Chương 7: Hơi ấm trên đỉnh cao nguyên
Từ ngày còn đi học, Tây Tạng trong lòng Nghiêm Chân đã tựa như một giấc mơ khó nói thành lời. Cô mơ tưởng sẽ có một ngày mình lội nước vượt qua dòng sông thánh Yarlung Tsangpo(1), bước chân trên đỉnh núi tuyết, ở nơi cao nguyên cách mực nước biển hơn bốn ngàn mét, đắm chìm giữa ánh nắng mặt trời dường như có thể bắt lấy trong lòng bàn tay. Giờ đây cuối cùng ước ao ấy đã thành hiện thực.
(1) Sông Yarlung Tsangpo Trung Quốc dài 2906km, bắt nguồn từ các bình nguyên băng Jima Yangzong gần núi Kailash phía bắc dãy Himalaya, chảy về phía đống khoảng 1.700km, ở độ cao trung bình 4.000m so với mực nước biển, là con sông lớn cao nhất thế giới.
Sáng sớm, trong chớp mắt khi thấy tấm rèm cửa sổ được vén ra, ánh nắng chan hòa chầm chậm chiếu vào. Tia nắng mặt trời bị khúc xạ qua những bông hoa tuyết trông sáng rực lạ thường, Nghiêm Chân chỉ nhìn một thoáng đã thấy mắt đau nhói. Bỗng một bàn tay từ phía sau đưa tới, hạ tấm rèm xuống. Nghiêm Chân ôm mắt xoay người lại, qua kẽ ngón tay nhìn thấy gương mặt trầm tĩnh của Cố Hoài Việt.
“Dậy rồi à?”
“Vâng.” Cô bỏ tay xuống, nét mặt ngượng ngùng, “Em vừa dậy.”
Anh cũng hiếm khi thấy cô trong bộ dạng mơ mơ màng màng như vậy, ánh mắt khẽ xao động, nói: “Thế đi đánh răng rửa mặt đi, anh ra mua đồ ăn sáng.”
Nghiêm Chân lẳng lặng đáp lại, cầm túi đồ trang điểm chạy thẳng vào phòng vệ sinh. Nhìn bóng lưng luống cuống của cô, Cố Hoài Việt điềm nhiên mỉm cười.
Tàu hỏa xuất phát từ thành phố C, dọc theo tuyến đường sắt đã đi được một ngày hai đêm. Cũng tức là, chuyến hành trình gần bốn mươi tám tiếng đã qua hơn một nửa. Cố Hoài Việt lại kéo rèm ra, nhìn ánh mặt trời buổi sớm mai, cất tiếng chào không lời với vùng đất xa cách đã lâu này.
Tây Tạng, tôi đến rồi đây!
Vì Nghiêm Chân đã đồng ý đi theo, nên bà Cố cũng không phản đối Cố Hoài Việt đi Tây Tạng nữa. Kỳ thực trong lòng bà cụ vẫn hơi mâu thuẫn, bởi bà không bằng lòng để hai người đi tới nơi lạnh lẽo xa xôi như thế, nhưng vừa nghĩ đến chuyện Nghiêm Chân sẽ đi cùng Hoài Việt lại cảm thấy đây chính là cơ hội hiếm hoi của hai người. Nghĩ ngược nghĩ xuôi, bà cụ vẫn chịu thỏa hiệp.
Cân nhắc tới việc đây là lần đầu Nghiêm Chân tới Tây Tạng, nên họ vẫn quyết định đi tàu hỏa. Những đoàn tàu của tuyến đường này đều được thiết kế đặc biệt, chất lượng phần cứng và phần mềm tuyệt đối không cần bàn cãi. Cố Hoài Việt mua mấy món đơn giản ở nhà ăn, khi trở về chỗ ngồi Nghiêm Chân đã rửa mặt xong xuôi, đang trông ra phong cảnh phía xa xa, suốt dọc đường đi, cô đã được ngắm rất nhiều cảnh đẹp. Dãy Côn Lôn được che phủ trong tầng tầng tuyết trắng tỏa ra thứ ánh sáng óng ả dưới ánh nắng mặt trời, cả bầy linh dương Tây Tạng thoắt ẩn thoắt hiện nơi dãy Khả Khả Tây Lý không một bóng người, còn cả loài bò Yak(2) trong truyền thuyết nữa. Cô ngắm nhìn hết thảy với ánh mắt si mê. Cố Hoài Việt cũng nhận ra mình đã chăm chú nhìn cô quá lâu, anh hắng giọng, đưa đồ ăn sáng trong tay tới. Nghiêm Chân phút chốc hoàn hồn lại, nhìn anh, cười bối rối.
(2) Loài bò lông dài sống ở khu vực Himalaya miền nam Trung Á.
“Mắt còn đau không?” Anh khẽ hỏi.
Nghiêm Chân lắc đầu: “Hết đau rồi.” Cô nhận lấy điểm tâm sáng, tiện miệng hỏi: “Đồng đội của anh vẫn ở Tây Tạng ạ?”
“Vẫn.” Cố Hoài Việt khẽ đáp, trầm ngâm một lúc rồi mỉm cười, “Anh ấy yêu thích nơi đó hơn bất kì ai.”
Đến chính các anh còn không biết mình là lứa tân binh thứ mấy được đưa đến Tây Tạng. Năm này qua năm khác vẫn bảo vệ quân doanh cũ kĩ, thích ứng được hai, ba ngày rồi vẫn nhức đầu chóang váng vì phản ứng cao nguyên, ban đêm nằm ngủ trong chăn đệm ẩm ướt, gió ngoài cửa sổ lùa vào rét thấu xương, tất cả đều trở thành cơn ác mộng của họ. Nhưng cho dù là vậy thì vẫn luôn có những ngoại lệ, Cố Hoài Việt thấy mình may mắn vì gặp được một người, người đó chính là Đại đội trưởng đầu tiên của anh. Đại đội trưởng sinh ra ở miền Nam sương mù bao phủ, chất giọng địa phương đặc sệt vùng Nam Bộ khiến cho đám tân binh miền Bắc các anh rất khó làm quen. Nhưng chính người Đại đội trưởng với giọng miền Nam này đã rèn ra được một lứa tinh binh. Cố Hoài Việt kể: “Đại đội trưởng nói, ở quê anh ấy lúc nào cũng sương mù dày dặc, cả ngày không thấy được mặt trời. Anh ấy trong lúc bốc đồng liền bỏ lên Tây Tạng đi lính, rồi quyết định không quay về nữa.” Đám sinh viên trường Quân sự vừa tới đơn vị còn chưa hết ngây thơ các anh, đều bị câu chuyện của Đại đội trưởng chọc cười. Nghiêm Chân cũng cười, cô có thể cảm nhận được, theo chuyển động đều đều của bánh xe tàu hỏa, nơi thiên đường thần bí ấy đang vẫy tay chào cô.
Chập tối, tàu đến thủ phủ Lhasa(3).
(3) Là thủ đô truyền thống của Tây Tạng và hiện nay là thủ phủ Khu tự trị Tây Tạng của nước CHND Trung Hoa. Thành phố này có khoảng 255.000 dân, ở độ cao khoảng 3650m. Lhasa là “nóc nhà của thế giới”, nơi có phần lớn dãy Himalaya với một số đỉnh núi cao nhất thế giới khác. Hơn hết, Lhasa được coi là cội nguồn của Phật giáo, là nơi hàng tỉ người mộ đạo trên thế giới đều mong một lần được hành hương về đất Phật.
Sau khi đã trang bị đầy đủ đồ dùng, Nghiêm Chân theo Cố Hoài Việt xuống xe, toàn bộ hành lý đều do anh xách nhưng Nghiêm Chân vẫn không cảm thấy nhẹ nhõm hơn là mấy. Vì trên tàu lắp thiết bị đặc biệt cân bằng dưỡng khí nên đến khi xuống khỏi tàu, Nghiêm Chân mới cảm nhận được một cách rõ ràng bầu không khí loãng của vùng cao nguyên.
“Khó chịu phải không?” Thấy cô hít sâu một hơi, Cố Hoài Việt nhẹ nhàng hỏi.
