Chương 9
Elissande gói ghém đồ đạc, trước là trong phòng cô, sau đến phòng dì cô. Thỉnh thoảng dì Rachel thức giấc vào giữa đêm và uống thêm một lượng cồn thuốc phiện, mỗi lần như thế bà thường khó thức dậy vào buổi sáng và Elissande cần phải ngăn cản việc đó.
Cô thu xếp đồ đạc xong lúc năm giờ kém mười lăm. Cô bắt đầu đánh thức dì cô dậy lúc năm giờ. Dì Rachel mơ hồ và uể oải. Nhưng Elissande đã quyết tâm. Cô hoàn tất việc tắm rửa buổi sáng như mọi ngày cho dì Rachel, bón cho bà ăn một miếng lớn bánh pút-đinh, và đánh răng cho bà.
Không phải chờ đến khi cô lấy quần áo ra dì Racheal mới nhận ra đây không phải là một ngày bình thường trong gia đình Douglas.
“Chúng ta sẽ ra đi”, Elissande trả lời câu hỏi không thành lời của dì Rachel.
“Chúng ta”, dì Rachel nói, giọng khàn khàn.
“Vâng, cháu và dì. Cháu sẽ kết hôn và cháu cần dì giúp đỡ sắp đặt gia đình mới”.
Dì Rachel siết chặt tay Elissande trong tay mình. “Kết hôn? Với ai?”
“Nếu dì ốn gặp anh ấy, mặc quần áo và đi với cháu”.
“Chúng... chúng ta đi đâu?”
“London”. Quý bà Kingsley đã nói với Elissande rằng sẽ giúp cô xin giấy phép kết hôn từ một vị giám mục ở London.
“Chú... chú cháu có biết không?”
“Không”.
Dì Rachel run rẩy. “Nếu... chuyện gì sẽ xảy ra khi ông ấy phát hiện ra?”
Elissande ôm dì cô. “Chồng chưa cưới của cháu là một hầu tước. Chú cháu không thể làm hại cháu khi cháu đã kết hôn. Bây giờ dì đi với cháu và dì không bao giờ phải nhìn mặt ông ta lần nữa. Ngài Vere sẽ bảo vệ chúng ta”.
Dì Rachel run rẩy dữ dội hơn. “Cháu... cháu chắc không, Ellie?”
“Có ạ”. Cô là một kẻ nói dối kinh khủng: Nụ cười là sự dối trá giỏi nhất của cô, nhưng cô không bẻ cong lời nói. “Chúng ta có thể đặt toàn bộ lòng tin vào ngài Vere. Anh ấy là một hoàng tử giữa những người đàn ông”.
Cô không biết cô có thuyết phục được dì Rachel hoàn toàn hay không. Nhưng dì Rachel trở nên mềm dẻo đủ để Elissande không gặp khó khăn gì khi mặc cho bà chiếc váy lụa buổi sáng màu xanh lá cây nhạt viền voan trắng, và một chiếc mũ nhung xanh đồng bộ.
Thật không may, quần áo bình thường chỉ nhấn mạnh vẻ xanh xao thảm não và mỏng manh như cái que của dì cô, như thể bà luôn khao khát được vô hình - nhưng bà trông cũng tạm ổn. Vì dì Rachel, Elissande chỉ có thể cầu nguyện rằng ngài Vere sẽ có vẻ đáng nể bằng một nửa những gì cô tô vẽ.
Dì Rachel giật bắn người khi gặp người cháu rể tương lai. Elissande có thể quy cho biểu hiện đó là cảm giác vui mừng kinh ngạc. Dưới con mắt của một người lạ, cô không thể chối bỏ rằng anh là một người đàn ông có vẻ ngoài rất ấn tượng.
Anh mặc đẹp: tất cả những khuy áo cài đúng khuyết, quần không lấm bẩn thức ăn, và cà vạt không lệch chút nào. Anh nói rất ít, ở mức tối thiểu, vì đang choáng váng đến mức câm lặng bởi sự tàn khốc của hoàn cảnh, cô không nghi ngờ gì. Và anh nghiêm trang tuyên bố rằng anh vinh dự và vui mừng được ‘nắm tay cô Edgerton đi đến hôn nhân’, trong khi cô đã nhét sâu bàn tay đó vào trong cổ họng anh.
