làm thanh kiếm quay tít rớt xuống lại tung lên y như người múa rối ném cây đuốc lửa lên cao rớt xuống.
Thanh kiếm là vật nặng, nhưng người vận khí chỉ khẽ đẩy ngón tay cả hai thanh kiếm lại bay vọt thẳng lên cao phát ra tiếng kêu sang sảng.


- Đó là chiêu thế “Ngọc Cửu Quang Hoa” và “Khôi Kỹ Định Đằng” do đức Phật thiên thủ thiên nhãn, ngàn mắt ngàn tay, trảm yêu kiếm đặt ra vô cùng linh động gần như phép phóng “phi kiếm” lấy đầu người ở xa, rồi theo hấp lực trở lại bàn tay.


Chi Mai lúc này mình mặc áo “da hổ” để tránh khỏi bị kiếm quang của hai người lỡ làm đụng chạm phải da thịt. Nàng chưa phát huy được cương khí bảo vệ châu thân, vì vậy chỉ ngồi ở bậc thềm đá dưới thấp, vận hành nội công yếu kém ném truyền bảy hòn đá nhỏ trong một vòng tròn cao vài chục bộ, thay vì bảy lưỡi đoản kiếm sắc bén để thành thất kiếm nữ hiệp.


Người đàn bà Lập thị đứng trong thạch động ghé mắt ngó ra cho là ba người này đang tập trò quỷ thuật, cơm nước bỏ bê không ăn uống, chỉ dùng trái cây nhấm nháp chút đỉnh, còn để hết thì giờ vào công việc luyện công.


Mười ngày hẹn của Thần Hành Nụy Cước trôi qua rất nhanh chóng. Đêm hôm thứ mười nhằm đêm trăng trong sáng. Mảnh trăng tròn vành vạnh như chậu bạc treo lơ lửng trong không gian.


Đan Tâm bàn với Cao thiếu hiệp ôn tập lại tất cả những chiêu kiếm và ấn quyết hành công đã luyện được ở trên bậc đá thứ hai trăm. Chi Mai cũng lấy thanh đoản kiếm ra ôn tập, nhưng cẩn thận hơn nàng chỉ nhảy nhót múa may trên sàn nho trước thạch động, cách rất xa hai người.


Trái lại, hai chàng trẻ rủ nhau leo lên gần tới ngọn cổ tháp để thi triển toàn lực võ công vừa hấp thụ được. Dưới trăng múa kiếm, đó là thú vui khoái trá nhất đời của khách giang hồ. Cao tú sĩ rút kiếm ra, tức thời một đạo “bạch quang” vẽ trong không gian những lằn sáng ngoằn ngoèo như một tấm lụa bạch do tiên nữ vung múa từ cầu thang trên thượng giới bắc xuống. Đạo hắc quang hung dữ hơn, lúc bay xiên sang mé tả, lúc vụt ngang qua mé hữu, mỗi lần hai kiếm chạm nhau lại làm các tia lửa tóe ra rào rào tứ phía như một chiếc pháo “hoa cà hoa cải” vừa nổ giữa trời.


Sự va chạm phát kêu soang soảng. Vách núi vang dội lại làm nàng Chi Mai phải ngừng tay kiếm đứng sững như người mất hồn, theo dõi hai chàng võ sĩ quần thảo nhau. Bóng hai chàng in lên nền trời như có bóng người trong chiếc đèn treo chạy quanh đỉnh cổ tháp.


Những tưởng hai chàng giao đấu chơi với nhau khoảng vài hiệp rồi nghỉ tay, không dè, cả hai càng đấu, càng hăng cứ xoắn tít với nhau như hai đối thủ đánh nhau thật.


Đột nhiên, một tiếng rít lớn như lụa xé rách (...) nổi tên. Hai đạo hào quang, một vàng một đỏ phía ngọn núi xa nhằm hai chàng phóng tới. Thế là cả bốn luồng ánh sáng: trắng, đen, vàng, đỏ lồng với nhau quay lộn quấn quýt quanh ngọn tháp đinh nhọn chĩa lên trời.


Sự đụng chạm phát ra những tiếng động kinh khủng đinh tai nhức óc y như cả ngàn chiêng cồng khua gõ cạnh vành tai. Chi Mai nom rõ nhiều tảng đá bị kiếm khí chém vỡ, tung lên cao rớt xuống ầm ầm như khởi đầu một cuộc động đất dữ dội.


Nàng liền chạy núp dưới vòm đá, trong lòng xiết bao kinh hãi, không hiểu sự gì đã bất thần xảy ra. Nàng lo sợ cho hai chàng hiệp sĩ biểu huynh của nàng.
Nàng không biết rằng hai chàng thiếu hiệp cũng được ở trong một cơn kinh hoàng vô tả.


Hai đạo hoàng và hồng quang có một năng lực phi thường cứ nhằm những yếu huyệt, ngũ quan thất khiếu hai chàng vun vút đâm tới, nhanh hơn điện xẹt. Hai lưỡi kiếm của hai tay thiết kiếm nhanh hơn vượn, mạnh hơn hổ báo mà không sao ngăn đỡ kịp!


Trong vòng hai mươi hiệp, hai chàng phải bỏ vị trí trên cao, lui xuống bậc thềm dưới thứ hai trăm, dựa lưng vào nhau, đồng tâm hiệp lực trấn tĩnh tâm thần để phát huy thế kiếm tuyệt mức sở trường “đẹp như bảo ngọc, trong như đá quý”, động tiếng đinh đang để cầm cự.


Hai cánh tay thành bốn, bốn giúp đỡ nhau thành tám, xoay tả né hữu thành mười sáu nhằm giữa hai đạo vàng, đỏ để cố đâm lủng một đường phá lưới.


Hai thanh kiếm hợp một như hai lưỡi kéo cắt ngang sức tấn công mãnh liệt của kẻ “vô hình”. Ánh trăng đã nhạt dần, chốc chốc lại bị mây mờ bao phủ, Đan Tâm nghiến răng ken két vung ra những đòn quyết liệt mà cũng chẳng làm hai đạo kiếm quang của đối thủ kém phần mãnh liệt.


Các tượng đá, đầu mặt, chân tay bị vệt kiếm quang lướt qua, rơi lả tả như tường vôi cũ bị chấn động lở xuống từng mảng lớn.
Hai chàng vừa chống đỡ, vừa nhắc nhở cho nhau tránh những sơ hở.
- Cẩn thận che mé hữu!
- Đỡ, đỡ mau! Hồng quang nó sắp chọc tới sau gáy!


“Choang!”. “Ầm!”. Lại một tảng đá lớn bị vỡ toác làm ba bốn mảnh hoặc một mỏm đá nhô ra bị chém đứt văng mặt miếng rớt lăn xuống chân núi.
- Ai tấn công chúng mình như vậy?
Cao Kỳ thét to :
- Vị cao nhân nào núp ở đâu ra tay vô tình như vậy? Xin ra mặt mới là kẻ anh hùng!


Đan Tâm bất nhã hơn :
- Quân khốn kiếp nào lại chơi trò đánh lén như vậy? Mau thò mặt ra đây cho “cố nội” mày biết mặt!


Hai chàng vừa chống đỡ, vừa la hét chửi rủa mỏi miệng chỉ thấy tiếng vang của chính mình từ vách đá dội lại, không thấy một ai trả lời một tiếng nhỏ. Hai đạo hoàng và hồng quang tiếp tục công không ngừng khiến hai chàng thấy chân tay bắt đầu rã rời khí lực suy kém.


Tiến lên không đặng, hai chàng bảo nhau lùi dần xuống các thềm đá thấp hơn. Nhưng càng lùi xuống thì hai đạo kiếm quang của đối phương lại càng vũ lộng như hai bánh xe lớn, đè nặng lên đầu.
Rõ ràng là phải làm cho hai chàng nhỏ máu, mất đầu, cụt tay, cụt chân mới thôi?


Nếu cứ thế này, không có người tiếp cứu thì hai chàng khó bề toàn mạng. Mồ hôi vã ra như tắm. Hai chàng vừa lùi dần, vừa chống đỡ vừa than thở :


- Thế mới hay anh hùng vương kiếm kích. Tài giỏi về kiếm lắm thì lại ch.ết về nghiệp đao kiếm. Vừa mới “khai tâm” leo lên bậc “nhất kiếm tung hoành” những tưởng đem tài danh phô trương cùng thiên hạ ai ngờ chưa ra khỏi chốn địa linh đã bị chôn vùi tên tuổi chân cổ tháp. Mà lại ức một nỗi không biết kẻ định hại mình là ai? Mặt mũi tên tuổi như thế nào?


Trong lúc tâm thần bất định thì nghe đến “soạt” một tiếng. Đan Tâm suýt bị làn kiếm quang chém trúng, vạt áo rách tả tơi sây sướt cả da thịt.


Chàng ta hết vía, vội co giò lạng người theo thế “Ký Đảo Cuồng Ba” nép mình vào vách đá, ra sức chém trả một kiếm thực mạnh về phía hữu. Nhưng đạo kiếm quang như có mắt điện nam châm bay vụt trở lại và liệng một vòng rồi lại như chim cắt nhào xuống tấn công dữ dội hơn.


Cao Kỳ Nhất Phương không thể chậm trễ, khoa thanh Song Nhạn Thiên Linh, nhảy vụt lại dùng thế “Phượng Thăng Hồng Nhật” nhằm chém mạnh.
Một mặt chàng la lớn :
- Đan hiền đệ rút lui về phía thạch động mới có cơ tránh đỡ. Chúng ta thấm mệt lắm rồi không thể bốn bề thụ địch được nữa.


Chi Mai tưởng Đan Tâm bị nguy, định chạy đến tiếp cứu. Nhưng trèo lên được vài bậc thềm đã bị đạo hào quang sệt tới làm cho lóe mắt. Nàng giơ đoản kiếm lên đỡ gạt, nhưng chỉ nghe đến “phập” một tiếng, thanh bảo kiếm đã gãy đôi, chỉ còn cái chuôi và mâu lưỡi cụt trong tay.


Đan Tâm vội nhảy xổ đến tiếp cứu. Đạo hào quang liệng quanh một vòng kế bị thanh Mộc kiếm đánh bật lui lại. Nếu Chi Mai không được bộ y phục da bạch hổ che đỡ thì thân người nàng bị tiện đứt làm hai khúc rồi.


Tình thế ba người thực là nguy hiểm. Đạo kiếm vàng đâm trượt không trúng người làm vách đá bị lủng sâu nhiều lỗ. Nếu hiện trạng cứ kéo dài thì bọn Chi Mai thế nào cũng có người bị tử thương.
Bỗng Đan Tâm vụt nhớ ra điều gì, bèn gọi Chi Mai bảo rằng :


- Linh vật kiêng kị uế vật, linh kiếm ắt kỵ máu tanh. Chi Mai vô bếp mang dè heo đâm cho chảy máu tươi ra cửa động để cứu nguy hai ta xem sao?