“Không sao ạ.” Nghiêm Chân vội lắc đầu, tuy quả thực đầu cô hơi nhức nhưng trước mắt vẫn có thể chịu đựng được.
Cố Hoài Việt cũng thấy mình đã lo lắng thái quá, có thể do đây là lần đầu anh đưa một người phụ nữ lên cao nguyên. Anh mím mím môi, không nói gì thêm, đứng đó nhìn ra bốn phía xung quanh.
Nghiêm Chân nhìn anh, hỏi khẽ: “Ở đây có xe đi đến Đoàn Biên phòng không anh?”
“Có người đến đón.” Cố Hoài Việt đáp, ánh mắt chợt sáng lên, “Kia rồi!”
Theo tầm mắt anh, Nghiêm Chân nhìn thấy một người đàn ông mặc quân phục đang sải bước đi về họ, trong ánh mắt ngập tràn niềm vui của những người bạn cũ lúc trùng phùng: “Ôi, đây rồi!”
Cố Hoài Việt nhìn anh ta, cũng nở nụ cười cởi mở chân thành: “Đại đội trưởng đích thân ra đón, thế này em nhận không nổi đâu.” Dứt lời, nghiêm chỉnh thực hiện động tác chào.
Thì ra đây chính là Đại đội trưởng mà anh nhắc đến, Nghiêm Chân nhìn anh Thượng tá trước mặt.
“Nghiêm Chân, đây là Đại đội trưởng cũ của anh, giờ là Đoàn trưởng Đoàn Biên phòng, Bàng Khải.”
Cố Hoài Việt quay sang Nghiêm Chân giới thiệu, Bàng Khải bắt tay với cô. Lúc chạm vào tay anh ta, Nghiêm Chân có thể cảm nhận được những vết chai dày cộm trên bàn tay đó. Bàng Khải vỗ vai Cố Hoài Việt, nói giọng miền Nam đặc trưng: “Mười năm không gặp rồi, không những có vợ có con, đến quân hàm cũng bằng anh rồi! Cậu này được!”
“Anh nói còn gì? Chưa thành gia lập nghiệp, công thành danh toại thì đừng có về gặp anh. Em mười năm là còn nhanh đấy!”
“Cái cậu này!” Bàng Khải cười vang, xách hành lý của họ quay người đi, “Đi, lên xe! Về Đoàn rồi tụ tập cho ra trò!”
Đây chính là đồng đội, là Đại đội trưởng cũ, sau mười năm gặp lại, chỉ trong chốc lát ngắn ngủi đã có thể xóa nhòa mười năm xa cách.
Đường về Đoàn Biên phòng khá xa. Lái xe từ Lhasa đi về hướng Nam mất gần bốn tiếng. Lhasa mùa đông khi đêm xuống nhiệt độ rất thấp. Nghiêm Chân cuộn mình trong chiếc áo khoác, nghe hai người trò chuyện. Về Bàng Khải, Nghiêm Chân không biết được gì nhiều. Cô chỉ biết Bàng Khải là người miền Nam, tốt nghiệp cấp hai là đi lính. Nhờ tính cách thích tranh cường, háo thắng nên các loại kỹ năng quân sự đều luyện đến hàng siêu đẳng, nhiều môn còn đoạt giải toàn quân. Nhưng do trình độ văn hóa không đủ, đi lính hai mươi ba năm, vẫn chỉ là một Trung đòan trưởng. Kỳ thực, Bàng Khải chẳng hề oán trách gì chuyện này, có thể ở lại Tây Tạng đã là nguyện vọng lớn nhất của anh, những vấn đề khác không có gì to tát hết.
Bàng Khải vừa lái xe vừa trò chuyện: “Hai đứa đến đúng lúc đấy, ngày kia Đoàn sẽ mang đồ tiếp tế cho Đại đội 9, muốn đi thăm cậu ấy thì theo xe đi luôn. Anh đưa cậu đi.”
“Cứ xếp em vào xe nào cũng được, không cần đích thân anh đi đâu, gì mà phải phô trương thế.” Cố Hoài Việt lập tức từ chối.
“Cậu hay nhỉ, mấy hôm nay tuyết lại rơi, đường từ trong Đoàn tới Đại đội 9 khó đi, tôi làm Đoàn trưởng lại bỏ mặc chiến sĩ không lo à? Thế thì còn ra thể thống gì!”
Cố Hoài Việt trầm ngâm giây lát, chợt cười, rút trong vali ra một túi đồ được gói ghém kĩ càng, đưa tới. Đoàn trưởng Bảng nhìn thoáng qua: “Gì đấy, bọc kín thế?”
“Thuốc.”
Bàng Khải ngẩn ra, rồi cười: “Yên tâm, các cậu chẳng phải đều nói, tai họa sống ngàn năm, tôi không dễ dàng hy sinh thế đâu.” Đây là chuyện từ hồi Cố Hoài Việt còn là Trung đội trưởng, đó là năm đầu tiên sau khi anh tốt nghiệp Học viện Quân sự , cũng là lần đầu tiên anh huấn luyện tân binh, do Đại đội trưởng Bàng Khải yêu cầu nghiêm khắc, nên đám tân binh bị mắng kêu trời kêu đất, sau lưng đều lén gọi anh ta là “mặt đen”. Sau để Bàng Khải biết được, cũng không nổi giận, ung dung thản hiên yêu cầu họ gia tăng cường độ huấn luyện.
Cố Hoài Việt hơi mím môi, nhưng không vì câu nói đùa của anh ta mà làm lơ: “Nói thì nói vậy, thuốc vẫn phải uống.”
Nghiêm Chân ở bên cạnh nghe chuyện, thấy hiếu kì: “Đoàn trưởng Bàng bị bệnh gì thế ạ?”
Bàng Khải nghe thế ho lên vài tiếng, nháy mắt với Cố Hoài Việt qua gương chiếu hậu. Cố Hoài Việt vờ như không nhìn thấy: “Bệnh tim cao nguyên.”
Nghiêm Chân không biết bệnh này nguy hiểm đến đâu, nhưng riêng hai chữ “bệnh tim” đã có thể khiến cô giật mình: “Có nghiêm trọng không ạ?”
Bàng Khải thở dài, “Đấy cậu xem, đấy cậu xem, tôi còn muốn giữ gìn chút hình tượng người lính trước mặt em dâu, thế mà bị cậu hủy hoại hết sạch. Mới đó đã thành con ma bệnh rồi.”
Nghiêm Chân lắc đầu, cười đáp: “Không đâu ạ, anh phải uống thuốc đi ạ, cứ coi như để cho chị dâu yên tâm.”
Lời thốt ra, Bàng Khải lại bật cười lớn: “Chị dâu à? Còn chưa biết chị dâu cô đang ở tận đâu đây?”
Bàng Khải đến giờ vẫn chưa kết hôn, điều này khiến Nghiêm Chân có chút ngỡ ngàng.
“Không có gì để nói, có ai chịu lấy một người đàn ông suốt hai mươi năm chỉ về thăm nhà có năm lần không?” Bàng Khải xua tay, nói qua loa.
Thế nhưng Nghiêm Chân cũng hiểu, thứ gì mà càng không thể có được thì trong lòng lại càng khát khao. Mà đối với những người lính đóng giữ nơi biên cương, thì thứ họ muốn có nhất chính là một gia đình. Nghĩ đến những điều này, tâm trạng Nghiêm Chân có phần nặng nề, huyệt thái dương vốn chỉ đau âm ỉ, lúc này lại bắt đầu nặng nề hơn.
“Đau đầu à?” Thấy đầu mày Nghiêm Chân nhíu chặt, Cố Hoài Việt khẽ hỏi. Nghiêm Chân day day bên trán, lắc đầu nói: “Vẫn ổn ạ.”
“Có phải mệt quá không? Trung đoàn có hơi xa, nếu thấy khó chịu cô cứ nói, đừng có nín nhịn.” Bàng Khải khuyên cô, Nghiêm Chân đành mỉm cười, nói: “Em không sao thật mà.”
Ở bên nhau lâu, Cố Hoài Việt mới phát hiện, Nghiêm Chân là một người rất giỏi chịu đựng. Cộng thêm hiểu biết về môi trường cao nguyên, nên anh lấy ra một chiếc áo khoác quân đội đưa cho cô: “Phải một lúc nữa mới tới Đoàn Biên phòng, em nghỉ ngơi lát đi.”
Nghiêm Chân ngẩn ngơ nghiêng đầu sang nhìn anh. Trong buồng xe mờ tối, đôi mắt ấy ngưng đọng vầng sáng nhàn nhạt, ánh nhìn bình tĩnh hiền hòa khiến cô không cách nào từ chối. Cô đưa tay ôm lấy chiếc áo khoác quân đội dày dặn, khóe môi khe khẽ cong lên: “Vâng.”
Có lẽ là mệt thật, suốt quãng đường Nghiêm Chân ngủ rất say. Dường như đã mơ một giấc mơ, trước mắt một màu tối đen, như bị ai bịt mắt rồi đẩy vào đường hầm sâu thăm thẳm, cô chỉ có thể chậm rãi bước dò. Không biết là đang ở đâu, trong không khí thấm mùi ẩm ướt, cảm giác âm u lạnh lẽo khiến cô không khỏi rùng mình. Không thấy được đâu là điểm tận cùng nhưng vẫn phải đi tiếp, không thể dừng lại nơi này. Không gian chật hẹp tưởng chừng như sắp nghẹt thở, thế nên dù đầu cô đang đau muốn nứt ra, cô vẫn phải bám tay vào vách hầm chống người dậy, dốc hết sức tiến lên phía trước. Cũng không biết qua bao lâu, trước mắt chợt có ánh sáng, mũi bắt đầu hít thở được thứ không khí tươi mới tỏng lành, các dây thần kinh dần dịu lại, cô mở mắt ra.
Ơ? Đây là đâu? Nghiêm Chân chớp chớp mắt, nhìn lên trần nhà, vẫn còn mơ màng. Cô phải ở trong xe chứ, sao lại nằm ở đây? Không có cảm giác lắc lư khi xe chạy, bóng đèn tròn sáng quắc, bức tường màu trắng, tấm nệm chắc chắn, Không lẽ, đã đến Trung đoàn rồi?
Nghiêm Chân bỗng mở to mắt, muốn ngồi dậy nhưng bị thứ gì đó níu lại đành dừng động tác. Nghiêm Chân cúi nhìn mới phát hiện mình đang được truyền nước. Chai dịch truyền treo ở đầu giường, ngoài ra còn có một bình oxy. Nhìn xung quanh một lượt, cô lại thấy váng vất.
Đột nhiên tấm rèm che trước giường khẽ động, một chiến sĩ mặc bộ đồ rằn ri thập thò ghé đầu vào, làm Nghiêm Chân giật nảy mình, vừa định gọi, cậu ta đã thu người về. Nghiêm Chân lúng túng, muốn mở miệng gọi nhưng chữ “cậu” vừa thốt ra, cô đã hết hồn với giọng nói khàn đặc khô khốc của mình. Cô bị sao thế này?
May sau cậu chiến sĩ nọ cảm thấy có điều bất ổn, nghe tiếng động nên vén rèm kiểm tr.a lần nữa, mới phát hiện Nghiêm Chân đã tỉnh dậy. “Chị dâu chị tỉnh rồi ạ?” Cậu ta mừng rỡ nhìn cô.
Nghiêm Chân day day lên cổ họng mình, tỏ ý không nói được thành lời. Cậu chiến sĩ nhanh trí lập tức chạy ra ngoài rót cho cô một cốc nước nóng. Cầm chiếc cốc trong tay, Nghiêm Chân uống liền mấy ngụm nhỏ, lúc này họng mới phát ra được tiếng: “Tôi đang ở đâu thế?”
Cậu chiến sĩ trả lời bằng giọng Hà Nam chính gốc: “Đây là phòng y tế của Đoàn Biên phòng. Chị dâu, chị vừa tới là nằm đây luôn, giờ đã được ba tiếng rồi.”
Nghiêm Chân trầm ngâm một lúc, lại tiếp tục hỏi: “Tôi bị sao thế?”
“Lúc mới đưa đến chị hơi sốt, mặt mũi cũng tím tái.”
“Sốt? Tôi bị sốt à?” Nghiêm Chân khàn giọng hỏi.
Cậu chiến sĩ bị phản ứng thái quá của cô làm cho giật mình, vội nói: “Không nghiêm trọng lắm đâu ạ, đã truyền nước, thở oxy và tiêm thuốc hạ sốt rồi, tình hình bây giờ chắc đỡ hơn rồi chứ ạ?”
Nghiêm Chân buộc lòng phải trấn tĩnh lại, gật đầu. Cô đảo mắt nhìn bốn phía, ngập ngừng hỏi: “Thế, Cố...”
Mới nói được hai chữ, cậu chiến sĩ trẻ đã lập tức hiểu ý cô: “Tham mưu trưởng Cố đang nghỉ ở phòng ngoài ạ. Tham mưu trưởng ngồi đây suốt hai tiếng, chị hạ sốt mới đi đấy.” Nói rồi vỗ lên trán, “Ôi trời, em quên mất tiêu, Tham mưu trưởng dặn khi nào chị tỉnh lại thì báo ngay cho anh ấy.” Nói xong liền chạy đi mất.
Họng Nghiêm Chân đau rát ú ớ gọi theo mấy tiếng cũng không gọi được cậu ta lại, liền cảm thấy nhụt chí, thôi vậy, cứ để cậu ta đi. Cô ngước mắt yên lặng quan sát xung quanh, doanh trại có phần cũ kĩ, lớp sơn màu xanh thẫm trên tường đã bong tróc quá nửa, chiếc tủ sắt đầu giường cũng thuộc hàng thâm niên, đến cả cốc nước cô đang cầm trong tay cũng hằn dấu thời gian. Có điều, tất cả đều cực kỳ sạch sẽ. Nghiêm Chân nhìn hai tấm chăn dày cùng chiếc áo khoác quân đội đắp trên người mình, thầm cảm nhận được một luồng hơi ấm. Trông ra chiếc ghế đặt trước cửa sổ, Nghiêm Chân không khỏi suy tư, khi nãy, anh thật sự vẫn luôn ngồi ở đây sao?
Cô còn chưa tìm được manh mối gì từ trong cõi mộng, cậu chiến sĩ đã mở cửa đi vào, theo sau cậu là hai vóc dáng cao lớn, một người là Bàng Khải, người kia là Cố Hoài Việt. Nghiêm Chân lặng đi nhìn anh, đã vào đến Tây Tạng rồi, thời tiết lạnh thế này sao anh vẫn chỉ phong phanh mặc mỗi bộ thường phục.
Cố Hoài Việt lại không hề thấy lạnh, đặt chiếc cặp lồng giữ nhiệt trong tay xuống, đi tới bên giường. Bắt gặp ánh mắt chất chứa nghi vấn của Nghiêm Chân, anh chần chừ giây lát mới vươn tay hất phần tóc mái trước trán cô lên, xem thử nhiệt độ trên trán. Cậu chiến sĩ đứng cạnh nói giọng hăng hái: “Tham mưu trưởng, anh yên tâm ạ, chị dâu hết sốt rồi.”
Anh cười điềm đạm, lòng bàn tay đã đo được nhiệt độ vừa ý: “Em thấy thế nào, có đói không?”
Nghiêm Chân lắc đầu, giữ tay anh lại hỏi: “Sao em lại bị sốt?”
“Không có gì. Một là tại mệt quá, hai chắc là do trên đường đến Trung đoàn thì bị cảm lạnh.”
“Hả?” Mặc nhiều đồ như vậy mà cô vẫn có thể lạnh đến phát sốt, có thể thấy thể chất của cô kém như thế nào.
Bàng Khải nhìn cô, tủm tỉm cười: “Vừa rồi cô làm anh em tôi sợ hú vía, sốt cao, còn nói mơ, lúc cậu bác sĩ này cắm kim vào tiêm, tay cô còn đang run lên!”
Nghiêm Chân xấu hổ cúi đầu: “Gây phiền toái cho các anh rồi ạ.”
Đoàn trưởng Bàng khoát tay: “Đâu ra. Nhờ phúc của cô, tôi đã được thấy bộ dạng cậu lính xuất sắc nhất trong tay tôi lúc ở trước mặt vợ trông như thế nào rồi.”
Lúc đầu xe đã chạy tới nhà khác của Đoàn Biên phòng, anh ta vừa định gọi hai người xuống xe thì phát hiện sắc mặt Cố Hoài Việt ngồi ở ghế sau có gì bất thường. Vốn dĩ tưởng rằng là do phản ứng cao nguyên gây ra, hỏi han cặn kẽ mới biết là Nghiêm Chân lên cơn sốt. Lên cơn sốt vốn dĩ là chuyện nhỏ, nhưng ở nơi này lại có thể thành chuyện mất mạnh như chơi! Bàng Khải không dám chậm trễ dù chỉ một phút, lập tức tìm người tới phòng y tế gọi bác sĩ. Không ngờ có người còn nhanh hơn mình, anh ta còn chưa bàn giao sự việc xong thì Cố Hoài Việt đã bế bổng Nghiêm Chân đi thẳng tới phòng y tế rồi.
“Lúc đó tôi mới nghĩ, sao cái cậu này mười năm rồi không đến mà vẫn biết phòng y tế ở hướng nào!” Đoàn trưởng Bàng nói đùa, mặt Nghiêm Chân ửng đỏ. Còn Cố Hoài Việt chỉ nhướng mày, múc bát cháo đưa tới trước mặt cô: “Nào, ăn cháo đi.”
Mặt Nghiêm Chân lại đỏ lựng, thế nhưng một tay cô còn cắm kim truyền dịch, tay kia thì bị bác sĩ cắm kim đến thâm tím lung tung, đành bất dắc dĩ há to miệng, nuốt một thìa cháo.
Bàng Khải mỉm cười nhìn hai người, khẽ bước rời đi.
Cả gian phòng bỗng yên ắng lại, Nghiêm Chân vừa ăn cháo vừa len lén nhìn anh. Vẫn là nét mặt tĩnh lặng như nước, thế nhưng đôi mắt sáng đen sâu thẳm kia lại phản chiếu một tầng mệt mỏi. Ăn cháo xong, Cố Hoài Việt điều chỉnh cho tốc độ truyền dịch chậm lại một chút.
Nghiêm Chân im lặng nhìn anh làm tất cả, hồi lâu, cúi đầu, nói: “Em xin lỗi, em cũng không ngờ sức mình lại yếu đến thế.” Bất giác, cô cảm thấy áy náy, có lẽ cô không nên đi theo anh, vô duyên vô cớ gây cho anh thêm nhiều phiền toái như vậy.
Cố Hoài Việt dừng tay, anh mỉm cười, treo bình truyền dịch lên rồi nói: “Không sao hết, có chút phản ứng cũng là chuyện thường, nghỉ ngơi rồi sẽ khỏe thôi. Tối nay cứ ở lại phòng ý tế đã nhé.”
“Vâng.” Cô rúc vào trong chăn, tức thì được hơi ấm bao bọc lấy.
“Ngủ đi.” Anh nhìn cô một lần nữa, cuối cùng tắt bóng đèn lớn trong phòng, chỉ để lại một ngọn đèn nhỏ nơi đầu giường.
“Anh thì sao?” Hơi ấm kéo theo cơn buồn ngủ, cô mở mắt, nhìn anh mơ màng. Chỉ thấy anh nghiêng người, dém chăn cho cô, ngón tay vô tình chạm vào má cô, cảm giác lạnh buốt khiến cô hơi co rúm lại. Tựa hồ nhận ra được, anh chú ý cẩn thận hơn không để chạm vào cô nữa: “Đợi em ngủ rồi anh đi, ở ngay phòng ngoài thôi, có gì thì gọi anh.”
“Dạ.” Cô mơ hồ đáp lời anh, rồi bỗng trở mình, cầm tay anh dặn dò: “Anh mặc thêm áo vào, lạnh đấy.” Dứt lời liền đi vào giấc ngủ.
Bất chợt bị bàn tay ấm áp của cô nắm chặt, Cố Hoài Việt ngẩn người, một lúc lâu, khóe môi cong cong một nụ cười, rút tay mình ra, nhét lại cánh tay cô vào trong chăn, tắt đèn đi ra bên ngoài.
***
Đến ngày thứ ba lên Tây Tạng, sức khỏe Nghiêm Chân đã dần hồi phục.
Sáng sớm ngày thứ ba, cô mặc quần áo ấm áp ra khỏi phòng y tế. Cô đã đến đây được ba ngày, nhưng cho đến giờ mới thấy rõ được quang cảnh thực sự ở Đoàn Biên phòng. Từng dãy phòng nằm kề nhau chỉnh tề ngay ngắn, những loài cây lá kim trồng rải rác giữa khoảng sân rộng của Trung đoàn. Trên thao trường, các binh sĩ đang xếp vật tư lên xe, đây là số vật tư sẽ đưa tới Đại đội 9. Đợt trước do tuyết lớn, đi lại khó khăn đành phải lùi thời gian tiếp tế. Biết đồ dự trữ trong kho của Đại đội 9 đã sắp cạn kiệt, Đòa Biên phòng lập tức tổ chức cho người đưa vật tư lên. Có điều, Nghiêm Chân ngước nhìn khung cảnh ở nơi cách đó không xa, tuyết phủ một vùng trắng xóa, đoán chừng con đường này chắc chắn khó đi. Đắn đo một lúc, cô siết chặt áo đi về phía thao trường.
Trên thao trường, Bàng Khải một tay ôm ngực, một tay chỉ đạo việc xếp vật tư.
Khu vực Nam Tây Tạng hễ vào mùa là đổ vài trận tuyết lớn, mấy ngày qua thời tiết bỗng chuyển tốt hơn, ít nhất tuyết không còn rơi nữa. Nhưng tuyết đã tích lại rất dày nên lần vận chuyển vật tư này, anh ta phải đi theo đoàn xe. Bàng Khải đã đóng quân ở đây hai mươi ba năm, không một tài xế nào có kinh nghiệm lái xe ở vùng cao nguyên tuyết phủ hơn anh ta. Nhưng trông anh ta ôm ngực chau mày thế kia khiến người khác không khỏi lo lắng. Chặng đường cả đi và về kéo dài hai ngày này, liệu anh ta có chịu nổi không?
Một Thượng úy khuyên: “Đoàn trưởng, thôi hôm nay anh đừng đi nữa.”
Bàng Khải quay lại trừng mắt nhìn anh ta: “Sức khỏe của tôi tự tôi biết rõ, còn cần cậu nhiều lời à.”
Thượng úy kia tức thì nín lặng, nhìn sang Cố Hoài Việt cầu viện. Anh ngẫm nghĩ, cân nhắc từng câu chữ: “Cậu ấy nói phải đấy, sức khỏe anh không phù hợp để hành quân khẩn nữa đâu, chuyến này để em đi thay anh.”
Hiển nhiên Bàng Khải cũng không nể nang gì anh: “Cậu cũng bớt lôi thôi đi.” Mắng được một câu, ngữ khí liền dịu lại, “Còn Nghiêm Chân, cô ấy tốt nhất là đừng đi.”
Cố Hoài Việt do dự giây lát, đang chuẩn bị nói gì đó thì đằng sau vang lên một giọng nữ: “Em muốn đi.”
Không cần phải hỏi, chính là Nghiêm Chân.
Cố Hoài Việt quay người lại, thấy cô đang rụt cổ trong chiếc áo thao luyện mùa đông to rộng, nét mặt nghiêm túc. Nghiêm Chân vén tóc, môi mấp máy nói: “Em muốn đi cùng các anh.”
“Sức khỏe của em chưa bình phục hẳn đâu.”
“Em biết, nhưng em không muốn phí công đến đây.” Cô nhẹ nhàng đáp, trong ánh mắt có sự kiên định không thể xem thường, khiến anh nhất thời không sao thốt lên được câu khước từ.