Anh dành cho cô một cái nhìn, lướt nhanh cả người cô. Cô mặc một chiếc váy len mỏng màu xám đoan trang, không phải để thể hiện với ngài Vere rằng cô là kiểu đàn bà nào. Cô chợt nghĩ có lẽ mình không cần phải trần truồng hoàn toàn, chỉ cần bị bắt quả tang nằm trong vòng tay anh với bộ đồ lót là quá đủ.
Thay vào đó anh đã nhìn thấy cô trọn vẹn.
Cô nuốt nghẹn, nhìn xuống, và vui sướng khi quý bà Kingsley ra lệnh cho mọi người vào xe.
Vere và Freddie ngồi trong một khoang tàu riêng, tránh xa những người phụ nữ. Anh ngủ trong khi Freddie vẽ phác thảo bên cạnh. Đến London, quý bà Kingsley nhắc nhở anh không được đi quá xa nhà, để cô có thể thông báo giờ và địa điểm làm đám cưới.
Phụ nữ bỏ đi làm những việc mà họ phải chuẩn bị cho một lễ cưới sắp đến. Vere từ chối lời đề nghị bầu bạn của Freddie và gửi lời nhắn Holbrook đến gặp anh ở đúng nơi ẩn náu họ đã gặp lần cuối.
Nhà thổ, tên gọi đùa cho nơi ẩn náu đặc biệt này, luôn làm Vere buồn cười với những màu sắc kém tinh tế và những nỗ lực đầy vụng về để ra vẻ thanh lịch.
Nhưng hôm nay tấm thảm giả da hổ và ánh đèn tím làm anh nhức mắt và nhức tồi tệ.
Holbrook đến rất nhanh. Vere quăng tập hồ sơ mật mã hóa xuống. “Từ tủ bí mật của Douglas. Nó là của anh trong ngày hôm nay”.
“Cám ơn, thưa ngài. Rất tốt, như mọi khi”, Holbrook nói. “Tôi sẽ sao chép nó lại ngay”.
Anh đưa cho Verc một ly Poire Williams – rượu brandi hoa quả yêu thích nhất của Holbrook. “Tôi hiểu rằng tiếp theo sẽ là lời chúc mừng”.
Vere kìm chế không nhắc Holbrook rằng anh ta khó có lý do để chúc mừng đám cưới của người khác, vì quý bà Holbrook quá cố đã từng đâm một dao vào anh ta. “Cám ơn, thưa ngài”.
“Chuyện gì đã xảy ra?”
Vere đốt một điếu thuốc, hút một hơi, và nhún vai.
“Không phải giây phút tự hào nhất trong một sự nghiệp xuất sắc khác, đúng không?” Holbrook rề rà bình luận.
Vere búng tàn thuốc lá vừa mới hình thành trên điếu thuốc.
Holbrook chơi với những sợi tua dua của vải bọc ghế. “Cháu gái của kẻ tình nghi, không khác hơn”.
“Sức lôi cuốn của tôi là toàn năng”. Vere uống cạn ly. Chuyện phiếm đã đủ. “Douglas đã từng sống cùng một người họ hàng ở London đúng không?”
“Đúng thế. Bà John Watts, phố London, đảo Jacob”. Holbrook sở hữu một trí nhớ chính xác. “Nhưng bà ấy đã ch.ết lâu rồi”.
“Cám ơn”. Vere đứng lên từ ghế. “Tôi sẽ tự đi”.
“Trong ngày cưới của mình? Anh có chắc không?”
“Anh có thể làm gì khác trong ngày này? Gái gú và chè chén? Uống đến say bí tỉ? Hút thuốc phiện?”
“Sao lại không”, anh nhẹ nhàng nói. “Còn cách nào tốt hơn để hưởng thụ ngày hôm nay và tất cả những gì sẽ đến cùng với nó?”
“Em vẫn không thể tin được. Penny kết hôn”, Angelica Carlisle, người bạn thân quen nhất của Freddie vừa nói vừa cười nắc nẻ.
Cô và Freddie đang uống cà phê, một thói quen mới học từ Mỹ của cô, trong phòng khách của ngôi nhà thành phố đã từng thuộc về mẹ cô.