Chi Mai vâng lời, chạy gấp vô sau thạch động lôi heo từ trong cũi ra chẳng kịp chọc tiết, cứ thế quẳng ra ngoài sân mé trước thạch động. Đan Tâm lanh tay bắt lấy con heo đương kêu rống eng éc, cầm cẳng nhằm ánh hoàng và hồng quang ném tới. Quả nhiên chỉ nghe thấy tiếng con heo “hộc” lên tiếng lớn, thân mình bị chặt làm bảy tám khúc, huyết heo vãi khắp nơi.


Thêm một con dê nữa ném theo cũng bị hồng quang phân thây làm nhiều mảnh trên mặt sân đá như sắc hoa.


Không biết linh kiếm bị ô uế hay là đã được tắm máu tươi thế mạng hai người ra sao không biết, nhưng từ lúc đó hai đạo hoàng và hồng quang đảo lên đảo xuống, ánh sáng và tốc độ kém giảm đi nhiều.


Cao tú sĩ nghiến răng, chuyển hai tay cầm chuôi kiếm, dùng thế “Hàn Châu Đái Giáp”, thế thứ nhất của Chiêu Minh kiếm pháp chém đạo hoàng quang rơi xuống đất. Linh kiếm bị gãy làm hai đoạn nhảy loong coong trên mặt đất.


Ánh kim quang bỗng vụt tắt. Cao thiếu hiệp vận thần quang nhìn xem chỉ thấy một chiếc trâm cài đầu của phụ nữ dài hơn một tấc bị lưỡi kiếm báu của chàng phân làm hai đoạn đều nhau. Chàng cúi xuống lượm cầm tay vô cùng kinh dị.


Ánh bình minh đã làm bầu trời ửng sáng. Đan Tâm đuổi theo đạo hồng quang một cách mệt nhọc. Chàng cố gắng dụng tàn lực múa tít Mộc kiếm tạo nên một vòng hấp lực, kìm giữ ngăn chặn để tiêu diệt bằng được làn sáng đó.


Phần thắng đã ngả về phía hai chàng trai trẻ tuổi. Cao tú sĩ sau khi khắc phục được đạo hoàng quang tức chiếc trâm vàng cũng hăm hở nhảy vọt lên cao giúp Đan Tâm áp đảo kiếm quang thù địch.


Được thêm sự giúp đỡ, Đan Tâm dồn ép làn “quái kiếm” xuống phía dưới và kết cục, với chiêu thế sở trường chém hất ngọn kiếm từ phía dưới sẹt sang bên mà chàng đã chém đứt cuống họng bao nhiêu địch thủ, Đan Tâm chặt ngang làn sáng đó lúc nó bay sát mỏm đá phía bên.


Lưỡi kiếm ngập sâu vào khối đá làm quái kiếm bị mắc kẹt luôn trong đó hết bay liệng được nữa. Cẩn thận, Cao Kỳ cũng tặng thêm một nhát đúng ngay một chỗ. Ánh đỏ tắt ngấm. Hai chàng móc từ trong kẽ đá lấy ra được một cây que nhọn đầu dùng để thông ống điếu bằng đồng đỏ.


Thế là mệt nhọc cả đêm, tưởng đánh chém với “linh đao quái kiếm” ghê gớm lợi hại kỳ lạ đến thế nào, ai ngờ hì hụi giao đấu với một cây trâm cài đầu và một cái que thông ống điếu.


Hai chàng thở dài, mặt buồn âm thầm hỏi không biết thằng dị nhân bí mật nào đã giở trò chơi khăm nhục mạ hai chàng?
Nghĩ tới lúc hai chàng dương dương tự đắc trên đỉnh tháp múa kiếm vờn ánh sáng trăng biểu diễn một pha cực kỳ ngoạn mục khiến rồng phải hàng hổ phải quỳ xuống phục.


Thực là đắc chí tung hoành!
Bây giờ cụt hứng sụm xương sống!


Nhìn lên vách tường đá mới tiếc ngẩn ngơ. Ba trăm sáu mươi bậc thềm đá tổng chi hơn ba trăm sáu mươi vị hoạt Phật, mỗi vị ban cho một ấn quyết bí truyền. Học chưa được hai phần ba, chỗ nhớ chỗ không, suy sở đắc phần hạ, nhưng phần thượng mới lõm bõm chứa người chỉ giáo chưa ra cái thể thống gì! Bây giờ bị tan nát, đổ vỡ chẳng còn chi! Những mong leo lên chót vót trên cao, tung hoành tí chút, thế mà suýt nữa toi mạng vì hai vật nhỏ mọn kia!


Cái gì đáng “ghê khiếp” nhất lại hóa ra là cái “tầm thường” ít giá trị nhất!
Cứ ngắm hai vật heo dê bị hi sinh, thịt xương tan nát... nghĩ mà rùng mình lúc bị hai con quỷ ấy tấn công sáp lá cà, hoa mắt choáng đầu, chân tay bủn rủn.


Chỉ buồn cười cho mụ Lập thị, trốn chui trong thạch động thế mà ánh kiếm quang của cả đôi bên nhấp nhoáng ngoài cửa động cũng làm đôi chân mày cao nhẵn. Nếu đầu không trùm chăn thì tóc cũng bị rụng hết.


Trên lưng Chi Mai cũng hãy còn một vệt kiếm in hằn trên mặt da “cọp bạch”, trụi sạch tấm lông dày. Thực là hú vía!
Vô trong bếp nhặt nhạnh còn ít lương thực đem ra nấu nướng vì mọi người đêm qua kinh hoàng đã đói lả.


Ăn xong thấy tiếng vó câu đập rầm rập trên mặt đá, kế thấy Thần Hành Nụy Cước xuất hiện, vẻ mặt hốc hác lo âu.


- Mọi việc xảy ra không đến đúng như ý định của tiểu lão! Xin lỗi các vị, lão phu tới tiếp đón chậm trễ! Kính mới quý vị lên xe khởi hành ngay tức khắc, nếu trì chậm, việc lớn hỏng mất!
Lão lùng cũng chẳng để mắt tới mọi sự biến đổi trên các bậc thềm đá dẫn tới tòa cổ tháp.


Biết rằng có sự khẩn cấp, bọn Chi Mai thu xếp hành trang đi theo Nụy Cước tới chỗ để xe, leo lên. Cỗ xe sáu ngựa kéo, lại theo đường lát sỏi cũ chạy vô địa đạo, ra khỏi hẻm đường.


Nhìn sang hai bên đường thấy bóng đen loang loáng chạy lui chứng tỏ tốc độ nhan thế nào. Hết xuống đèo lại leo dốc chữ chi không biết đã vượt qua biết bao nhiêu là đồi cùng dốc hiểm.


Lần này cỗ xe dừng lại trước tòa thành, chung quanh có tường đá ong bao phủ như một cỗ thành bỏ hoang phế. Nụy Cước Thần Hành bảo mọi người xuống xe. Trên cổng lớn còn hàng chữ khắc sâu :
“Bình Giang Hầu Biệt Phủ”


Đúng là tư dinh của một vị võ quan giữa vùng núi đồi. Chỉ vì không có người quét dọn nên bên ngoài mất vẻ tráng lệ uy nghi. Bên trong nhà cửa xây cất rộng rãi sạch sẽ hơn bên ngoài.


Nụy Cước dẫn mọi người vô căn nhà giữa, nền cao xây bằng đá xanh. Bốn bề rèm phủ nên bên trong ít ánh sáng lọt tới. Đồ đạc trần thiết tuy đã lâu đời nhưng bằng gỗ mun đen bóng đẹp.


Bọn Chi Mai đinh ninh lần này sẽ được Bình Giang hầu hoặc vị võ sư Châu Hòa trấn thân hành tiếp kiến. Chừng đó sẽ hỏi cho biết mọi nguyên ủy sự việc lạ lùng? Những điều Cao tú sĩ mong mỏi nhất là tìm biết những tin tức liên can tới mảnh giấy gài trong chiếc mũ “xinh xinh màu thiên thanh” mà chàng ôm ấp đem theo trong mình.


Nụy Cước bảo mọi người ngồi chờ. Đan Tâm hồi hộp kéo ống tay áo bạn chỉ lên tường cuối dãy nói rằng :
- Đây là tư dinh Bình Giang hầu, một vị đại thần triều Tống. Tiểu huynh có trông thấy bức tranh, vị tướng nào đứng giữa các đám võ quan ấy, trông y hệt Lý huynh và cụ Mã Hóa Long ở nhà.


Cao tú sĩ ngoảnh lại xạ thần quang lên bức tranh bằng tấm thảm trang Hoàng hậu.
(...) nhiên thấy Đan Tâm nói không sai. Trong bức họa đồ đó có thấy cả hình thân phụ Lý công tử và Bình Hầu Vương Thế Cát nữa.


Cao tú sĩ không thể dằn lòng, liền đứng dậy tiến tới coi cho tỏ. Đọc hàng chữ chú thích từng người mới biết đó là hình Lý Lăng vương và những cận thần tì tướng khi xưa.


Giang Bình Hầu là chức cũ của Ngũ Đạo tướng quân Thiết Ly Sa hồi còn trung thành dưới trước, tức hữu cận vệ của vị đại soái Bình Liêu phò tá Lý Lăng không hơn không kém.


Tuy nhiên, lúc đó chàng cảm thấy rất tự hào khi ngắm nghía dung mạo phụ thân chàng trang nghiêm trong khâm phục, đứng cạnh vì khai quốc công thần toàn dân sùng kính.


Bỗng nghe tiếng cửa xịch mở, quay đầu lại thấy một chiếc xe phượng liễn nhỏ. Hai bánh do hai người thiếu nữ đẩy ra chính giữa đại sảnh, đối diện với bức họa vĩ đại. Trên xe nhỏ, một mệnh phụ già đầu tóc điểm bạc gầy yếu như nhành mai cằn cỗi. Bà ta ngồi yên như pho tượng, hai mắt nhắm nghiền. Những thị nữ theo hầu bà ta trạc trung niên, y phục kiểu cổ, chia nhau nhưng cây bạch lạp lớn bằng cổ tay và tỏa hương trầm nghi ngút bốc khỏi, khiến căn phòng trở nên sáng sủa và thơm ngát.


Thần Hành Nụy Cước chưa kịp cất tiếng thì bọn Chi Mai thấy một thiếu nữ bận áo y hệt U Linh nữ chủ, mặt cũng đeo một mặt nạ bạc, từ phía sau bước ra.


Bọn Chi Mai xiết bao kinh hãi vì lúc này U Linh nữ chủ còn đương nằm chữa bệnh tại Vạn Diệu sơn trang, làm thế nào mà lại xuất hiện tại nơi đây được? Vậy thiếu nữ kỳ quái này là ai? Tại sao phục trang giống hệt U Linh nữ chủ?
Cao Kỳ Nhất Phương cố gợi lại trong trí óc, đột nhiên chàng bật kêu khẽ :


- Thôi đúng rồi! Thiếu nữ này là Thiết Như Hoa, con gái Ngũ Đạo tướng quân! Bà mệnh phụ phu nhân ngồi trên xe loan nọ chẳng phải ai lạ, chắc là Thiết Ly Sa phu nhân!
Cao Kỳ Nhất Phương lẩm bẩm trong miệng rất nhỏ thế mà hình như người đàn bà cao niên nghe thấy tất cả những lời chàng tự nói. Bà cũng nhắc lại :


- Ngũ Đạo tướng quân...
Thần Hành Nụy Cước không muốn để cho bọn Chi Mai bỡ ngỡ, liền giới thiệu :
- Thái Thái, đã cung thỉnh các vị tới đây, xin quý vị an tọa!


Cô gái đeo mặt nạ bạc nọ cũng đỡ bà xuống xe, đi lại ngồi trên chiếc ỷ có lót nệm hoa văn. Thị nữ dâng trà. Bọn Chi Mai sau khi vòng tay bái kiến mới ngồi xuống ghế.


Hai chàng như hai người mất hồn, không ai bảo ai, tim đập hơn trống làng khép nép ngồi trên đôn phủ gấm. Do bản năng tự vệ, Đan Tâm đặt tay vào chuôi kiếm, nhưng nhìn kỹ thì thấy bàn tay chàng bắt đầu run bần bật. Thì ra khi lại gần bái kiến bà cụ hai chàng nhìn thấy hai vật đã làm hai chàng toát mồ hôi lạnh đêm qua.


Số là bà ta búi tóc cài trâm, một cái trâm hình dạng và kích thước y hệt cành trâm gãy mà hai chàng thâu lượm tại tòa cổ tháp, đồng thời trên phượng liễn, chiếc ống điếu cây thông bằng đồng đỏ đặt ngay dưới chân bà lão.


Như vậy bậc dị nhân đã phóng trâm và cây que thông ống điếu tấn kích hai chàng tối tăm mặt mũi trối ch.ết đêm qua không ai khác, chính là bà ốm nhom, gió thổi cũng ngả, ở trước mặt chàng trong lúc này.


Thiết Ly Sa phu nhân từ từ mở đôi mắt, đôi đồng tử sáng quắc phát tia lóng lánh chứng tỏ thân hình thể chất bà cụ thì ốm yếu “bất túc” nhưng thần khí hảo sảng quá ư “dư dật”. Chỉ còn thiếu một bậc, lưỡi phi kiếm có thể bay từ trong mắt bà cụ ra, đâm nhói vào tim làm ch.ết người được!


Bà nhìn thẳng lên bức tranh lớn trên tường lắc đầu than thở :


- Ngũ Đạo tướng quân! Danh từ nghe oai phong, khí phách lắm! Chỉ huy những năm đạo quân cơ mà! Phải chuyết phu ta là Ngũ Đạo tướng quân chỉ huy Tiền, Hậu, Tả, Hữu, Trung quân, trong tay nắm hết binh quyền nhà Đại Tống. Nhưng thực là xấu hổ không đáng kính, đáng mến bằng khi chỉ là Bình Giang hầu như ở bức họa bên kia. Đã hơn hai mươi năm nay, ngoài ta không một ai được phép vô căn phòng này! Vì sao? Các ngươi muốn hỏi ta điều đó phải không?


Bọn Chi Mai ngồi lặng yên, nín thít không dám hỏi, không dám nói một câu nào chỉ e ngộ nhỡ xúc phạm đến bà nọ, bà nổi hung lên tung nốt cây trâm vàng kia ra hay cái ống điếu nọ thì thực là khốn khổ!


Nhưng hình như bà ta chẳng để ý tới sự bối rối của hai chàng hiệp sĩ. Thiết Như Hoa và Nụy Cước cho rằng hai chàng giữ lễ phép, tôn trọng lão thái nên dè dặt như vậy!
Trái lại bà kia cứ nói lảm nhảm như không thấy bọn Chi Mai đương ngồi trước mặt.


- Ta rất mắc cỡ khi có ai nhắc đến danh xưng chức tước Ngũ Đạo tướng quân trước mặt ta.
Vẻ giận dữ lộ trên mặt phu nhân đã có vẻ nhăn nhúm của tuổi già.


- Chỉ vì cái chức tước khốn nạn đó mà làm ta già đi trước tuổi. Chắc bà Trấn Viễn Hầu phu nhân và bà Nam Bình hầu còn trẻ hơn ta nhiều. Các ngươi có biết không? Các thằng ăn trộm, các tên ăn cắp, lưu manh, xỏ lá, người ta cũng gọi nó là Ngũ Đạo tướng quân cả, có biết không? Ta là vợ một tên ăn trộm ăn cướp chứ danh giá nỗi gì? Này nhé, “Đạo” cũng có nghĩa đạo quân, đạo đức. Nhưng thằng ăn trộm giỏi có đường lối, có phương cách cũng gọi là “Đạo”. Nó muốn ăn trộm của ai thì nó biết trước trong nải hoặc trong túi người ta có gì, như thế gọi là “mánh”. Vào nhà người ta hay thò tay vào túi người ta ăn cắp tiền là một việc nguy hiểm, thế mà thằng ăn trộm dám làm, nên nó rất “dũng”. Vào trước ra sau, không quên đường lối, không làm đụng chạm nhột người ta, vậy nó có “nghĩa”. Biết suy tính lợi hại, nếu lấy được thì lấy, không thể lấy trộm được thì không lấy, vậy nó không lanh, có “trí” lắm. Sau nếu có đồng phạm đồng lõa biết phân chia nhau đều đặn không tranh giành, như vậy là nó lại có “nhân” nữa. Vì vậy, nó cũng là “Ngũ Đạo tướng quân”.


Nghe phu nhân nói vậy, bọn Chi Mai khó nhịn cười, trong bọn thê nữ có cô bụm miệng cười khúc khích.
Lão thái thái nhìn con gái là Thiết Như Hoa hỏi :


- Ta nói vậy có đúng không? Thằng ăn cướp tội còn có thể tha thứ được vì đôi khi “đói ăn vụng túng làm càn”. Nhưng phụ thân con thì không thể tha thứ được vì là một tên phản bội! Kẻ lừa thầy phản bạn ở đời thủa nào cũng đáng khinh ghét lắm!


Thiết Như Hoa tức cô gái đeo mặt nạ bạc, từ nãy vẫn đứng yên, nghe vậy thỏ thẻ trả lời bà cụ rằng :
- Kính thưa mẫu thân, hôm nay có người lạ ngồi đây, mẫu thân không nên nói xấu phụ thân con nhiều e sợ người ta cười chê.
Bà cụ quắc mắt nạt nộ :


- Từ hai mươi năm nay, thiên hạ đã chửi rùa cha mày nhiều lắm rồi. Ta mắng nhiếc là quân ăn trộm thì đã đến nỗi nào. Nếu hôm nay, Lý công tử mà tới đây gặp ta thì có lẽ ta còn mắng chửi cha mi tàn tệ hơn nữa cơ. Hôm nay chỉ có Vương công tử có mặt nên ta nói thế là còn nhẹ.


Nói rồi bà cụ chỉ tay vào Cao Kỳ Nhất Phương nói rằng :


- Vương công tử tìm đến Bình Giang hầu ở Châu Hòa trấn. Giang Bình Hầu phu nhân tức là bạn thân của bà Vương phu nhân và bà Vương Ngọc Lan tức Mã phu nhân. Con trông lên bức họa mà coi: Ba vị tước Hầu đứng quanh một vị tước Vương là bốn cây cột trụ nâng đỡ nhà Đại Tống. Bốn người cùng đứng trong tranh vẽ kia bề ngoài là vị chỉ huy và bộ hạ tôi lương đống của triều đình, nhưng bên trong coi như ruột thịt đồng sanh đồng tử. Vì thế nên bốn bà phu nhân lại càng thân thiết, đằm thắm coi nhau như chị em cùng một bọc sinh ra. Lý Lăng vương phu nhân sinh hai trai, Mã phu nhân và Vương phu nhân sinh mỗi người một trai và ta sinh một gái. Chúng ta sinh con cùng một thời hạn, đồng năm tháng chỉ cách nhau có mấy ngày và cùng ở trong vương phủ. Tiếc thay, vì chức vị Ngũ Đạo tướng quân kia mà Thiết Ly Sa tức phu quân ta bị tên chó má Thân vương Tạ Bưu mua chuộc. Hắn phao vu cho chủ soái ta là phản thần, liên kết với giặc Liêu. Một đêm kia, do Thiết Ly Sa làm nội ứng quân, Thân vương xông được vào Vương phủ sát hại hai ông bà Lý Lăng vương và định giết cả hai đứa hài nhi cho hết mầm hậu hoạn. Khi trong Vương phủ có biến, hai bà Vương và Mã phu nhân không quên nghĩa lớn, liền bồng con mình đánh tráo bỏ vào nôi để cứu con chúa. Và khốn nạn thay chính chuyết phu ta đã dùng Quỳ Đầu Trùy xuống tay đâm ch.ết hai đứa nhỏ. Lúc đó ta bồng con nhỏ Thiết Như Hoa chạy vô, thấy vậy hét lên nhưng hai đứa trẻ cũng đã bị mũi trùy đâm lủng thịt máu chảy đầm đìa. Thiết Ly Sa thấy ta la lối, hắn ngưng tay bỏ đi. Từ ngày đó, ta không muốn giáp mặt nữa. Trong lúc bối rối ta sai nhũ mẫu bồng đứa trẻ bị đâm chạy trốn mang đi chỗ khác sợ quân phản loạn truy sát nên cũng chẳng rõ tung tích hai trẻ going giống của hai ông bà Lý Lăng vương ra sao? Không ngờ trời kia có mắt, gần đây ta được biết tin hai bà Vương và Mã phu nhân đã hy sinh cứu thoát hai đứa con nhỏ của chủ. Chẳng những cả hai công tử của Lý Lăng vương còn sống mà cả hai con của hai bà Vương phi bạn ta cũng thành đạt nên người. Cảm tạ ơn trời!


Nói rồi bà lấy tay vẫy Cao thiếu hiệp lại ngồi gần bên bà, chiếu đôi mắt sáng như sao, ngắm nghía chàng trẻ tuổi vẻ mặt hân hoan tươi tỉnh vô cùng.