Đoàn trưởng Bàng cười lớn, bước tới vỗ lên vai anh bảo: “Được rồi, không phải nghĩ nữa. Hôm nay đi hết, lên Đại đội 9 mở đại hội!”
Đại đội 9 là một tiền đồn nằm ở vị trí cao bốn ngàn mét so với mực nước biển. Cách Đoàn Biên phòng vốn dĩ không xa, nhưng vì tuyết dày, nhiều đoạn đường bị tuyết chặn lại, riêng việc loại bỏ chướng ngại cũng tốn mất một hai giờ đồng hồ. Vậy nên lúc tới được Đại đội 9 đã là năm giờ chiều, tính thời gian từ khi xuất phát ở Đoàn Biên phòng vào buổi sáng là tròn mười tiếng.
Nghiêm Chân xuống xe, hít thở bầu không khí trong lành, chậm rãi vươn vai. Lúc mở mắt ra thì trông thấy một tốp chiến sĩ đang xếp hàng tập hợp ngơ ngác nhìn cô. Mắt không hề chớp!
Nghiêm Chân ngây người nhìn họ một lúc, cũng thấy lúng túng.
Bàng Khải nhìn đám “lính ngơ ngác” này, quát gọi Đại đội trưởng Đại đội 9: “Triệu Văn Giang, cho người của Đại đội cậu ra chuyển vật tư ngay!”
Đại đội trưởng Đại đội 9 Triệu Văn Giang tức tốc hoàn hồn, cất giọng hô:”Rõ.”
Nhìn mấy người họ, Nghiêm Chân không nhịn được bật cười. Lúc này Nghiêm Chân vẫn chưa thể nào hiểu được tâm tư của họ. Phụ nữ trong quân đội là của hiếm, nhất là với những người lính đang đóng quân nơi biên giới này. Cũng không thể trách tốp “lính ngơ ngác” đó được, ai bào Đòan Biên phòng điện thoại tới không hề nói có phái nữ đến thăm chứ, lại còn là một cô gái rất xinh đẹp.
Bàng Khải đứng ngang hàng với Cố Hoài Việt, cười mắng: “Bọn ngáo ngơ này, cứ như tám kiếp chưa nhìn thấy con gái bao giờ.”
Đăm đắm nhìn bóng dáng dong dỏng cao phía trước, Cố Hoài Việt cười: “Có lẽ là bất ngờ lớn với họ.”
Dỡ xong vật tư, Đại đội 9 bắt đầu nổi lửa nấu cơm. Triệu Văn Giang đã nhắc nhở đội cấp dưỡng phải chuẩn bị một bữa ăn thật thịnh soạn, thịnh sọan đến mức Bàng Khải đi vào trông thấy, không kìm được phải quở mắng anh ta: “Cậu ăn bữa này không cần bữa sau nữa phải không? Cậu làm thế là vượt quá định mức ăn tiêu chuẩn của quân đội rồi đấy!”
Triệu Văn Giang bẽn lẽn cười, “Đoàn trưởng, hôm nay có khách quý đến chơi mà.”
Hiếm thấy một chàng trai miền Bắc thẳng thắn, cởi mở lại có lúc ngượng ngùng như vậy. Bàng Khải cũng chẳng buồn mắng anh ta nữa, trước khi đi dặn dò thêm: “Chú ý nêm nếm nhẹ nhàng thôi.”
Một mình Nghiêm Chân dạo bộ quanh thao trường. Cảnh quan ở đây rất đẹp, từ trên này nhìn xuống có thể nhìn thấy được từng áng mây lững lờ đan quyện vào nhau, tựa hồ như đang phiêu du nơi tiên cảnh. Cô men theo cầu thang đủng đỉnh đi xuống, lúc sắp đến bậc cuối cùng thì thấy Cố Hoài Việt và Bàng Khải đang đi tới. Hai người nói gì đó với nhau, Cố Hoài Việt bước về phía cô. Nghiêm Chân bất giác đi nhanh vài bước, Cố Hoài Viêt nhíu mày, đưa tay ra nhắc: “Đi chậm thôi.” Chứng phản ứng cao nguyên của cô mới hơi thuyên giảm, không được đi nhanh. Nghiêm Chân thấy anh đưa tay ra, thoáng ngập ngừng, khóe môi khẽ cong lên, bám lấy tay anh đi xuống dễ dàng.
“Có lạnh không?” Anh cầm tay cô, hai bàn tay lạnh buốt nắm vào nhau, không cảm nhận được gì.
Nghiêm Chân tươi cười, rụt cổ lại: “Dạ, có hơi lạnh.”
Mùa đông nơi đây, nhiệt độ thấp nhất có thể xuống đến âm ba mươi độ, tuy hiện giờ chưa đến lúc lạnh lẽo nhất, nhưng so với thành phố C cũng xem như là cái lạnh chưa từng có.
Anh nghĩ một lát, chợt mỉm cười: “Đi.”
“Đi đâu?”
“Tìm chỗ tránh rét cho em.”
Nghiêm Chân buộc lòng kìm nén sự tò mò cùng đi với anh. Kết quả, lúc đến nơi, cô lại không kìm được bật cười. Thì ra, chỗ được dùng để tránh rét là một căn bếp chật hẹp chỉ chừng bảy tám mét vuông.
“Thế nào hả?” Thấy cô cười, Cố Hoài Việt cũng khẽ nhếch khóe môi.
“Được ạ.” Nói rồi Nghiêm Chân sải bước vào trong, một luồng hơi ấm ùa tới khiến cô ngay lập tức cảm thấy vô cùng dễ chịu.
Đúng lúc có một chiến sĩ đang nhóm lửa ở trong, Cố Hoài Việt sai cậu ấy đi chẻ thêm ít củi mang tới. Tham mưu trưởng Cố xắn tay áo, ngồi xuống chiếc ghế con, chuẩn bị đích thân ra tay nhóm lửa. Anh thêm vào vài que củi, một lúc sau, lửa đã bén lên, chỉ cần lại gần là có thể cảm thấy được sức nóng. Nghiêm Chân vô thức xích gần lại, Cố Hoài Việt liếc nhìn cô, chợt nắm lấy tay cô: “Đừng ngồi gần đống lửa thế, cẩn thậm xém vào quần áo.” Nói xong bèn lấy một chiếc ghế nhỏ đặt cạnh cô: “Ngồi ở đây đi.”
Nhìn chiếc ghế, Nghiêm Chân thoáng do dự, rồi cũng bước tới ngồi xuống. Hai người nhóm lửa, cậu chiến sĩ Tiểu Vương nửa quỳ nửa ngồi nhét thêm củi vào lò, Nghiêm Chân lo cậu ta ngồi xổm mỏi chân, liền kéo môt chiếc ghế khác cho cậu ngồi. Tiểu Vương nào có được hưởng đãi ngộ như vậy bao giờ, hồi hộp đến mức không biết phải cư xử ra sao, cứ nửa đứng lên lại vội vàng ngồi thụp xuống.
“Còn phải hô khẩu lệnh cho cậu nữa à? Ngồi đi.” Nghiêm Chân cười nói.
Tiểu Vương khốn khổ xoay xở một hồi, cuối cùng cũng chịu đặt mông lên ghế. Bất chợt cậu ta vỗ đầu, nhớ ra một chuyện quan trọng: “Thôi ch.ết, quên đưa cho Uy Phong ăn!” Nói xong tức tốc vụt ra ngoài, Cố Hoài Việt gọi cậu ta lại, “Đi cho quân khuyển ăn à?”
“Vâng.” Tiểu Vương ấp úng trả lời.
Cố Hoài Việt bỗng nổi hứng: “Cho ăn xong thì dắt qua đây nhé.”
Nhìn theo bóng Tiểu Vương nhanh nhẹn rời đi, Nghiêm Chân không kìm được than thở: “Tuổi trẻ thích thật.”