Freddie đã tham dự rất nhiều tiệc trà và bữa tối ở đây, đọc gần hết sách trong phòng làm việc, và thường xuyên đến chơi vào Chủ Nhật, ngày trong tuần chỉ dành riêng cho gia đình và những người bạn thân nhất. Angelica đã nhắc đến những thay đổi về nội thất cô định thực hiện đối với ngôi nhà này. Nhưng cô vẫn còn đang sắp xếp cho ổn định - cô trở lại Anh mới được một tháng. Ngôi nhà không thay đổi gì. Và không gian quá quen thuộc của ba lăm năm trước - giấy dán tường hoa hồng và dây thường xuân ấm cúng đã phai màu, những bức tranh màu nước của một người dì không chồng đã qua đời từ lâu được giữ gìn cẩn thận, những chiếc đĩa tưởng niệm hai lăm năm trị vì của Nữ hoàng – khiến cho sự khác biệt ở con người cô càng gây giật mình hơn.
Anh luôn nghĩ cô dễ nhìn, khỏe khoắn và nét mặt mạnh mẽ, ấn tượng hơn là xinh đẹp. Nhưng suốt những năm sống trong cuộc hôn nhân ngắn ngủi và thời kỳ góa bụa, cô đã có được sức quyến rũ của riêng mình. Thay vì đôi mắt luôn lanh lợi mở to như anh vẫn nhớ, giờ mí mắt trĩu xuống và đầy bí ẩn. Nụ cười của cô, luôn hơi cong lên ở một khóe miệng, theo cách nào đó cũng tỏa ra đầy nhục cảm, như thể trong khi cư xử với vẻ nghiêm trang hoàn hảo, cô cũng nung nấu những suy nghĩ tinh quái bên dưới vẻ ngoài đứng đắn đó.
Và anh, với sự thất kinh của mình, bắt đầu nghĩ về cô như một đối tượng của khao khát lần đầu tiên trong đời. Angelica, người đã luôn giống như một người em với anh, một người em gái phiền phức, quá thành thật và không thương tiếc nói với anh rằng người thợ may của anh bị mù và bất tài, rằng anh cần chải răng trong ít nhất là ba phút, và rằng nếu anh uống hơn hai giọt sâm-banh, anh không được phép nhảy điệu van-xơ vì sự an toàn của mọi người.
Cô nhấp một ngụm cà phê, cười tấm tắc và lắc đầu. Một lọn tóc lỏng lẻo khéo léo vuốt ve cằm cô, mang đến nét mềm mại mới cho khuôn mặt góc cạnh. Như nhận thấy sự thu hút của lọn tóc đối với anh, cô kéo thẳng nó giữa hai ngón tay, rồi thả ra.
Bằng cách nào đó cô đã thấm đẫm sức hút của quyền lực mới, sự quyến rũ của một Eva vào một cử chỉ nhỏ như thế.
Anh nhận ra mình đã không trả lời và vội vã nói. “Penny hai chín tuổi rồi. Anh ấy cần phải kết hôn”.
“Tất nhiên là thế. Là vì em sửng sốt với vụ tai tiếng đó. Cho dù em có thể đảo tròn mắt trước những trò vui của anh ấy, Penny không phải là người tự gây phiền phức gì quá lớn cho chính mình”.
“Anh biết”, Freddie nói. “Có lẽ anh không nên lơi lỏng đề phòng”.
Anh mười lăm tuổi khi vụ tai nạn cưỡi ngựa của Penny xảy ra. Đó là một tuần mùa hè hiếm hoi họ không ở cạnh nhau: anh ở với họ hàng bên người mẹ quá cố của mình ở Biarritz, Penny ở Aberdeenshire với quý bà Jane, bà cô đằng nội của họ.
Trong vài tháng đầu tiên sau tai nạn cua Penny, Freddie đã lo lắng đến phát ốm. Nhưng sau một thời gian, Penny không còn cần đến một cô bảo mẫu chăm sóc anh cả ngày lẫn đêm, dù anh không còn có thể minh mẫn để nghiên cứu lịch sử của Ủy ban người nghèo, hay thực hiện một bài thuyết giảng đầy sức thuyết phục về việc trao quyền bầu cử cho phụ nữ nữa. Đó là một ơn huệ nhỏ bé trong bước ngoặt tàn khốc của số phận, mà sự bất công của nó vẫn còn ám ảnh Freddie. Người anh dũng cảm, tài giