Chương 33
Peter Knox di chuyển lắt léo để tránh những vũng nước đọng trong sân tòa Tu Viện Strahov ở Praha. hắn ta đang trong chuyến chu du vào mùa xuân hàng năm, đi một vòng quanh các thư viện ở vùng trung tâm và Đông Âu. Khi mức du khách và học giả ít nhất, Knox đi hết kho chứa cũ kỹ này tới kho chứa cũ kỹ khác để đảm bảo không có rủi ro gì xuất hiện trong mười hai tháng qua có thể là nguyên nhân gây nên rắc rối cho Đại Hội Đồng – hay cho chính hắn. Trong mỗi thư viện, hắn có một người đưa tin đáng tin cậy, một nhân viên có vị trí đủ cao để có quyền tự do đến gần các cuốn sách và cổ thư, nhưng không quá cao để sau đó có thể đưa ra yêu cầu chống đối với những thành viên đức cao vọng trọng của thư viện, mà chỉ đơn giản là… biến mất mãi mãi.
Knox thường xuyên tiến hành những chuyến viếng thăm như thế này, kể từ khi hắn hoàn thành học vị tiến sĩ và bắt đầu làm việc cho Đại Hội Đồng. Rất nhiều thứ đã thay đổi kể từ Thế Chiến II và cấu trúc điều hành của Đại Hội Đồng cũng đã điều chỉnh để theo kịp thời đại. Cùng với cuộc cách mạng giao thông vận tải vào thế kỷ mười chín, tàu hỏa và đường bộ đưa đến một phong cách cai quản mới, mỗi loài tự kiểm soát đồng loại của mình chứ không phải giám sát theo vị trí địa lý nữa. Điều đó nghĩa là có rất nhiều chuyến đi xa và thư từ viết tay, cả hai hình thức đều có thể được thực hiện trong Kỷ Nguyên Hơi Nước. Philippe de Clermont đã ứng dụng hiện đại hóa vào hoạt động điều hành của Đại Hội Đồng, mặc dù Knox vẫn nghi ngờ suốt một thời gian dài rằng, Phillippe làm thế là để bảo vệ các bí mật của ma cà rồng hơn là thúc đẩy sự tiến bộ.
Rồi sau đó, các cuộc chiến tranh thế giới làm gián đoạn thông tin liên lạc và mạng lưới giao thông, Đại Hội Đồng quay trở lại với cách thức hoạt động cũ. Tình thế đó phá vỡ thế giới thành nhiều lát cắt hợp lý hơn là để từng vùng theo dõi chéo một cá nhân cụ thể nào đó bị tố cáo là có hành vi sai trái. không ai dám đề nghị một sự thay đổi triệt để như vậy khi Philippe còn sống. May mắn thay, người đứng đầu tiền nhiệm của nhà de Clermont không còn quanh quẩn ở đó để chống đối nữa. Mạng internet và e-mail đe dọa sẽ khiến cho những chuyến đi như thế này trở nên không cần thiết, nhưng Knox thích truyền thống.
Tai mắt cài cắm của Knox ở Thư Viện Strahov là một người đàn ông trung niên có tên Pavel Skovajsa. Toàn thân ông ta rặt một màu nâu, trông như tờ giấy ố màu, đeo một cặp kính từ thời Cộng Sản mà ông ta nhất quyết không thay, mặc dù không rõ sự cố chấp miễn cưỡng ấy là vì lý do lịch sử hay tình cảm cá nhân. Như thường lệ, hai người đàn ông gặp nhau ở nhà máy bia của tu viện, nơi đặt những chiếc bể chứa bằng đồng phát ra ánh sáng yếu ớt và làm ra một loại bia màu hổ phách tuyệt hảo, được đặt theo tên của Thánh Norbert, người đã an nghỉ ở một nơi gần đó.
Nhưng năm nay, Skovajsa đã thực sự tìm thấy một thứ gì đó.
“Đó là một lá thư bằng tiếng Do Thái cổ,” Skovajsa hạ giọng thì thầm trên điện thoại. Ông ta nghi ngờ công nghệ mới, không có điện thoại cầm tay và ghét cay ghét đắng e-mail. Đó là lý do ông ta được thuê để làm việc trong phòng lưu trữ, nơi mà phong cách tiếp cận với tri thức của ông ta sẽ không làm chậm tiến trình hướng tới hiện đại hóa của thư viện.
“Tại sao ông lại thì thà thì thầm thế hả Pavel?” Knox bực bội hỏi. Rắc rối duy nhất với Skovajsa là lão ta thích nghĩ mình là một gián điệp được đẽo gọt từ băng đá của thời kỳ Chiến Tranh Lạnh. Kết quả là lão hơi có chút hoang tưởng.
“Bởi vì tôi đã tách rời một quyển sách ra để lấy được nó, ai đó đã giấu nó bên dưới những trang cuối cùng ở bản in cuốn De Arte Cabalistica của Johannes Reuchlin,” Skovajsa giải thích, sự phấn khích của lão tăng lên. Knox nhìn đồng hồ đeo tay, còn quá sớm nên lão chắc chưa nốc cà phê. “Ông phải đến đây ngay. Nó đề cập đến giả kim thuật và người đàn ông xứ anh đó làm việc cho Rudolf II. Có lẽ nó quan trọng đấy.”
Knox sắp lên chuyến bay kế tiếp rời khỏi Berlin. Và giờ thì Skovajsa đã lôi hắn đến một căn phòng u ám, cáu bẩn, dưới tầng trệt của thư viện, được chiếu sáng bằng độc một bóng đèn trần leo lét.
“Có nơi nào thoải mái hơn để chúng ta bàn công việc không?” Knox hỏi, mắt nhìn chiếc bàn kim loại (cũng từ thời Cộng Sản) với vẻ nghi ngại. “Đó là món ragu à?” hắn chỉ vào một vết bẩn dính trên mặt bàn.
“Tai vách mạch rừng, sàn nhà cũng có mắt đấy.” Skovajsa chùi vết bẩn bằng viền chiếc áo len nâu của lão. “Ở đây chúng ta an toàn hơn. Ngồi đi, để tôi mang lá thư tới cho ông.”
“Cả cuốn sách nữa,” Knox nói cộc lốc. Skovajsa quay lại, ngạc nhiên trước giọng điệu của hắn.
“Vâng, dĩ nhiên rồi, cả cuốn sách nữa.”
“Đó không phải là Nghệ Thuật của Kabbalah,” Knox nói khi Skovajsa quay trở lại. Mỗi lúc trôi qua, hắn càng lúc càng bực bội hơn. Cuốn sách của Johannes Reuchlin mỏng và trang nhã, vật kỳ quái này phải có tới gần tám trăm trang. Khi đập nó xuống bàn, lực tác động rung suốt từ trên xuống dưới chân chiếc bàn kim loại.
“không hẳn thế,” Skovajsa chống chế nói. “Nó là cuốn De Arcanis Catholicae Veritatis của Galatino, nhưng phần Reuchlin viết có trong đó.” Cách tiếp cận chi tiết và chính xác các thư mục là một trong những căn bệnh thâm căn của Knox.
“Trang tựa đề sách có những lời đề tặng bằng tiếng Do Thái Cổ, La tinh và tiếng Pháp.” Skovajsa lật toang trang bìa cuốn sách. Vì chẳng có gì chống đỡ cho gáy của cuốn sách lớn này, nên Knox không ngạc nhiên khi nghe thấy một tiếng rắc xui xẻo. hắn nhìn Skovajsa vẻ lo lắng. “Đừng lo,” nhân viên kỳ cựu làm công việc bảo quản sách trấn an hắn, “nó không nằm trong danh mục. Tôi chỉ phát hiện ra nó vì nó được xếp cạnh một bản in khác trên giá của chúng tôi thôi. Cuốn sách đó chuẩn bị được đưa ra để đóng lại. Có lẽ nó lưu lạc đến đây do nhầm lẫn khi các cuốn sách của chúng tôi được mang trở lại vào năm 1989.”
Knox nghiêm túc kiểm tr.a trang đề tựa và những lời đề tặng của nó.
ללש קלחי ברעלו דע לכאי רקבב ףרטי באז ןימינב
Genesis 49:27
Beniamin lupus rapax mane comedet praedam et vespere
dividet spolia.
Benjamin est un loup qui déchire; au matin il dévore la
proie, et sur le soir il partage le butin.
“Đó là một bàn tay già nua, đúng không nhỉ? Và chủ nhân của nó rõ ràng rất có giáo dục,” Skovajsa nói.
“Benjamin sẽ cắn xé như một con sói: buổi sáng hắn sẽ nuốt chửng con mồi, còn ban đêm hắn sẽ chia của cướp được,” Knox ngâm nga đọc và không thấy những vần thơ này có gì liên quan với De Arcanis. Tác phẩm của Galatino là phát đạn khai hỏa cho cuộc chiến của Nhà Thờ Công Giáo chống lại đạo thần bí của người Do Thái – cũng cuộc chiến tranh đó đã dẫn tới việc thiêu hủy sách, các thủ tục thẩm tr.a và những cuộc săn lùng phù thủy vào thế kỷ mười sáu. Địa vị của Galatino có được nhờ vào lời tựa của ông ta: Xem xét các bí mật về sự thật của vũ trụ. Nhân việc cao hứng nhào nặn tư duy, Galatino tranh luận rằng, người Do Thái dự đoán được các giáo thuyết Ki Tô giáo và nghiên cứu về phép thần thông có thể giúp cho những nỗ lực của Thiên Chúa giáo nhằm chuyển đổi người Do Thái sang đức tin chân chính.
“Có lẽ tên chủ nhân của cuốn sách này là Benjamin?” Skovajsa ngoái nhìn qua vai và chuyển cho Knox một tệp tài liệu. Knox vui mừng thấy nó không bị đóng dấu TUYỆT MẬT bằng chữ cái đỏ. “Và đây là lá thư. Tôi không biết tiếng Do Thái cổ, nhưng cái tên Edwardus Kellaeus và giả kim thuật – alchymia – được viết bằng tiếng La tinh.”
Knox lật trang sách ra. hắn đang nằm mơ, hẳn phải thế rồi. Lá thư này đề ngày mùng hai tháng Elul 5369 – tức ngày 1 tháng Chín năm 1609 theo niên lịch Công Giáo. Và nó được ký tên Yehuda ben Bezalel, một người đàn ông được biết đến nhiều nhất dưới cái tên Rabbi Judah Loew.
“Ông biết tiếng Hebrew phải không?” Skovajsa nói.
“Đúng thế.” Lần này đến lượt Knox thì thầm. “Đúng thế,” hắn lặp lại mạnh mẽ hơn và nhìn chằm chằm vào lá thư.
“Vậy à?” Skovajsa nói sau gần một phút im lặng trôi qua. “Nó nói gì vậy?”
“Có vẻ như một người Do Thái ở Praha đã gặp Edward Kelley và đang viết thư cho một người bạn để kể về chuyện đó.” Đó là sự thật – theo một cách nào đấy.
“Cầu chúc cuộc sống dài lâu và bình yên cho anh, Benjamin, con trai của Gabriel, bạn yêu dấu,” Rabbi Loew viết.
***
Tôi đã nhận được thư của anh gửi từ thành phố nơi tôi chôn nhau cắt rốn với niềm vui mừng khôn tả. Poznań hợp với anh hơn Hungary, nơi chẳng có gì chờ đợi ngoài sự thống khổ. Mặc dù tôi là một ông lão, nhưng lá thư của anh đã gợi lại cho tôi một cách rõ ràng những sự kiện kỳ lạ xảy ra vào mùa xuân năm 5351, khi Edwardus Kellaeus, nhà nghiên cứu giả kim thuật và là sủng thần của hoàng đế, đến gặp tôi. hắn ta mê sảng lải nhải về một người đàn ông mà hắn đã giết và chuyện lính gác của hoàng đế chẳng mấy chốc sẽ bắt hắn vì tội giết người và mưu phản. hắn đã tiên đoán trước về cái ch.ết của mình và gào khóc, “tôi sẽ bị đày đọa như thiên thần rơi vào địa ngục.” hắn cũng nói về cuốn sách mà anh đang tìm kiếm, thứ bị đánh cắp từ hoàng đế Rudolf, như anh đã biết. Đôi khi Kellaeus gọi nó là Cuốn Sách Sáng Thế và có lúc là Cuốn Sách Cuộc Sống. Kellaeus khóc sướt mướt, nói rằng tận thế đang ở trước mắt chúng ta. hắn cứ nhắc đi nhắc lại những câu quái gở, chẳng hạn như “Tất cả bắt đầu từ sự thiếu vắng và nỗi thèm khát,” “Tất cả bắt đầu với máu và nỗi sợ hãi,” “Tất cả bắt đầu với một khám phá về loài phù thủy,” và cứ nói mãi.
Trong sự điên loạn, thậm chí, Kellaeus đã xé đi ba trang từ Cuốn Sách Cuộc Sống này, trước khi nó bị lấy đi ở chỗ hoàng đế. hắn đã để lại một trang cho tôi. Kellaeus cũng không kể cho tôi biết, ai là người hắn đã tặng những trang sách kia mà chỉ nói một cách khó hiểu về thiên thần ch.ết chóc cùng thiên thần sự sống. Than ôi, tôi không biết cuốn sách giờ ở nơi nào, tôi cũng không còn giữ trang sách xé ra từ đó nữa mà đã tặng cho Abraham be Elijah để bảo quản nó an toàn. Ông ấy đã ch.ết trong trận dịch hạch và trang sách có thể đã mất vĩnh viễn. Người duy nhất có thể hé lộ ánh sáng bí mật này chính là người tạo ra anh. Có lẽ hứng thú chữa lại cuốn sách bị hư hỏng này của anh sẽ mở rộng thành việc chữa lành những thiếu sót trong di truyền nòi giống của anh, giúp anh có thể tìm thấy sự bình yên bên người Cha đã cho anh cuộc sống và hơi thở. Cầu Chúa canh giữ cho linh hồn anh, gửi tới anh lòng yêu mến từ người bạn Yehuda của thành phố thần thánh Praha, con trai của Bezalel, ngày 2 tháng Elul 5369.
“Đó là tất cả ư?” Skovajsa nói sau một khoảng ngừng thật lâu. “Nó chỉ nói về một cuộc gặp mặt thôi ư?”
“Về bản chất là thế.” Knox làm một loạt tính toán chớp nhoáng trên mặt sau của tập thư mục. Loew ch.ết năm 1609, Kelley đến thăm ông ta vào mười tám năm trước, mùa xuân năm 1591. hắn lục tìm túi áo lấy điện thoại và nhìn vào màn hình với vẻ ghê tởm. “Ở đây không bắt được sóng à?”
“Chúng ta đang ở dưới lòng đất,” Skovajsa nói, nhún vai chỉ về phía mấy bức tường dày chắc chắn. “Vậy là tôi đã đúng khi kể với ông về thứ này à?” Lão ɭϊếʍƈ môi vẻ chờ mong.
“Ông làm tốt lắm, Pavel. Tôi sẽ lấy bức thư này và quyển sách.” Chúng là những món duy nhất Knox lấy đi từ thư viện Strahov.
“Tốt thôi. Tôi nghĩ nó xứng đáng với thời gian của ông, những thứ đề cập đến giả kim thuật.” Pavel cười nhăn nhở.
Chuyện xảy ra tiếp theo thật đáng tiếc. Skovajsa thật bất hạnh, sau nhiều năm cắm trụ, không thành công trong việc tìm được thứ đáng giá cho Knox, chỉ bằng vài tiếng thì thầm và một cử chỉ nhỏ, Knox đã chắc chắn rằng, Pavel sẽ không bao giờ có thể chia sẻ những gì lão đã thấy với một sinh vật khác nữa. Knox không giết lão vì những lý do đạo đức và tình cảm. Giết chóc là phản ứng của một ma cà rồng, như hắn biết từ việc tìm thấy Gillian Chamberlain bị dựng đứng tựa vào cửa phòng hắn tại khách sạn Randolph mùa thu vừa rồi. Là một phù thủy, đơn giản, hắn chỉ việc thả cho cục máu đông đã ẩn sẵn trong bắp đùi Skovajsa tự do di chuyển lên trên não của lão. một khi ở đó, nó sẽ gây ra một cơn đột quỵ. sẽ mất vài giờ trước khi có người tìm thấy lão, và khi đó thì đã quá muộn để có kết quả tốt lành.
Knox quay trở về chỗ chiếc ô tô đã thuê cùng với cuốn sách sánh ngang với kinh thánh và lá thư được kẹp chặt an toàn dưới cánh tay. Khi đã đi đến đủ xa khỏi những rắc rối ở Strahov, hắn táp vào vệ đường và lấy lá thư ra bằng hai bàn tay run lẩy bẩy.
Mọi điều Đại Hội Đồng biết về cuốn sách bí ẩn của khởi nguyên – Ashmole 782 – là dựa trên những mẩu manh mối như thế này, bất cứ phát hiện mới nào đều làm tăng thêm rất nhiều hiểu biết cho bọn họ. Và lá thư này còn chứa đựng nhiều hơn một đoạn miêu tả ngắn gọn về cuốn sách cùng vài manh mối úp úp mở mở về sự quan trọng của nó. Ở đây có tên tuổi, ngày tháng và một tiết lộ đáng kinh ngạc rằng, cuốn sách Diana Bishop đã xem ở Oxford đã bị thất lạc mất ba trang.
Knox xem lướt qua lá thư một lần nữa. hắn muốn biết nhiều hơn nữa – để chắt lọc mọi thông tin hữu ích tiềm ẩn từ nó. Lần này, những câu từ chắc chắn là rõ nghĩa: thiếu sót trong di truyền nòi giống của anh; người Cha đã cho anh cuộc sống và hơi thở; người tạo ra anh. Lần đầu tiên đọc, Knox cho rằng Loew đang nói về Chúa, nhưng đến lần thứ hai, hắn đi đến một kết luận hoàn toàn khác. Knox nhấc điện thoại và bấm một con số duy nhất.
“Oui.”
“Ai là Benjamin be Gabriel?” Knox hỏi độp ngay.
một khoảng im lặng hoàn toàn.
“Chào Peter,” giọng Gerbert xứ Aurillac cất lên. Bàn tay rảnh rỗi của Knox co lại thành nắm đấm trước lời đáp trả ôn tồn kia – phản ứng quá điển hình đối với những ma cà rồng trong Đại Hội Đồng. Chúng nói chuyện về sự chân thành và hợp tác, nhưng chúng đã sống quá lâu và biết quá nhiều. Giống như tất cả những con dã thú săn mồi, chúng không hề vui vẻ khi chia sẻ những miếng mồi săn được.
“Benjamin ngấu nghiến như một con sói. Tôi biết Benjamin ben Gabriel là một ma cà rồng. hắn là ai?”
“Chẳng quan trọng đâu.”
“Ông biết chuyện gì đã xảy ra ở Praha vào năm 1591 không?” Knox gặng hỏi.
“Rất nhiều chuyện, nhưng ông bạn không thể hy vọng tôi thuật lại từng sự kiện, như một thầy giáo dạy lịch sử được.”
Knox nghe thấy một sự rung động nhẹ trong giọng nói của Gerbert, điều mà chỉ người hiểu rõ gã ma cà rồng mới nắm bắt được. Gerbert, tên ma cà rồng đáng kính không bao giờ lỡ lời, đang bồn chồn lo lắng.
“Trợ lý của tiến sĩ Dee, Edward Kelley, đã có mặt ở thành phố này năm 1591.”
“Chúng tôi đã biết chuyện này trước đây. Đó là sự thật. Đại Hội Đồng từng tin rằng, Ashmole 782 có thể nằm trong thư viện của Dee, nhưng tôi đã gặp Edward Kelley ở Praha, khi những nghi ngờ đó lần đầu được khơi lên vào mùa xuân năm 1586. Tiến sĩ Dee có một cuốn sách đầy những hình ảnh nhưng nó không phải của chúng ta. Sau đó, chúng tôi đã lần theo mọi thứ có xuất xứ từ thư viện của Dee để chắc chắn. Như vậy, Elias Ashmole không sở hữu cuốn cổ thư thông qua Dee hay Kelley.”
“Ông sai rồi, Kelley đã có cuốn sách vào tháng Năm năm 1590.” Knox ngừng một chút. “Và hắn đã xé nó. Cuốn sách Diana Bishop thấy ở Oxford đã bị thất lạc ba trang.”
“Ông biết gì không Peter?” Gerbert lạnh lùng hỏi.
“Ông biết gì hả Gerbert?” Knox không thích gã ma cà rồng này, nhưng bọn họ là đồng minh đã nhiều năm. Cả hai gã đàn ông đều hiểu rằng, một biến cố thay đổi lớn sắp xảy ra cho thế giới. Hậu quả là sẽ có người thắng kẻ thua, không kẻ nào muốn bị gạt ra ngoài.
“Benjamin be Gabriel là con trai của Matthew Clairmont,” Gerbert miễn cưỡng nói.
“Con trai hắn?” Knox điếng người lặp lại. Benjamin de Clermont không nằm trên bảng phả hệ ma cà rồng trau truốt nào mà Đại Hội Đồng lưu giữ.
“Đúng, nhưng Benjamin đã chối bỏ dòng máu của mình. Đó không phải chuyện mà một ma cà rồng làm được một cách nhẹ nhàng đâu, vì các thành viên còn lại của gia tộc có thể giết ch.ết hắn để bảo vệ những bí mật của họ. Matthew đã cấm bất cứ người de Clermont nào tước đoạt sự sống của con trai hắn và không ai còn thấy tung tích của Benjamin kể từ thế kỷ mười chín, khi hắn biến mất ở Jerusalem.”
Đoạn kết đã vượt ra khỏi thế giới của Knox. Matthew Clairmont không được phép có Ashmole 782, không thể - nếu nó nắm giữ toàn bộ tri thức cốt lõi nhất của loài phù thủy.
“Vậy thì chúng ta sắp phải tìm hắn rồi,” Knox nói dứt khoát, “bởi vì theo như lá thư này, Edward Kelley đã xé ra ba trang sách. một trang hắn tặng Rabbi Loew, người đã chuyển nó cho một kẻ nào đấy tên Abraham be Elijah của Chelm.”
“Abraham be Elijah một thời từng là một phù thủy rất quyền năng. Loài các ông không biết gì về lịch sử của chính mình sao?”
“Chúng tôi biết rằng không được tin tưởng ma cà rồng. Tôi luôn gạt bỏ định kiến đó coi nó như thói đạo đức giả, nhưng không phải là lịch sử, giờ tôi không dám chắc nữa.” Knox ngừng một lát. “Loew đã bảo Benjamin hỏi xin sự giúp đỡ của cha hắn. Tôi biết nhà de Clermont đang giấu giếm điều gì đó. Chúng ta phải tìm ra Benjamin de Clermont và khiến hắn nói cho chúng ta biết những gì hắn – và cha hắn – biết về Ashmole 782.”
“Benjamin de Clermont là một gã trai trẻ thất thường, bị hành hạ khổ sở vì cùng căn bệnh mà chị gái Louisa của Matthew mắc phải.” Ma cà rồng gọi nó là bệnh cuồng máu, và Đại Hội Đồng băn khoăn liệu căn bệnh này có phần nào liên quan tới cơn bệnh mới đang hành hạ loài ma cà rồng hay không – nó dẫn tới cái ch.ết của rất nhiều sinh vật máu nóng sau khi các ma cà rồng thất bại trong nỗ lực tạo ra ma cà rồng mới.
“Nếu thật sự có ba trang sách bị mất từ Ashmole 782, thì chúng ta sẽ tìm thấy chúng mà không cần sự giúp đỡ của hắn, cách đó sẽ tốt hơn.”
“không, đã đến lúc loài ma cà rồng phải mang các bí mật của chúng ra rồi.” Knox biết thành công hay thất bại của kế hoạch có lẽ phụ thuộc cả vào cái nhánh không vững chắc của cây phả hệ nhà de Clermont này. hắn nhìn lá thư lần nữa. Loew nói rõ rằng ông ta không chỉ muốn Benjamin chữa lành cuốn sách mà còn cả mối quan hệ với gia đình hắn. Matthew Clairmont có thể biết về vụ này nhiều hơn là chúng từng nghi ngờ.
“Tôi cho là ông sẽ muốn đi ngược thời gian tới Praha thời Rudolphine ngay bây giờ để tìm kiếm Edward Kelley,” Gerbert gầm gừ, cố kìm một tiếng thở dài nôn nóng. Loài phù thủy có thể rất bốc đồng.
“Ngược lại là khác, tôi sẽ tới Sept-Tours.”
Gerbert cười khẩy. Gây sóng gió ở lâu đài của gia tộc de Clermont là ý tưởng còn nực cười hơn quay trở về quá khứ.
“Chuyện đó dù có hấp dẫn đến mấy cũng chẳng khôn ngoan chút nào. Baldwin mắt nhắm mắt mở cho qua chỉ vì mối bất hòa giữa hắn và Matthew.” Theo như Gerbert còn nhớ, chiến lược thất bại duy nhất của Philippe đấy là việc trao dòng tu Hiệp Sĩ Thánh Lazarus cho Matthew chứ không phải người con trai lớn vẫn luôn nghĩ được quyền thừa kế vị trí ấy. “Hơn nữa, Benjamin không còn coi bản thân là một người nhà de Clermont – và nhà de Clermont không tin hắn là một trong số chúng. Sept-Tours mới là nơi cuối cùng chúng ta nên tìm hắn.”
“Theo như tất cả những gì chúng ta biết, Matthew de Clermont đã có được một trong các trang sách bị mất từ nhiều thế kỷ nay. Cuốn sách không có tác dụng gì với chúng ta nếu nó không hoàn chỉnh. Hơn nữa, đã đến lúc ma cà rồng đó phải trả giá cho những tội lỗi của hắn – và cho cả cha mẹ hắn nữa.” Bọn chúng phải cùng nhau chịu trách nhiệm cho cái ch.ết của hàng ngàn phù thủy. Hãy để loài ma cà rồng lo việc xoa dịu Baldwin. Công lý đã đứng về phía Knox.
“Đừng quên tội lỗi của người tình hắn,” Gerbert nói, giọng lão hằn học. “Tôi đã mất Julliette. Diana Bishop nợ tôi một sự sống mà ả đã tước đi.”
“Vậy là ông sẽ giúp tôi?” Bằng cách nào thì Knox chẳng quan tâm, hắn sẽ dẫn một nhóm phù thủy bất ngờ đột kích tấn công nhà de Clermont hùng hậu trước cuối tuần này, cho dù có sự giúp đỡ của Gerbert hay không.
“Phải,” Gerbert miễn cưỡng đồng ý. “Ông biết đấy, bọn chúng đều tụ họp về đó cả, phù thủy, ma cà rồng, thậm chí còn có vài yêu tinh nữa. Chúng tự gọi là Đại Hội Đồng Ngầm. Marcus đã gửi một thông điệp tới các ma cà rồng ở Đại Hội Đồng yêu cầu bãi bỏ hiệp ước.”
“Những điều đó có nghĩa là…”
“Tận thế của chúng ta,” Gerbert nói nốt hộ hắn.