“Cậu ấy hồi hộp đấy.” Cố Hoài Việt cười, ngọn lửa chầm chậm bốc lên, có ánh sáng nhàn nhạt lướt qua gương mặt anh, họa nên những góc cạnh với đường nét rõ ràng, “Lính tráng ở đây đa số đều ít khi về thăm nhà, năm về một lần đã được coi là chịu khó rồi. Lúc anh mới đến đây, có câu nói được truyền tai nhau suốt, là “Lên Tây Tạng khác gì lên chùa làm sư”.”
“Ở đây không có con gái Tây Tạng sao?”
Anh chầm chậm lắc đầu, “Không có. Chỗ này quá cao, đường xá xa xôi, địa hình cũng hiểm trở, bình thường các cô gái không đến đây.” Vậy nên, đừng nói một năm, cho dù là lính tráng hai năm chưa từng thấy con gái cũng từng có. Nghiêm Chân đến đây đúng là khiến họ vừa bất ngờ vừa mừng rỡ.
“Anh thì sao?” Yên lặng một thoáng, Nghiêm Chân bỗng lên tiếng.
“Hả?” Anh dùng cây cời bếp gảy cho lửa cháy đượm lên, đống lửa bật ra những tiếng nổ lách tách, trong lúc bận bịu nhất thời chưa nghe rõ lời cô hỏi.
Nghiêm Chân ngập ngừng một thoáng mới hỏi lại lần nữa, “Thế anh đóng quân ở đây, có phải cũng rất lâu không gặp...người ngoài không?”
Cô đã đánh tráo khái niệm, nuốt nhẹm hai chữ “con gái” xuống, nhưng đâu có chuyện Cố Hoài Vệt nghe mà không hiểu. Anh cười nói: “Anh còn lâu hơn người ta. Sau khi đến Tây Tạng, lần tiếp theo gặp được người khác giới đã là chuyện của ba năm sau rồi.” Ba năm liền anh không nghỉ phép. Trong ba năm đó, anh đón Tết ở Đoàn Biên phòng. Cuối cùng, ông bà cụ ở nhà không dằn lòng được nữa, một cuộc điện thoại gọi lên Trung đoàn lôi anh trở về. Ngẫm lại mình hồi đó quả thực kiêu căng ngạo mạn, cứ tự cho rằng bản thân đủ mạnh mẽ, khao khát được đi thật xa. Anh tưởng rằng cực lực rèn luyện mấy năm, thành thạo hết các loại kỹ năng quân sự là có thể gan lì cứng cỏi, thực ra không phải vậy.
Trên đời này, chung quy lại vẫn có những thứ, có thể không mảy may hao tốn sức lực đã khiến người ta buông súng đầu hàng. Tình thân, tình bạn, hay là tình yêu, lực sát thương của chúng, không thua kém gì súng đạn.
Lúc định thần lại, Tiểu Vương đã dắt chú quân khuyển đến. Không phải giống chó gì đặc biệt, là một chú chó chăn cừu Đức. Điều làm Nghiêm Chân tò mò là tên của chú chó: “Nó tên Uy Phong thật à?”
Thấy Nghiêm Chân thắc mắc về cái tên này năm lần bảy lượt, Tiểu Vương trả lời thận trọng: “Vâng, là tên em đặt cho nó. Nó lợi hại lắm ạ, hội thi quân khuyển Quân khu, nhiều hạng mục kỹ năng đều siêu hơn những con khác!” Nhắc tới chuyện này, gương mặt Tiểu Vương ánh lên vẻ tự hào.
Cố Hoài Việt cúi xuống, ngắm nhìn chú quân khuyển, anh lấy quả bóng trong tay Tiểu Vương ném đi, Uy Phong lập tức co cẳng chạy đi gặm quả bóng nhặt về. “Nuôi bao lâu rồi?”
“Mười một tháng ạ.”
Anh cười: “Ừ, được đấy.”
Tiểu Vương kéo dây xích, Nghiêm Chân ngồi xổm xuống, thử vuốt ve Uy Phong. Chú quân khuyển Uy Phong lập tức rùng mình, quẫy quẫy cái đuôi, phát ra tín hiệu thông báo “người lạ chớ lại gần”. Nghiêm Chân tức thì rụt tay lại, mặt mũi tiếc nuối nhìn Uy Phong. Chú ta liếc xéo cô một cái, rồi khinh khỉnh tránh xa, Nghiêm Chân không khỏi càng thêm rầu rĩ.
Tiểu Vương khổ sở nhịn cười, Cố Hoài Việt nhìn cô, nói: “Đưa tay ra đây.”
Nghiêm Chân giơ tay ra, anh liền cầm lấy tay cô đưa lại gần Uy Phong, thấy chú ta không chống cự, Cố Hòa Việt mới từ từ thả tay mình ra. Cuối cùng Nghiêm Chân đã chạm được vào Uy Phong, cảm giác mềm mịn quả thực khác hẳn tính khí kiêu ngạo của chú ta.
Cố Hoài Việt lấy cái màn thầu trong tay Tiểu Vương, nhét vào tay Nghiêm Chân: “Em cho nó ăn thử xem nào.”
Quân khuyển cũng có bữa ăn tiêu chuẩn riêng, chiếc màn thầu này chỉ có thể xem như đồ ăn vặt của nó. Nghiêm Chân bẻ một miếng đưa tới gần miệng Uy Phong, chú ta hiển nhiên không quen với kiểu đút cho cún con ăn của cô, nhưng đồ ăn ngon ở ngay trước mặt, vẫn đưa mũi ngửi ngửi, rồi gặm lấy ăn. Nghiêm Chân thích thú quay ra nhìn Cố Hoài Việt, anh cũng bị lây theo niềm vui sướng trong ánh mắt cô, nở nụ cười hiền hòa. Nghiêm Chân có thể cảm nhận được rõ ràng sự khác lạ của Cố Hoài Việt, biểu cảm thường ngày của anh rất ít, khuôn mặt thường thấy luôn trong trạng thái không cảm xúc, nhưng kể từ khi đến nơi đây, từ khi đặt chân tới Đại đội 9 này, anh trở nên hiền hòa hơn rất nhiều. Cô đoán, có lẽ là vì từ sâu trong đáy lòng anh coi nơi đây như mái nhà thứ hai của mình.
Tiền đồn trong mây của Đại đội 9 tối nay náo nhiệt chưa từng thấy. Những người chiến sĩ này trường kỳ trấn giữ ở đây, nhưng họ không hề quên mất niềm vui bởi những tháng ngày trống vắng, cô đơn. Ngược lại, khi đến lúc cần vui tươi thì họ hăng hái hơn bất cứ ai.
Triệu Văn Giang kéo hết mấy bình rượu về trước mặt mình, cười tít mắt nói với Bàng Khải: “Đoàn trưởng, chúng em đã bàn bạc rồi, rượu này không thể uống không được, anh hát một bài mới có rượu cho anh uống!”
Bàng Khải liếc xéo Triệu Văn Giang, biết đám người này hễ ham vui là mất hết hình tượng, anh ta đẩy Cố Hoài Việt: “Cậu hát đi.”
Tham mưu trưởng Cố điềm tĩnh trả lời: “Em không uống rượu.”
“Thế thì cũng phải hát.” Bàng Khải nói, “Hát bài tủ kinh điển của cậu ấy.”
Bài tủ kinh điển? Nghiêm Chân bỗng thấy tò mò vô cùng.
Câu chuyện được kể như sau, lúc Tham mưu trưởng Cố Hoài Việt còn là lính Trinh sát, cấp trên cử một tổ Văn công đến Đoàn Biên phòng để...biểu diễn thăm hỏi. Nói là biểu diễn thăm hỏi, nhưng tổ văn nghệ kia về cơ bản không thể kéo dài buổi diễn đến tận ba tiếng đồng hồ được, vẫn phải bắt mấy cậu trai tráng của đồn Biên Phòng tham gia cùng cho đủ số lượng. Đoàn trưởng phát lệnh, mỗi Tiểu đoàn bắt hai người ở mỗi Đại đội lên. Thế là Đại đội trinh sát của Tham mưu trưởng Cố túm ra hai người, trong đó một người là Cố Hoài Việt. Xét thấy Tham mưu trưởng Cố sở hữu chất giọng nam trầm, lãnh đạo Đoàn Văn công đã bố trí để anh hát một bài đơn ca, còn dặn dò anh phải thể hiện thật tốt, vì lúc biểu diễn có thủ trưởng đến dự. Phen này làm lớn đây, toàn Đại đội ồn ào hẳn lên, ai cũng tích cực giới thiệu ca khúc cho anh.
Cầm danh sách bài hát, phản ứng đầu tiên của Cố Hoài Việt là cau mày: “Sao bài nào bài nấy đều tầm thường thế này.” Gì mà yêu đương tình ái, hát hò thế này làm sao lên được sân khấu? Cuối cùng vẫn là Tham mưu trưởng của Trung đoàn ra tay, đóng góp một bài hát về quê hương – Dân ca thảo nguyên.
Buổi diễn tối hôm đó rất thành công, Đoàn trưởng cùng ban lãnh đạo thưởng thức trọn vẹn chương trình. Đợi đến khi Cố Hoài Việt đã hát xong, Đòan trưởng nghiêng đầu hỏi cảm nhận của thủ trưởng. Vị thủ trưởng gật gù, nói một câu khiến Đoàn trưởng khó lòng quên được: “Hay thì có hay, nhưng mà đóng quân trên cao nguyên sao lại hát bài dân ca thảo nguyên?” Bàng Khải kể chuyện sống động như thật, Nghiêm Chân nghe xong cũng không nhịn được cười.
Giờ thì hay rồi, các chiến sĩ không những chĩa mũi nhọn vào Cố Hoài Việt, còn gào lên: “Chị dâu hát cùng đi!”
Nghiêm Chân không chống đỡ nổi tiếng hô đồng thanh của các chiến sĩ, nhìn sang Cố Hoài Việt. Nét mặt anh vẫn giữ vẻ hiền hòa, là biểu cảm chỉ xuất hiện khi con người ta chìm đắm trong những kỷ niệm êm đềm. Anh nghiêng đầu lại, nhìn cô, cầm tay cô, nói: “Được không?”
Cô còn có thể nói không được hay sao?
Thái độ ngoan ngoãn vâng lời của Nghiêm Chân làm cho các chiến sĩ khấp khởi hy vọng, từng người hét vang: “Ngọt ngào! Hát Ngọt ngào đi!”
Cố Hoài Việt coi như đã hiểu ra, đây chắc chắn là âm mưu đã được tính toán từ trước, lấy Bàng Khải ra làm lá chắn, anh mới chính là mục tiêu thực sự. Có điều, chuyện đến nước này anh cũng không tức giận nổi nữa, anh nghoảnh sang nhìn Nghiêm Chân: “Em bắt nhịp hay là anh?”
Mặt Nghiêm Chân đỏ hồng: “Hát Ngọt ngào thật ạ?”
“Chứ biết làm sao?” Anh cũng đành chịu.
Nghiêm Chân thẹn đỏ cả mặt cúi gằm, nói lý nhí: “Anh bắt nhịp đi.”
“Được.”
Cố Hoài Việt hắng giọng, ngẩng đầu, Nghiêm Chân tay che mặt, lý nhí hát theo. Không khí buổi liên hoan nhờ có bản song ca này lại càng thêm tưng bừng, Triệu Văn Giang phải ra tay ổn định lại tình hình: “Được rồi, Tham mưu trưởng cũng đã đóng góp giọng ca rồi, anh em ta cũng không thể ngồi không được, nào, lên thôi!”
Hết thảy các chiến sĩ dưới sự chỉ huy của Triệu Văn Giang đồng thanh hát một bài hát kinh điển được cải biên lại từ bài Ba điều kỷ luật, tám mục chú ý: “Người chiến sĩ Cách mạng ai cũng cần có vợ, anh cần, tôi cần đâu ra mà nhiều thế! Tuân thủ kỷ luật sẽ phát cho mỗi người một vợ, không biết nghe lời phát cho một bà chằn!”
Nghiêm Chân nghe mà mặt mũi nóng bừng, đứng ngồi không yên, Tham mưu trưởng Cố buộc phải giơ tay ra ôm lấy cô. Bàng Khải nhìn khung cảnh rộn ràng trước mắt, sau tiếng cười, không kìm được trộm mắng một câu: “Một lũ ngáo ngơ!”
Tối hôm nay, tiền đồn trong mây rộn vang tiếng cười, quyện lẫn với sắc đêm, dường như sắp làm tan chảy cả núi tuyết ngàn năm trên đỉnh cao nguyên kia. Cao nguyên này ở trong ký ức, dường như đã không còn lạnh lẽo.
***
Sáng hôm sau khi thức dậy, Bàng Khải dẫn đội xe trở về Đoàn Biên phòng. Vì sắp cuối năm, Trung đoàn rất bận rộn.
Thời gian của Cố Hoài Việt và Nghiêm Chân cũng eo hẹp, nên ăn sáng xong, họ liền lên đường đi thăm đồng đội. Thời điểm trước lúc khởi hành, Nghiêm Chân mới biết, thì ra người đồng đội mà Cố Hoài Việt nhắc đến, không phải ở Đại đội 9.
Triệu Văn Giang phái riêng một người đi cùng họ, nhưng mới đi chưa được bao xa đã bị một hố tuyết trước mặt cản lối. Cố Hoài Việt ngẫm nghĩ một lát, quyết định bỏ xe đi bộ. Tiểu đội trưởng Lão Vương cả kinh: “Thủ trưởng, giờ muốn đi bộ lên phải mất một, hai tiếng đấy ạ!”
Cố Hoài Việt hiển nhiên biết rõ điều này, anh nói: “Cậu lái xe về Đại đội trước đi.”
Lão Vương vội nói: “Vậy không được. Đại đội trưởng dặn em bảo vệ sự an toàn của anh và chị dâu, trên đường đi có chỗ nguy hiểm, em phải đi theo để nhắc anh.”
Cố Hoài Việt cười điềm đạm: “Lão Vương, cậu quên tôi là lính từng đóng quân ở đây à?”
Lão Vương nghẹn lời một lúc, ánh mắt chuyển sang nhìn Nghiêm Chân đang xuống xe, như trông thấy cứu tinh, “Thế chị dâu đi được không ạ?”
Dứt lời, cả hai người cùng nhìn về phía Nghiêm Chân. Nghiêm Chân vất vả lắm mới chỉnh được chiếc mũ ngay ngăn, cả khuôn mặt chỉ còn lộ ra hai con mắt. Nhìn cô, Cố Hoài Việt hơi do dự.
“Em đi được.” Cô kéo chiếc khăn quàng cổ che kín miệng xuống một chút, vội vã cam đoan.
Anh nhìn cô đăm chiêu giây lát, đôi mắt xinh đẹp toát ra vẻ kiên quyết kia không hiểu sao lại khiến anh thấy yên tâm. Cố Hoài Việt ra quyết định, vỗ vai lão Vương: “Được rồi, cậu về trước đi. Chị dâu cậu, cô ấy đi cùng với tôi.”
Lão Vương đành trơ mắt nhìn hai người từ từ đi xa. Thực chất, sự lo lắng của Lão Vương không hề thừa thãi, vùng núi này cách mực nước biển rất cao, con đường núi gập ghềnh khúc khuỷu, đi lại không những tốn công sức mà còn hao tổn cả tinh thần. Suốt dọc đường, Cố Hoài Việt cố ý đi thật chậm, một là để giữ sức, hai là vì Nghiêm Chân ở ngay sau anh. Mặc dù từng bước, từng bước theo sau anh rất sát nhưng cô bước đi vẫn cực vất vả.
Anh sải bước qua cây cầu bằng thân gỗ đã được đóng đinh chắc chắn, đứng ở đầu này cầu, giơ tay về phía Nghiêm Chân: “Đưa tay cho anh.” Nghiêm Chân cẩn thận dè dặt giơ tay ra, bàn tay lập tức được nắm chặt lấy, đi qua chiếc cầu độc mộc chật hẹp an toàn. Đứng ở đầu này cầu, cô thở hổn hển, giữa tiết trời như vậy trên trán lại lấm tấm mồ hôi. Khó khăn lắm mới hồi được sức, cô nhìn Cố Hoài Việt cười như mếu: “Em vô dụng lắm phải không?”