Tay nâng chung trà đưa lên miệng, Bình Giang hầu phu nhân uống một hớp trà ngon. Cao Kỳ nhận xét thấy bà Vương phi này cầm ngọc trân cùng một kiểu như Mã phu nhân và mẫu thân chàng ở Vạn Diệu sơn trang.


Ba bà Vương phi khi xưa sống chung với nhau ở một vương phủ nên bắt chước nhau từ cách ngôn ngữ tới dáng điệu thường nhật.
Nhưng có một điều dị biệt là đôi bàn tay gầy guộc khẳng khiu kia bằng cách nào đã phóng ra được những đạo “kiếm quang” có năng lực làm động trời đổ núi được?


Phu nhân tiếp tục nói :
- Ta càng ngắm con càng thấy phúc tướng như mẫu thân con. Nhưng song thân con đều là người văn học, mà ở con thì lại phát ra tính cách võ nhân.
Bà quay lại phía Nụy Cước và con gái Thiết Như Hoa nói rằng :


- Chúng bây tổ chức ngày vui của ta hôm nay tồi tệ lắm! Truyền thị nữ dọn đại tiệc, thêm bạch lạp, gọi bọn ca cồng, chuyển đổi, ...
(thiếu nhiều trang sau)
* * * * *


Hình như hắn đưa mắt liếc nhìn thấy Cao Kỳ và Văn Tú Tài cưỡi ngựa sóng đôi gần nhau nên tia nước từ trong miệng hắn phun ra như một sợi chỉ bạc, vọt lên cao nhằm đầu hai người rớt xuống cho ướt.


Văn Tú Tài thấy cử chỉ vô lễ này, không thể nhịn nổi tức giận, hai mắt xếch ngược, nhưng Cao Kỳ đã ung dung rút cây “dù xanh” mang theo, giương lên che cho hai người khỏi bị ướt.


Mọi người thấy phản ứng mau lẹ của hai chàng trai trẻ cưỡi hai con ngựa cao đẹp thì thích chí vỗ tay tán thưởng ầm ĩ. Tên đại hán phun hết nước cũng chẳng biết làm trò chi, với bộ mặt chưng hửng đành quay gót trở lui.


Nhưng Thần Hành Nụy Cước không biết đã tụt từ trong bao da ra, xuống ngựa hồi nào, đi trên mặt đất đầu không cao tới bắp đùi đại hán nọ. Tuy vậy ông ta cũng cất tiếng oang oang như chuông đồng gọi tên bụng phệ lại.


- Nè chú hai theo đúng “luật rừng” chơi ướt áo anh em, chốc nữa xin nhờ anh hai trên Thiết Xích kiều làm chứng, chúng ta ngậm nước phun nhau xem ai vững chân, có tài đề khí cao hơn, chịu không?


Chẳng rõ ba chữ Thiết Xích kiều có năng lực ghê gớm ra sao mà tên đại hán mập ú nọ hai mắt xanh lét, ôm đầu ù té chạy vào đám đông lẩn tránh mất dạng.


Người lùn dị tướng dễ nhận biết. Thấy có tiếng xôn xao trong đám đông thì tức khắc có người trong quán xá có người chạy ra hỏi duyên cớ. Vừa nom thấy Thần Hành Nụy Cước thì người này có vẻ sợ hãi, vội vàng tiếp đón niềm nở.


Thần Hành mời mọi người xuống ngựa vô quán lớn nghỉ ngơi. Đứng trong nhìn ra thấy bên ngoài người đi xem mỗi lúc một đông. Người ở bốn phương kéo đến đông hơn kiến cỏ. Nhiều tiếng động ồn ào nổi lên, chỗ này đánh trống chỗ kia reo hò, thanh la, não bạt, kèn, mõ... làm người bình tĩnh đến đâu cũng cảm thấy rạo rực chân tay.


Nàng Chi Mai ngây thơ hỏi :
- Vậy chớ trong “Võ sư môn” vị nào là thầy dạy võ đứng đầu nơi đây?
Ông già lùn gãi cằm gãi mũi cười đáp :


- Theo “luật rừng”, hôm nay người nào giỏi nhất, hạ được nhiều người nhất không có đối thủ thì là lên bậc “sư”. Tài giỏi thì làm thầy, thua thì làm trò, mạnh được yếu thua. Người thắng bắt kẻ bại làm gì cũng được!
Nàng Chi Mai thật thà hỏi :


- Thế thì tôi lên võ đài bị ai đánh thua, kẻ đó bắt tôi làm vợ hắn thì tôi cũng phải chịu sao?
- Thì đúng như vậy rồi còn gì.
Nàng vẫn chưa chịu ngưng :
- Thế... thế... tiểu nữ yêu người kia, nhưng...
(thiếu 6 trang)
... thêm như trêu cợt cho được xôm trò.


Hắn làm bộ lảo đảo say túy lúy, đánh rơi cả cây cung, không biết chỗ nhào mà nhặt... Trông thấy điệu bộ xạ thủ như vậy, một vài kẻ tham tiền móc túi lấy tiền đặt cọc liền vào chỗ tiền của hai chú cháu cậu nhỏ nọ không chút ngần ngại.


Sau khi xạ thủ quờ quạng nhặt được cây cung hắn còn quay lại lè nhè bảo đám võ sinh cầm thanh la, trống, chiêng gần đó :
- Nổi trống chiêng lên cho ta hăng hái tinh thần mà trổ tài thiện xạ cho lũ bay coi!


Toán võ sinh tức thời khua chiêng đánh trống, thanh la vang động ầm lên, mục đích cổ vũ thì ít mà nhằm làm inh ỏi điếc tai cho trật tay cung tên liệp hộ quái gở thì nhiều.
Ông cụ già thấy tên xạ thủ giương cung nhắm về phía cháu mình thì sợ quá quỳ gối xuống nhắm tịt hai mắt lại cầu khẩn van lơn :


- Lạy chín phương trời, lạy mười phương Phật! Lạy tất cả các bà cô ông mãnh, các cđấng thiêng liêng phù hộ cho cái nhà ông say rượu này bắn trúng ba trái mận chứ đừng bắn trúng cháu Trương Bỉnh Nhi của tôi để tối nay có tiền ăn nhậu. À quên tôi được tiền tôi sẽ trích ra một phần ba mua rượu thịt để cúng chư vị. Mô Phật! Mô Thánh! Mô Thần!


Trong khi đó thì tên xạ thủ từ từ lắp tên kéo cung nhưng không buông ra ngay mà còn đưa lên ngắm bắn, làm cây cung lảo đảo như lên đồng... vút, mũi tên nhọn xé không khí bay về phía cậu nhỏ. Quả mận tron tay trái cậu bé văng đi...
- Trúng rồi! Trúng! Xuyên thủng trái mận rồi.


- Đúng như vậy không? Tao chả trông thấy gì cả! Xa quá!
- Thôi cứ để cho hắn bắn đủ ba phát tên, chúng ta sẽ lên nhặt trái mận xem sao.
- Sao thì sao, miễn thằng nhỏ đừng bị tên trúng đầu trúng ngực ch.ết lăn queo là được rồi.
- Trời ơi nói nghe khiếp quá! Tôi bịt mắt không dám xem nữa đâu.


Tiếng trống chiêng đã nổi lên ầm ầm. Dùi trống đánh liên hồi càng ngày càng mạnh chứng tỏ mọi người đều đang bị căng thẳng tinh thần đến tột độ.


Xạ thủ rút mũi tên thứ hai đặt lên dây cung, đầu mũi tên bọc thép nhọn sáng loáng. Cây cung bằng gỗ dâu cong như vành nguyệt tròn, dây buông nghe đánh “bưng” một cái, mũi tên vút bay đi không ai trông theo kịp. Xa xa chỉ thấy trái mận đỏ nằm giữa những đầu ngón tay chụm lại văng đi mất.


Mọi người lắc đầu lè lưỡi thán phục vô cùng.
- Đúng là Dưỡng Do Cơ tái sinh, bách phát bách trúng!
Xạ thủ nhìn tả nhìn hữu, dương dương tự đắc. Tiếng trống chiêng càng đổ dồn từng hồi, tiếng vỗ tay khen ngợi vang dậy.


Lần này xạ thủ lấy khăn lau cán cung cẩn thận cho sạch mồ hôi, lựa cây tên dài nhất trong bao, đứng dạng chân xuống tấn vững vàng, giương cung lắp tên. Bao nhiêu hơi rượu lúc nãy đã bốc đi đâu hết cả. Có lẽ hắn cũng đã biết phát tên cuối cùng này là rất nguy hiểm, chỉ cần sai một li là thủng trán cậu nhỏ, kết liễu một tính mạng chứ chẳng phải chuyện chơi.


Người chủ cuộc đếm tiền lẩm bẩm: Hơn tám trăm tiền một phát tên! Bằng bắn trúng mắt nai cách xa hơn trăm bộ. Không phải mất công đài tải khiêng vác từ trong rừng ra chợ, không mất công lóc da xẻ thịt gì cả!
Xạ thủ nhoẻn miệng cười toe toét rồi phát xạ.


Hàng ngàn bộ ngực nín thở. Tiếng trống chiêng tự nhiên cũng im bặt, đám đông đổ dồn chú mục điểm đỏ trên đầu chú nhỏ. Chỉ thấy trái mận văng xa tít. Cậu nhỏ Trương Bỉnh Nhi giơ cả hai tay lên trời, múa khoa lên, reo lớn :
- Thúc phụ ơi! Được tiền rồi! Cho cháu ăn ngon tối nay nhé!


Khốn nạn cho cụ già, chẳng biết bị xúc động vì sướng hay quá lo sợ, xỉu lăn ra bãi cỏ! Xạ thủ ung dung tr.a cung vào bao tên, bảo người cầm chịch lo đếm tiền để chia cho cậu nhỏ can đảm.
Cẩn thận hơn người cầm chịch cuộc bắn trả lời :


- Xin cho người tìm nhặt ba trái mận, giơ lên cho những người bỏ tiền đánh cuộc coi rõ là ba mũi tên xuyên thủng ba trái mận cho minh bạch.
Từ phía xa, một võ sinh đã giơ cao cho mọi người trông thấy ba cây tên xuyên qua ba trái mận ngay đúng giữa, mà hắn vừa lượm được trên mặt đất.


Thế là cuộc chia tiền bắt đầu, chú cháu cậu nhỏ được bọc tiền to lớn nhảy nhót reo mừng làm mọi người vui lây. Người liệp hộ cũng nhặt tiền bỏ bị.


Viên xạ trưởng sử dụng cây cung sơn son bắn trượt đích lúc ban đầu cùng đám đông học trò ông ta cũng vội đến trước mặt người thắng cuộc vòng tay thi lễ nói rằng :


- Xin khâm phục! Xin khâm phục! Lúc nãy mạt đệ và các tiểu đồ có mắt cũng như không ngươi, không nhận biết núi Thái Sơn xâm phạm đến tôn ông xin thứ lỗi! Thứ lỗi! Xin cho biết quý tánh đại danh và mời nhận trọng lễ.
Người liệp hộ ẩn danh chỉ khua tay không cho biết tên họ :


- Không có chi mà, “may tay có lời”! Kẻ khốn cùng này không dám nhận trọng lễ với ai, xin cho được tùy tiện!
Nói rồi định quay gót trở lui. Nhưng Đan Tâm đã chạy tới níu lấy cánh tay y, nói nhỏ vào tai kẻ đó rằng :


- Tráng sĩ đi đâu mà vội thế? Theo ngu ý, nên thu ba cây tên về chẳng nên để người ngoài so đo e có sự đàm tiếu!
Liệp hộ vô danh xếch ngược đôi mày sâu róm hầm hè hỏi :


- Nhà thầy ăn nói vô lễ! Ba mũi tên ta vừa phát xạ không đáng để xạ thủ và học sinh Châu Hòa trấn lưu giữ làm kỷ niệm sao? Việc đó can chi đến nhà thầy?


Nói rồi vung tay hất mạnh định làm Đan Tâm bị gạt té. Không ngờ bàn tay của Đan Tâm như Thiết Cang Thủ, đã bám vào đâu như khóa đồng siết chặt. người thợ săn chẳng thể cựa quậy. Đan Tâm hạ thấp giọng, chìa ba mũi tên xuyên thủng ba trái mận cho người thợ săn coi và nói rằng :


- Túc hạ quá nóng không nhìn thấy tấm lòng tốt của Thập Thiện Đan Tâm này! Các cây tên so với tên của túc hạ sử dụng có phần ngắn hơn nhiều!
Người thợ săn tròn xoe hai con mắt, cầm lấy cây tên ngắm nghía, mồ hôi nhỏ giọt đẫm trán.


Thì đúng là không phải tên do cung của hắn bắn ra thiệt! Những cây tên này ngắn hơn hai tấc, thân đen và mũi khác nhau nhiều. Hắn há hốc miệng nhìn Đan Tâm hỏi lại :


- Thế này là nghĩa lý gì? Ở đâu ra những mũi tên này? Ba trái mận có ghi dấu còn đây. Làm sao rõ ràng mình bắn ra trúng đích mà bây giờ lại biến thành ba mũi tên khác. Không lẽ ai đã rút tên mình ra cắm mũi tên khác vô để tráo? Cũng vô lý, nếu làm vậy trái mận bị bể, không còn ăn khớp nữa!


Càng ngắm nghía, hắn càng thấy ở đời, mình đã tưởng là mình tuyệt tài, tuyệt giỏi, nhưng lại còn có kẻ tài giỏi hơn mình nhiều.
Đan Tâm nhẹ nhàng khuyên nhủ :
- Thì tốt hơn là tráng sĩ nhận lấy bỏ vô giỏ tên của tráng sĩ làm kỷ niệm thì hơn!


Nhưng nhìn thấy người thợ săn tuy có sự khiếp phục song hãy còn bán tín bán nghi, Đan Tâm liền thò tay vô giỏ đựng tên của hắn ta, rút ra một cây tên :
- Đúng rồi, tên túc hạ sử dụng để bắn thú rừng lớn và dài hơn. Có như vậy mới đi xa và mạnh, xuyên lủng sâu.


Chàng lấy ngón tay cân nhắc giữa thân cây tên :
- Vót một mũi tên này cũng công phu lắm. Có thẳng và cân đối, thăng bằng không nặng nhẹ hai đầu thì mới chính xác. Cổ nhân nói “xem xét cây tên biết tài người bắn” là đúng lắm!


Nói xong Đan Tâm nhìn trước nhìn sau thấy mọi người đã rời bỏ xạ trường đi chỗ khác xem những cuộc đấu võ, chỉ còn bọn người Cao Kỳ, Văn Tú Tài và hai cô gái ngồi chờ trong kiệu.
Chàng liền cao giọng nói cho Chi Mai ngồi trong kiệu nghe rõ :


- Tráng sĩ không tin là nói thật. Vậy tôi cầm cây tên của tráng sĩ ném cao lên trên không để cho người bắn trái mận sẽ trổ tài Liên Châu thần xạ bắn ba phát! Cả ba mũi tên ngắn sẽ cắm cả vào mũi tên dài của túc hạ để túc hạ khỏi phải nghi ngờ lời nói của bần tăng nữa.


Chàng quay lại thấy cửa rèm che kiệu đã vén lên, chàng khẽ vẫy tay tức thời mũi tên như đặt trên dây cung bay vút thẳng lên không theo độ chếch hướng về phía kiệu cho Chi Mai phát xạ.


Người thợ săn lấy làm kinh sợ vì thấy vị sư không dùng sức mà cây tên như có mãnh lực phi thường đẩy lên rất nhanh và cao, cao mãi quá tầm mắt.


Dù hắn đặt tên vào cung bắn vị tất đã vút cao và đi xa tới thế! Nhưng kỳ lạ hơn là không biết từ đâu có ba mũi tên ngắn nối đuôi bay tới như ba vệt đen, cắm trúng cây tên của hắn làm đảo lộn trên không trung, rồi cả chùm bốn cây tên cùng rớt xuống chỗ bắn không xa.


Sự thực đã hiển nhiên như vậy! Hắn không nghi ngờ gì nữa. Hắn biết rằng hôm nay đã gặp phải những tay “cứng cựa”, bản lãnh kinh khủng hơn hắn gấp bội.
Đan Tâm nhẹ tay vỗ vai hỏi đùa :


- Tay liệp hộ “đại tài” chắc đồng ý bắn chim bay khó hơn bắn chim đậu nhiều. Mấy mũi tên đó không đáng để lưu lại làm kỷ niệm bữa nay sao?
Nói rồi cả bọn Đan Tâm và Văn Tú Tài lững thững bước dài bỏ mặc tên thợ săn ngẩn ngơ, ngơ ngẩn như hồn lên cung trăng.


Tất cả những việc vừa xảy ra, không thoát khỏi đôi mắt tinh ranh của cậu nhỏ. Cậu ta chạy lại, nhặt bốn mũi tên dính vào nhau, ngắm nghía một hồi rồi tự nhiên chạy thẳng lại bên cổ kiệu :


- Kính lạy hai tiểu thư! Hai tiểu thư tài giỏi tuyệt vời. Em đứng làm bia sống em biết không phải ông kia bắn trúng trái mận ở trên đầu em và ở trên ngón tay em. Nhưng vì nhị tiểu thư ngồi trong kiệu tối, em không nhận thấy rõ. Bây giờ thì đúng rồi, tài thiện xạ do hai tiểu thư. Xin cho em lạy chào cám ơn!


Thằng nhỏ hành động, nói năng như vậy, chừng đó người thợ săn mới vỡ lẽ, cũng vội vàng chạy lại bên kiệu chắp tay vái chào lễ phép :


- Kính bẩm lưỡng vị công nương, kẻ hạ tiện là Vi Thụ, làm nghề săn thú đã mấy chục năm nay, đã có thề nguyền nếu gặp người nào bắn tài hơn mình thì tình nguyện xách dép hầu hạ suốt đời. Ngày hôm nay như kẻ ở trong sương mù vén mây trông thấy nhật nguyệt. Xin lưỡng vị công nương thu nhận làm gia nhân môn hạ để được thỏa nguyện, xin hết dạ trung thành.


Thiết Như Hoa gật đầu ưng thuận :
- Chúng ta không hẹp hòi! Tráng sĩ muốn vậy là tự ý người!
Hai chú cháu Trương Bỉnh Nhi thấy Vi Thụ xách bị lẽo đẽo đi sau cỗ kiệu thì cũng nối gót theo luôn, không biết do tánh hiếu kỳ hay là cùng theo xem hội nhân thể.


Rời trường bản, tới nơi đám đông xúm xít quanh một anh chàng cao gầy khẳng khiu, đứng sau giàn có tấm phên sắt che ngang phía trước. Hắn thò cái cổ “cò hương lộ hầu” và cái đầu tóc mọc lởm chởm vàng hoe.
Người cao gầy đó cất tiếng rêu rao :


- Đây là trò chơi học tập “đao phủ” chém đầu người. Ở tấm phên sắt này có một lỗ tròn đủ để ta thò đầu ra ngoài. Ai muốn đứng ngoài, đứng tả, đứng hữu, muốn chém sao thì chém. Chém bằng dao, kiếm, gươm, phạng hay búa tầm sét cũng được. Nếu chém trúng thì ta chịu cụt đầu.


Một người đứng xem hỏi :
- Ai muốn chém cũng được sao?
Người cao gầy lắc đầu, nói lớn :


- Đâu có thể như vậy được. Tôi thò đầu ra khỏi lỗ cho các ông chém. Nhưng muốn chém tôi phải đặt cọc trước mười tiền. Mười tiền chém một nhát, hai mươi tiền chém hai nhát, Còn không muốn đặt tiền mà muốn khai đao thì phải ưng điều kiện là chém trúng tôi rụng đầu thì thôi, còn nếu khai đao hụt thì vị đó lại vô đây thò đầu ra cho tôi chém lại một nhát cho huề. Trò chơi vui thú, hấp dẫn, hồi hộp. Nhào vô! Nhào vô! Chém chơi! Chém chơi!


Vài ông cụ già đứng xem thì thào với nhau :
- Trò chơi gì mà kỳ cục vậy! Thò đầu vươn cổ cho người ta chém. Phải thằng lanh tay thì cụt đầu mất mạng chứ giỡn chơi à.


- Thằng đó cổ nó dài, đầu nó rụt ra, vô lỗ hổng nhanh nhẹn hơn cổ rùa. Nó rụt đầu, rụt cổ chuyên nghiệp ai mà chém trúng đặng.


Một đại hán đen thui đứng trong đám đông nghe nói vậy, nổi ngứa tay đao và lòng hiếu thắng, gạt mọi người đứng trước lấy lối chen vô, rút trong lưng ra một đoản đao sáng loáng, dằn giọng nói rằng :


- Ta nghi lắm. Ở đời ham tiền có nhiều kẻ ham ghê lắm! Nhưng thò cổ cho thiên hạ chém thì ta mới gặp có anh là một. Ta nói cho anh biết, ta đã từng làm “đồ tể” nhiều năm ở lò giết heo. Anh thách đố mọi người chặt cổ anh, chắc chắn anh bịp bợm gì đây? Anh đã lót miếng sắt hay bùa chú, gồng ngải gì để kẻ khác yếu tay chém trúng chỉ bị đau hay không đứt da thịt. Còn nếu chậm tay anh ăn tiền một cách ngon lành, phải không?


Người cao gầy trèo lên chiếc ghế, giơ hai tay xoay người một vòng tròn rồi nói :


- Anh nói ngu bỏ mẹ! Tôi không bận áo, cởi trần vậy lót miếng sắt chỗ nào? Còn có bùa ngải gồng thép gì không thì anh cứ bỏ mười tiền ra, chặt chơi một nhát thì biết. Xáp vô mần không thì đi chỗ khác cho người anh em sinh sống chứ. Đừng đứng đó nói nhảm, ếm hoài nè!


Đại hán tay đã trót rút đoản đao cầm tay, không muốn bị mất thể diện đành chịu móc hầu bao lấy tiền ra đặt trên bàn nhỏ và nói :
- Được rồi! Mười tiền đây! Anh thò cổ ra cho tôi “phập” chơi một nhát.
Người cao gầy đợi chờ thủ hạ nhận tiền xong mới định quy tắc rằng :


- Xin mời huynh đài lui sang tả ba bước nếu thuận chém tay hữu và lùi qua bên hữu ba bước nếu thuận chém tay tả. Huynh đài nhớ kỹ “em thò cổ ra” nhưng huynh đài phải chờ cho đủ ba hồi chiêng trống “tùng bi li” mới được tự do khai đao. Sai lệ phải thường mạng cho tôi đấy!
Đại hán đen thui sốt ruột :


- Biết rồi! Khổ lắm nheo nhéo mãi! Thò cổ ra đi, đánh đủ ba hồi chiêng trống và xem tay thần tốc của ta tống tiễn ngươi về âm phủ! Một nhát đao đua bỏ mẹ đời!


Người cao gầy thò đầu ra khỏi lỗ khoét giữa tấm phên sắt. Hắn đảo mắt nhìn mọi người, nhe răng đầy bựa vàng, cười một cách vô cùng khả ố, nham nhở như khơi tức anh đao phủ tập sự.
- Tùng bi li! Tùng bi li!
Ba hồi chiêng trống vừa dứt, đại hán vung đao hét lớn :
- “Trảm”!


Và dang hai tay hết sức bình sinh chém lưỡi đao xuống. Người cao gầy chờ cho lưỡi đao chỉ cách độ nữa gang tay, y mới ha hả cười lớn thụt đầu vô lỗ hổng làm đại hán nọ chém hụt mất thăng bằng, suýt nữa té nhào về phía trước.


Trò đao phủ chém đầu người thực diễn ra một cách hài hước thành trò chém đầu rùa, lưỡi đao chỉ kêu vụt trong không khí!


Tiếng vỗ tay la hò vang dậy, thiên hạ kéo đến vòng trong vòng ngoài đen kịt. Đám thủ hạ tức thời lấy trong sọt mây ra mấy cái thủ cấp còn dính tóc, da thịt máu me đã khô teo giơ về phía đám đông cho mọi người kinh sợ dãn rộng ra.
Nhiều tiếng nói bình phẩm từ đám đông nhao nhao :


- Thằng cha rụt đầu có nghệ thuật! Khó chém trúng lắm!
- Bỏ ra mười tiền tưởng dễ ăn. Không ngờ như vứt qua cửa sổ!
Đại hán đen thui lúc đó hơi men đã bốc lên mặt biến thành màu tro, quyết lấy được đầu người cao nọ mới nghe. Hắn có bao nhiêu tiền dốc hết để đạt mục đích trảm thủ.


Tùng bi li! Tùng bi li!
Giây phút nghẹt thở lại tái diễn, rồi diễn đi diễn lại gần chục lần. Nhưng đều tiếp theo bằng những câu chế giễu và vỗ tay la ó vang trời.


- Hụt! Lại “hụt” nữa mà xem! Úi chao! Tôi tưởng cái đầu rụng rồi! Không! Không! Thằng cha trêu cợt bỏ rớt lại mớ tóc giả. Có như thế, trò chơi suýt soát cụt đầu mới thêm rùng rợn, hồi hộp!
- Cổ hắn vươn dài như cổ ngỗng thế kia mà không chém đặng, nghĩ cũng kỳ!


Người nọ thách đố người kia. Kẻ nào ở giữa đám đông mà lại không đeo một lô tự ái, hiếu thắng trong người. Phải ra tay chặt cụt cái đầu ngạo nghễ, khinh mạn mọi người mới được.
Người này tuốt kiếm vô chém một nhát.


Kẻ khác rút đao, chém dăm bảy nhát. Kết cục người cao nọ thu được vô số là tiền, không nhọc nhằn chi cả.
Trong đám đông, bỗng có người bình phẩm :
- Xem cái nghề này kiếm ăn khấm khá. Chỉ cần cái cổ cò hương chun ra chun vô đúng điệu là chụp tiền thiên hạ ngon lành hơn là nghề móc túi!


Nghe nói vậy, người cao gầy trừng mắt nhìn kẻ đã xướng lời nhục mạ đó :


- Dễ dàng ư? Anh có tài giỏi thì thử thay thế ta thò cổ cho kẻ khác chém mới biết, “mười tiền” bỏ ra mua lấy nhát chém, không đáng chút nào! Ta bằng lòng bỏ ra “mười lạng vàng”, anh có dám chịu vươn cổ cho ta khai đao chăng?


Người phát ngôn lúc nãy đành chịu nín khe, nhất là khi thấy anh chàng cao gầy lôi ra từ hậu trường một thanh phạng to bản lưỡi mài sáng loáng chém đến phập một cái lên mặt bàn sâu nửa tấc.


- Chém người thì dễ, để cho người chém lại mới là khó! Mười tiền có là bao mà tiếc! Nhào vô chém đi, chém đi cho hết nỗi bực dọc trong người!


Cao Kỳ Nhất Phương liếc mắt nhìn xem Đan Tâm phản ứng ra sao? Quả nhiên thấy năm đầu ngón tay anh chàng cựu đao phủ thứ thiệt ngoại hạng nhà nghề cứ co ra duỗi vào, hình như tân hòa thượng nén tâm lắm mới chưa xuất đầu lộ diện.


Để biểu diễn cho mọi người khỏi phải chờ đợi tản mác, người cao gầy truyền thủ hạ lấy thân cây chuối đút qua lỗ hổng, thò ra ngoài giả dạng làm đầu người cho hắn khai đao.


Chiêng trống khua lên ba hồi. Hắn múa bài “tống tử” trước rồi khai đao sau, rất ngoạn mục, mũi phạng loang loáng xoay tít quanh người hắn tỏ ra hắn là một cao thủ có nghệ rất vững chắc.
Trống chiêng vừa dứt, chỉ nghe thấy tiếng soẹt là cây chuối đã bị tiện đứt khúc rớt xuống đất kêu “bụp”.


Thực ra là gãi đúng chỗ ngứa. Đan Tâm từ nãy đứng khựng, bây giờ không thể dằn lòng được, từ từ trong đám đông bước ra.
Người cao gầy thấy Đan Tâm thì giương mắt ngắm nghía từ đầu tới chân, kế đó hắn lắc đầu khua tay từ chối :


- Ai muốn chơi trò chơi trảm thủ này thì được chứ nhà thầy không thể chơi được.
Đan Tâm ngạc nhiên hỏi :
- Tại sao vậy? Ta có đủ tiền đây mà hoặc giả cần phải đặt thêm tiền cọc cũng được, nhưng trước khi nhập cuộc ta có lời khuyên.
Người cao gầy nhăn mặt bịt mũi nói :


- Với các ngài đầu trọc, mở miệng là nói ra lời khuyên... không ngửi đặng! Nè thằng này xin nói thẳng, lời thẳng thì hay mất lòng. Kẻ hạ tiện tuy hằng ngày đem thủ cấp ra làm trò chơi cho thiên hạ để thu nhận chút tiền còm mưu sinh song đêm nằm nghĩ đến lúc lưỡi sắc soèn soẹt xém trúng đầu cổ thì ớn lạnh rụng cả lông tóc! Nhưng nhà thầy thử nghĩ mà xem, đó là “ông trao của này bà trao của nọ”, cũng như bánh đúc đổ ra sàn, thuận chàng chàng bán, thuận nàng thì nàng mua. Kẻ chém và kẻ chịu chém, mỗi bên có một khoái cảm, không chút chi là đạo đức thật hay giả cả. Có điều chi bất lương thiện đâu? Các thầy đã là người tu hành mà còn xuất diện ra chỗ đám đông, khoái thú chém người, chém không đặng làm ra vẻ khuyên răn là không đáng khen chút nào! Biết bao nhiêu kẻ cụt đầu hay bị thương vong cần được các thầy đến thắp cho một nén nhang, độ cho một bài cầu siêu, khó lắm! Đối với mạt sinh nhà thầy không phải khuyên răn gì cả. Không ai khuyên được mạt sinh bỏ được cái nghiệp này. Nhà thầy muốn thử tay đao thì cứ thử nhưng không thể chơi lối đặt tiền, mà phải nhận lối đánh cuộc là hễ chém mạt đệ “hụt” thì đến lượt nhà thầy thò cổ cho mạt đệ thử lưỡi sắc chơi, chịu không?


Đan Tâm tức giận nổi quạu :
- Chịu! Ta khai đao trước hay người khai đao trước?


- Tiên chủ hậu khách là lẽ dĩ nhiên. Tôi thò đầu cho đại đức chém trước. Ngài chém trúng thì... kẻ hạ tiện này được phổ độ siêu thăng, còn nếu ngài ngượng tay chém trật thì... đến lượt mạt sinh đưa người đi chuyến tốc hành về Tây Trúc.


Hắn gọi thủ hạ vứt bỏ cây chuối rồi đi ra phía sau dàn phèn để thi hành cuộc đánh đố. Chiêng trống nổi lên ba hồi, mọi người thấy Đan Tâm chỉ đặt tay lên chuôi kiếm chưa buồn rút ra ngoài bao.


Sau tiếng “tùng”, tiếng “li bi” vừa dứt, người cao gầy đảo mắt không thấy Đan Tâm động chân nhún gót, không thấy Đan Tâm giơ tay tuốt kiếm hắn định thụt vô thì thấy có vật cứng chẹn ngang dưới hầu lạnh buốt, mùi máu tanh nồng nặc của thanh Mộc kiếm đã nhúng vào trăm nghìn thủ cấp đầy máu huyết phun có vòi, xông lên làm hắn xây xẩm mặt mày.


Hắn kêu to một tiếng :
- Ối chao!
Tiếng kêu làm đám đông im lặng vì khủng khiếp, nhưng không thấy chiếc đầu rơi xuống mặt đất. Cao Kỳ tưởng Đan Tâm chém lối “lật ngành”, từ dưới đưa lên da gáy còn dính liền vào thân xác...


Nhưng không, sống kiếm chỉ chẹn không cho người cao gầy thụt đầu vô, đầu tóc mọc vàng hoe còn mắt ở phía ngoài. Hòa thượng đã ra tay lẹ hơn phép quỷ thuật.
Chỉ cần xoay ngược mũi kiếm và hất mạnh lên là người cao gầy nhất định sẽ biến thành con ma cụt đầu phần chắc.


- Bây giờ ta có lời khuyên anh có bằng lòng nghe không?
Tên cao gầy hai mắt trắng dã như lợn luộc, kinh hãi nhìn lưỡi Mộc kiếm, hai hàm răng run bần bật ú ớ :
- Kính lạy Thất Sát tinh chủ, con... con biết... tội lắm rồi? Con có ngờ đâu Ngài... ha giá... giáng lâm?
Đan Tâm nhắc nhở :


- Từ nay, anh nên vĩnh viễn rời bỏ mạt nghệ này. Tìm cách khác kiếm ăn còn hơn! Có cần ta đánh dấu một cái sẹo ở cổ để khi nào ngửa cổ, cần nhớ đến chăng? Ta không thích anh dạy thiên hạ nghề chặt đầu người nghe không?


- Bạch sư phụ! Con xin sư phụ tha cho lần này là lần đầu và cũng là lần chót! Nhưng tại sao Thất sát chủ lại phải hóa trang thành hòa thượng đánh lừa con để làm gì?
- Ta muốn cải hóa làm sư thì mặc kệ ta. Ta đánh lừa mi không ích gì.


Đan Tâm thâu kiếm cho vào bao, người cao gầy đứng dậy chạy ra phía trước quỳ tạ ơn tha mạng.
- Tại sao mi nhận biết ta là Lãnh Diện Băng Tâm đứng đầu Thất sát?


- Thanh Mộc kiếm của ngài vang danh bốn bể, ai mà không biết? Trước đây có người anh em đồng đạo căn dặn con, là nghề này kiếm ăn được nhưng phải coi chừng người cầm kiếm gỗ, kiếm gỗ “kỵ” với cổ con lắm! Ngày hôm nay lần đầu tiên cổ con luyện tập đã lâu năm mới gặp vật úy kỵ. Nhưng thưa sư phụ cho phép con hỏi một điều.


- Được! Muốn hỏi ta điều chi?
- Không lẽ hiện nay ở Châu Hòa trấn có hai Thất Sát tinh chủ?
- Mi nói vậy là nghĩa làm sao?
- Nghĩa là có hai ông Lãnh Diện Băng Tâm, hai ông sử dụng Mộc kiếm cầm đầu hai Thất Sát đoàn? Không biết vị nào thiệt vị nào giả?
- Mi đã gặp người mạo danh ta?


- Không phải một mình con thấy vậy. Luôn mấy ngày liền việc hơn chục võ lâm cao thủ bị thiệt mạng vì tay kiếm số một Lãnh Diện Băng Tâm đồn đãi ai cũng biết. Ngày nào chả có hàng ngàn người tới mục kích các cuộc đấu võ ghê hồn trên sợi dây xích sắt chăng ngang qua vực sâu cắm đầy thác đao bên dưới!


- Mi nhắc lại câu mi vừa nói cho ta nghe! Có hai Lãnh Diện Băng Tâm ở Châu Hòa trấn phải không?


- Vâng! Nếu sư phụ không phải là ông mặt lạnh như tiền sử dụng kiếm gỗ thì là ông trên Thiết Xích kiều đương thách đố mọi người đấu kiếm, và nếu ông ấy là Lãnh Diện Băng Tâm thì sư phụ là người khác. Có điều thiên hạ bây giờ sính dùng kiếm gỗ là một sự lạ mà thôi. Nhưng con ngửi kiếm của sư phụ thì có lẽ thanh Mộc kiếm của sư phụ mới đúng là thứ thiệt và kiếm của người trên Xích Kiều là thứ giả mất.


Đan Tâm móc túi lấy lạng bạc quẳng cho y và quay ra tìm hỏi Văn Tú Tài đường lên Thiết Xích kiều.
Cao tú sĩ vỗ tay Đan Tâm nói :


- Đan đệ có vẻ giật gân tay, muốn uýnh lộn một phen cho giãn gân cốt và bắp thịt phải không? Thay vì lên Xích Kiều, ta nên hỏi thăm ông võ sư nào đó, quần thảo vài tua cho hả hơi cho xong chuyện.
Văn Tú Tài nghe chuyện lấy làm ngạc nhiên hỏi ông già lùn :


- Mấy hôm nay ta đi vắng, ở trên Xích Kiều có xảy ra đấu kiếm thiệt sao? Thất Sát Tinh, gã đó nói là ai vậy?
Nụy Cước cũng có vẻ lạ lùng, không biết trả lời sao? Hắn quay lại tìm viên quản lý thì không thấy tên ma đầu đâu nữa. Một tiếng cọp rống từ đằng xa vang dậy, làm rung chuyển cả mặt đất.


Đan Tâm liền hỏi :
- Ở nơi này có lắm trò lạ! Chắc họ bầy hoạt cảnh thách đố mọi người dùng tay không đả hổ như Võ Tòng ở đồi Cảnh Dương nên mang cả chuồng cọp ra đây phải không?
Nhiều người ôm đầu xô lấn nhau chạy tứ tán :
- Cọp sút chuồng! Chạy mau không nó vồ hết ngáp!


Bọn Cao Kỳ không chút sợ hãi, tiến về phía xảy ra chuyện lạ. Đan Tâm ngoảnh lại thấy cậu nhỏ Trương Bỉnh Nhi mạnh dạn kéo ông chú già đi sát bên mình như tin cậy bản lãnh hắn ta để mong nhờ che chở.
Vị sư trẻ tuổi trấn an :
- Thằng nhỏ không có chi phải sợ hãi! Đi sát cận ta, ta bảo vệ cho.


Lúc tới chỗ phát sinh ra tiếng cọp rống thì không thấy thú dữ đâu cả. Vi Thụ do bản tính tự nhiên lắp tên vào dây cung, nháo nhác tìm dã thú để buông tên, nhưng chỉ thấy một người cao lớn tay vòng thừng cột vô cổ một con cọp rằn chạy biến về phía tây.


Trên mặt đất chỉ còn ba xác nạn nhân bị cọp vồ cấu nát đầu máu pha lẫn chất óc nhầy nhụa, lênh láng. Cả ba xác ch.ết đều bận võ phục của vị võ sư nơi đây.


Bọn Văn Tú Tài hỏi nguyên do thì người đi xem kể lại cho biết rằng mấy người võ sĩ kia hôm trước có xúc phạm đến một người tên là Lão Hổ trong đoàn Thất Dát. Bữa nay, Lão Hổ thả cọp cho thú dữ cấu xé mấy môn sinh hỗn láo nọ.


Từ lúc xảy ra vụ cọp sút chuồng, vồ ch.ết người giữa đám đông, nhiều người đi xem rủ nhau bỏ hội trở về vì không muốn bị vạ lây. Còn những toán võ sinh tụ tập nai nịt binh khí, bàn tán tỏ vẻ bất bình với nhóm sát nhân, giết thuê đánh mướn.


Thử tài thi sức giữa người và người một chọi một là luật lệ tại đây. Mang thú dữ ra sát hại một lúc ba mạng là phá quy tắc đấu võ nơi đây.
- Chúng ta không nên tự tiện hành động, nên tìm bái yết võ sư rồi thỉnh thị ý kiến của người. Chừng đó chúng ta trả thù cũng chưa muộn.


- Thất sát, cửu sát, hay thập sát gì cũng thây kệ! Đã võ đoán thì chúng ta cũng võ đoán.
- Nhưng con cọp đó lớn và dữ lắm! Nếu thằng cha lão hổ nó không tròng cổ thú dữ lại thì có lẽ tụi mình tiêu hết!
- Bốn vị Tôn giả đâu không cho tụi Tam lão một bài học?


- Có bốn Tôn giả thì lại ngoẻo trên Xích Kiều mất ba rồi?
- Sao lại có chuyện thế được?


- Trời anh không đi xem bữa đó không rõ, con mụ áo đỏ múa kiếm số dách. Còn thằng cầm kiếm chẳng biết bằng thiết cang hay gỗ sơn đen gì đó tự xưng là Lãnh Diện Băng Tâm nhảy nhót trên dây xích cũng khá lắm! Chỉ thương hại cho các vị tôn giả Châu Hòa trấn, võ dũng là thế, tài ba kinh nghiệm là thế, ai ngờ bị đánh ngã phơi xác trên bãi thác đao rất là thảm khốc.


- Vị Tôn giả còn sống sót là ai?
- Vị ải chủ Lỗ Ban chú ai nữa. Ông ta khôn ngoan lượng sức biết khó một mình địch bảy, ông ta cố tình lẩn tránh cả tuần nay rồi.
- Vậy vị võ sư nổi tiếng ở Trấn này biến đi đâu để bọn Thất sát ở đâu tới lộng hành như vậy?


- Cửa đạo quan đóng im ỉm. Có cặp vợ chồng già tự xưng là Hắc Hồ song quái đến đập cửa ầm ầm, đòi gặp mặt để hỏi chuyện mà chỉ thấy viên thủ hộ chạy ra năn nỉ liên hồi, khất lần hết ngày qua bữa khác, chẳng hiểu sự tình sẽ biến đổi thế nào?


Tới đây Thiết Như Hoa bàn với Văn Tú Tài quay trở lại quán xá, lấy ngựa đi thẳng tới đạo quan mong biết rõ đầu đuôi câu chuyện.


Lát sau bọn Văn Tú Tài đều bỏ kiệu lên ngựa, ra khỏi thao trường tiến về phía cuối thị trấn. Hai chú cháu cậu nhỏ họ Trương cũng được bọn tùy tùng cho cưỡi ngựa đi chung cùng.


Đạo quan được xây ở lưng chừng đồi, bốn phía có tường hoa bao bọc. Cổng lớn đã bị sụp đổ. Hai con nghê bằng đá xanh xây hai bên cửa bị tan vụng thành từng miểng nhỏ. Tấm biển “Đệ Nhất Võ Môn” bị cháy nám đen. Cao tú sĩ đọc hai vế câu đối nằm ngổn ngang trên mặt đất, lấm bê bết đất cát :


“Bắc chưởng đánh ra mờ nhật nguyệt”
“Nam cước tung hoành phẳng núi sông”
Chàng bất giác lẩm bẩm một mình :
- Xem khẩu khí văn tự kiểu này thì chủ nhân là một nhân vật thuộc Giang Nam kiếm phái đây.