Cố Hoài Việt nhìn cô, khóe môi nhếch lên thành một đường cong cong: “Em biết không, hơn bốn ngàn năm trăm mét trên mực nước biển là khu cấm địa nguy hiểm tính mạng với con gái đấy.”
“Thế nên là?”
“Thế nên, em đi được đến tận đây là đã khiến anh phải nhìn em bằng con mắt khác rồi.”
Ồ? Hình như đây là lời khen? Nghiêm Chân nghiêng đầu, khẽ mỉm cười.
Nơi họ cần đến cách mực nước biển còn cao hơn Đại đội 9. Lên đến đây, cơ thể cô vốn đã thích nghi được với phản ứng cao nguyên lại bắt đầu có dấu hiệu đau nhức. Vậy nên Nghiêm Chân cố gắng không nói chuyện, đi theo sát Cố Hoài Việt, bước thật chậm rãi. Nhưng hình như con đường này rất dài, cô phóng tầm mắt trông ra xa một chút chỉ thấy tuyết trắng mênh mang, núi tuyết trùng điệp.
“Còn bao lâu nữa mới đến ạ?” Cô thở gấp hỏi.
“Sắp rồi.” Cố Hoài Việt nói rồi kéo tay cô, dắt cô trèo lên một sườn dốc. Nghiêm Chân theo hướng của anh, rẽ qua một khúc quanh, bất giác ngẩng đầu lên, liền bị cảnh tượng trước mắt làm cho thẫn thờ.
Bầu trời xanh thăm thẳm chừng như bỗng chốc được phóng lớn lên bày ra trước mắt, mây phía chân trời cảm giác cũng ở ngay gần cô vậy, tựa hồ như đưa tay ra là bắt được. Nghĩ vậy, Nghiêm Chân kiễng nhẹ chân lên, đưa tay ra với. Đương nhiên là không với tới được, cho dù cô đã vươn thẳng tay, kiễng hẳn chân lên cũng vô ích. Nghiêm Chân khẽ cười, cười bản thân mình ngốc nghếch.
Lúc thu lại ánh mắt, cô lại trông thấy một ụ đất nhỏ cách đấy không xa. Nói chính xác hơn phải là ụ tuyết. Ụ tuyết này đắp không cao, nhưng chỉ cần nhìn thấy thì sẽ có cảm giác nó sừng sững đứng lặng ở đó từ rất lâu rồi. Dường như ngay tức thì cô đã nhận ra được điều gì đó, vội quay đầu nhìn Cố Hoài Việt. Đúng lúc anh cũng nhìn sang, nói với cô hai chữ: “Đến rồi.”
Một phần mộ nhỏ - đồng đội của anh, ở tại nơi đây.
Nghiêm Chân có phần không dám tin. Cô thả tay anh, chừng như vô thức đi tới bên tấm bia mộ kia. Đó là một tấm bia mộ rất lạ lùng, không có ảnh, không đề tên, chỉ có một hàng chữ nhỏ ghi lại thời gian lập bia, tính ra, cách đây đã mười năm. Cô ngoảnh đầu nhìn Cố Hoài Việt, nét mặt bình thản của anh đã chuyển thành trang nghiêm.
Cô chợt thấy tò mò không biết ai là người được chôn trong mộ, còn anh như hiểu được suy nghĩ của cô lúc này, khẽ hỏi: “Em còn nhớ, anh từng nhắc đến người đồng đội này với em trên đường đến không?”
“Nhớ chứ.”
Khóe miệng Cố Hoài Việt giãn ra, xem như đang cười: “Cậu ấy đi lính cùng năm với anh, bọn anh cùng là Tiểu đội trưởng trong một Đại đội. Cậu ấy đến từ Sơn Thành, nơi đó quanh năm sương phủ không nhìn thấy ánh mặt trời. Cũng giống như Đại đội trưởng, cậu ấy ở lại đây là vì lý do đơn giản ấy.”
Vầng dương, mây trời gần ngay gang tấc.
Thực ra Nghiêm Chân rất muốn nói, chúng đều ở cách rất xa. Rất nhiều thứ nhìn thì có vẻ ở trong tầm tay, thực chất chỉ cần giơ tay ra là sẽ có thể cảm nhận được khoảng cách xa vời.
“Vậy giờ anh ấy, được chôn cất ở đây sao?”
“Ừ.” Cố Hoài Việt bước lên trước, cúi người phủi đi một lớp tuyết dày phủ trên mộ bia, ở hơn nửa năm đều là mùa tuyết như nơi đây, kỳ thực hành động này cũng chẳng có tác dụng gì. “Mười năm trước, cậu ấy lái xe qua chỗ này, đúng lúc gặp phải tuyết lở.” Giọng anh bình thản, tựa như đang kể một câu chuyện từ rất xa xưa. “Ở cách mực nước biển hơn năm ngàn mét còn đóng một tiền đồn nữa, mỗi lần đưa đồ tiếp tế cậu ấy đều lái xe, cuối cùng chỉ một lần đó gặp tuyết lở, cả người và xe đều chôn vùi ở đây.”
Dù đã chuẩn bị sẵn tâm lý, Nghiêm Chân vẫn bàng hoàng. Cố dán mắt nhìn tấm bia mộ, ấp úng hỏi: “Sao đến tấm ảnh cũng không có?”
“Khi đó Đại đội trưởng tìm khắp Đại đội cũng không tìm được bức ảnh nào của cậu ấy. Mà lúc cậu ấy được đào lên thì máu thịt bê bết đông cứng lại rồi.”
Cảnh tượng đó, ngay cả hồi tưởng lại cũng là một chuyện đau lòng. Nghiêm Chân hít sâu một hơi, ngón tay run lẩy bẩy. Cố Hoài Việt cảm nhận được, thoáng chần chừ rồi nắm chặt lấy tay cô.
“Mười năm qua đây là lần đầu tiên anh về thăm lại cậu ấy.”
“Vì sao?”
“Anh không dám.” Cố Hoài Việt nói, “Đứng trước cậu ấy, anh luôn cảm thấy mình không phải một người lính.”
Thời tuổi trẻ, anh cũng từng không cam lòng chịu đựng trống vắng cô đơn, không muốn nán lại đây lãng phí cuộc đời. Vậy nên thời gian ấy anh sa sút tinh thần, không làm được gì nên chuyện. Người đồng đội này thay Đại đội trưởng giáo huấn anh, nói anh có lỗi với bộ quân phục đang mặc trên người.
Giờ đây cuối cùng anh đã dám đến thăm, không phải bởi anh đã lăn lộn từng trải thành tài, mà là nhớ tới một câu người đồng đội đã qua đời này từng nói. Anh ấy nói: “Ở đây tốt lắm, mình cắm rễ sống ở đây không về nữa. Vợ thì cả đời này chẳng mong chờ gì lấy được, mình trông cả vào cậu đấy, tổ chức một lễ cười cao nguyên thì tốt biết mấy!”
Giờ đây anh đã có gia đình, cũng đã có một người thực sự có thể đến cùng anh. Vì vậy, anh đã đến. Nghĩ tới đây anh chầm chậm giơ tay lên, đưa ngang vành mũ, thực hiện một động tác chào trang nghiêm theo đúng nghi lễ quân đội.
Nghiêm Chân nhìn bóng lưng anh, chợt cảm thấy cay cay nơi đầu mũi. Cô ghi nhớ một câu mà bố đã từng nói, chỉ có những người từng là lính mới hiểu được sức nặng của hai tiếng đồng đội này, bởi vì đợi đến khi ra khỏi quân ngũ rồi thì sẽ không còn tìm được một người có thể sát cánh cùng mình đổ máu, đổ mồ hôi mà không rơi nước mắt nữa. Gọi nhau một tiếng đồng đội, là chuyện mang theo cả một đời.
Có lẽ cô sẽ mãi mãi không sao hiểu hết được cái tình và cái nghĩa trong câu nói ấy. Nhưng có một điều cô thấy rất vui mừng.
Đó chính là, cô không hề lùi bước, cô đã cùng anh đi đến được đây.