Văn Tú Tài hai tay chắp sau lưng đi đi lại lại ra chiều nghĩ ngợi, nghe vậy lấy đầu quạt gõ vào vai chàng thiếu hiệp bảo rằng :


- Nhận xét trúng đấy! Vị võ sư Châu Hòa trấn là một vị cao nhân thuộc kiếm phái miền Nam đứng dưới hàng Song Trâm hiệp nữ một bậc. Tính nết ông ta kỳ quái cũng như anh nên xảy ra lắm chuyện bực mình.
Cao Kỳ giật nẩy mình hỏi vặn :


- Tôi có chi mà quý huynh bảo tính nết tôi kỳ quái? Tôi giống chủ nhân võ sư môn ở điểm nào mà nói vậy?
Văn Tú Tài nhìn xuống phía chân đồi xa lửng lơ nói :
- Giống ở chỗ yêu ai chỉ yêu có một lần, bị thất tình rồi cứ đâm ra cù lần hoài.


- Tôi mà cù lần? Cù lần ở chỗ nào? Sao quý huynh tự nhiên lại móc họng tôi vậy?
- Vị võ sư Châu Hòa trấn tuy là sư đệ nhưng đã yêu bà Song Trâm một mối tình say đắm, say đắm hơn...
- Hơn ai?


- Hơn Cao huynh với nàng Thiếu Cơ! Anh yêu Thiếu Cơ mới được hơn ba năm, nhưng chắc chắn chỉ vài năm nữa là quên tít, đằng này ông võ sư yêu bà Song Trâm đã hơn hai mươi năm, vậy mà vẫn thủy chung hơn ai hết. Bà Song Trâm đã lấy chồng, đã có cô con gái lớn mà anh chàng si tình vẫn theo đuổi hoài. Bà Song Trâm giận chồng vô đạo, mang bệnh ở lỳ nơi đây. Ông võ sư kỳ quái cũng đến đóng đô ở đây để canh chừng bà với mộng tưởng là... có ngày ngỏ tâm tình, đổi duyên sư tỷ đệ đồng môn thành duyên sư phu, sư phụ đồng tịch đồng sàng.


Cao tú sĩ nghe Văn Tú Tài nói vậy thì tỏ vẻ phản đối :


- Việc ông võ sư nào đó với bà Song Trâm, sư huynh sư đệ tỏ tình với nhau là một chuyện. Hai người yêu nhau mặn nhạt, thắm thiết hay không thắm thiết thì là chuyện của hai người đó, tại sao Văn huynh cứ vặn vào cá nhân đệ? Đáy tim đệ nghĩ thế nào, ghi nhớ hình ảnh của ai, lâu hay chóng trong bao nhiêu năm có liên hệ gì đến Văn huynh đâu mà Văn huynh cứ mỗi lần nói chuyện người ta, lại lôi tiểu đệ ra làm chuẩn?


Văn Tú Tài thản nhiên đáp :
- Cao huynh nóng tính làm vậy? Anh chàng thất tình nào mà chẳng lố bịch. Trêu rỡn Cao huynh để xem huynh có lố bịch không? Bây giờ chúng ta cùng nhau nhập đạo quan xem cái nhà ông sinh tình võ sư ở trấn Châu Hòa đã lố bịch đến mức độ nào?


Tiến tới cánh cổng gỗ lớn, dầy có khoen đồng đóng kín mít. Văn Tú Tài gõ đúng năm tiếng, chờ lâu không thấy động tĩnh gì lại gõ năm tiếng nữa. Nhưng lần này gõ mạnh hơn.


Ở trong có tiếng động nhấc then ngang và mở ổ khóa, mọi người thấy Lỗ Ban tôn giả vẻ mặt không uy nghi như lúc mới gặp tại ải địa đầu bên kia sống.
Thấy Văn Tú Tài, Thần Hành Nụy Cước và đám đông hiệp sĩ khác đứng quanh thì tôn giả chắp tay vái chào như thường lệ.


Trông vào phía trong đạo quan, không thắp đèn nến chi cả, tối om.
Văn Tú Tài cất tiếng hỏi :
- “Cung Đình” sư phụ của các ngươi đâu mà để cho bọn Thất sát đến lộng hành giết hai ba vị Tôn giả và các môn sinh mà không ngăn cản bọn giết mướn đó?
Lỗ Ban tôn giả buồn bã đáp :


- Hỏng to rồi! Biệt hiệu Võ Sư Môn từ này tiêu tan mất! Tiểu thần đã nói trước là những kẻ có trái tim sắt đá nhất thì trong trái tim đó lại có những hang hốc để bầy “sên ốc” mềm yếu làm tổ trú ngụ nhiều. Vị Võ sư Châu Hòa trấn trước kia sắt đá bao nhiêu, bây giờ thì lại quá mềm yếu bấy nhiêu! Hỏng hết cả rồi! Bậc tôn sư đó đã đem hết sự nghiệp đời mình suy tàn trong một liều thuốc?


- Tôn giả nói vậy là ý nghĩa làm sao?


- Cung Đình tôn sư muốn “cải lão hoàn đồng” muốn mình trẻ mãi mãi đã dụng máu huyết con nít làm trẻ lại. Tôn sư chế được đúng hai viên thuốc hoàn. Một mình uống và một sẽ kính dâng bà Song Trâm nữ hiệp. Tôn sư muốn tóc bạc trên đầu bà sẽ đen láy lại, được ngắm dung nhan xinh đẹp của bà như khi xưa còn ở trên núi Hồng lĩnh miền Giang Hạ. Dược hoàn không những làm mái tóc đen lại, da dẻ cũng sẽ trở nên mịn màng, bao nhiêu nét nhăn nheo sẽ biến đi mất.


Thiết Như Hoa tiểu thư nói :
- Như vậy thì việc chế luyện “dược hoàn” đã thành công, quý báu lắm! Thân mẫu ta được một viên để dung thì tốt lắm có điều chi mà Tôn giả phải thất vọng?
Nàng Chi Mai nghe nói cũng hí hửng :


- Uống thuốc mà trẻ đẹp lại thì thích quá vậy? Không biết làm bằng chất lá gì? Người ta bảo dung Hà thủ Ô tóc sẽ đen lại, không biết có đúng như thế chăng?
Lỗ Ban tôn giả trông trước trong sau, vẻ thiểu não hiện rõ trên nét mặt mệt nhọc, bơ phờ :


- Đúng như vậy! Nhưng một người “trẻ đẹp lại” thì lại làm ch.ết cả bầy người con nít thì quý báu nỗi gì? Như thế vẫn chưa đủ, việc luyện thuốc không giữ đặng bí mật, bây giờ một số người già xấu xí đến đòi viên thuốc dã chế hóa được. Trong số các mụ già làm “đỏm” có hai tay bản lĩnh phi thường là mụ già Câu Hồn giáo chủ và mụ già vợ lão ông Hắc Hồ song quái. Hai mụ này thường kéo theo bầy Thất sát đến gây chuyện khó dễ, lấy số đông để áp lực tôn sư phải tiếp tục chế luyện loại thuốc quái gỡ đó cho bọn họ xài. Tất cả các sự khó khăn hiện nay đều đổ lên đầu lên cổ tiểu thần, “quả bất địch” chúng làm sao mà một mình đương cự nổi bầy lang sói. Cũng may là chúng mới khiêu chiến sơ sơ chứ nếu mà bọn chúng biết rõ tất cả sợ bí mật trong đạo quan thì có lẽ bọn chúng còn lộng hành dữ dội thập phần hơn nữa!...


Thiết Như Hoa tiểu thư giật mình kinh sợ hỏi :
- Trời, con mụ già mũi mỏ quạ Câu Hồn giáo chủ cũng đã tìm đến đây cơ à? Con mụ phù thủy quỷ quái ấy đến đây từ hồi nào?


- Mụ nghe nói chỉ còn có một viên “thuốc hoàn”, sợ mụ vợ lão Hắc Hồ song quái đoạt trước mất nên đã thân hành tới đây. Mụ đập của không thấy ai ra tiếp đón nên cứ đả chưởng phá phách la lối để Cung Đình tôn sư phải ra giáp mặt. Đạo quan vẫn đóng cửa im ỉm. Vì còn nể hai thanh “kiếm bạc” của Tôn sư nên mụ phải quay về không biết còn trở lại hay không? Còn tại Thiết Xích kiều, chẳng biết từ mấy bữa nay có tên trẻ tuổi mặt trắng tự xưng là Lãnh Diện Băng Tâm thách đố các vị Tôn giả lên cầu “xích sắt” đấu kiếm, hắn và con mụ áo đỏ thay nhau tiếp chiến đã “thịt” mất ba người bạn của tiểu thần. Tiểu thần phải bỏ công việc ở trạm kiểm soát để về trấn thủ đạo quan, hộ vệ cho Tôn sư đương ở trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh.


Nói rồi Lỗ Ban tôn giả mời mọi người vô trong đạo quan. Cánh cửa lớn khép lại, cài then đóng khóa kỹ càng. Cao tú sĩ dụng nhãn lực thấy đạo quan xây tường đá rất kiên cố, bốn bề kín như hũ bưng không một chút ánh sáng bên ngoài lọt vào, ở giữa có một tượng đồng tạc một vị đạo sư đương ngồi ở tư thế tịnh thiền, trong một văn phòng lớn rộng không bày biện vật gì khác.


Lỗ Ban tôn giả ấn nút ở một chỗ bí mật, cơ quan phát động khiến cho pho tượng khổng lồ xê dịch và để hở một lối xuống hầm dưới, miệng hầm đã treo sẵn ngọn đèn lưu li để chiếu sáng cho mọi người biết đường xuống các bậc thang địa đạo.


Bọn Cao tú sĩ và Đan Tâm vững dạ theo Văn Tú Tài và Thiết Như Hoa đi sâu xuống địa đạo. Đường lối ở ngầm dưới đất rất lắt léo, chắc chắn là có cơ quan bí mật bố trí để sát hại những kẻ mạo hiểm muốn tìm đường vô địa huyệt.


Đến một căn phòng đèn nến sang trưng, hai bên cửa sổ có hai võ sĩ cầm đao đứng canh gác rất nghiêm cẩn.
Lỗ Ban tôn giả trịnh trọng tuyên ngôn :
- Văn Thánh công tử và Thiết tiểu thư cùng các đại hiệp vô thăm Tôn sư.


Một cậu nhỏ trạc chừng mười ba, mười bốn tuổi bận áo màu lam, ở thắt lưng đeo hai thanh kiếm bằng bạc nhỏ xíu dài chưa được gang tay ngây ngô như một tên tiểu đồng vừa bị ăn đòn ở trường học về, ngồi trên một cỗ “Cửu long ỷ” đúc bằng vàng khối.


Tên nhỏ đó là... vị “võ sư” danh tiếng ở Châu Hòa trấn...






Truyện liên quan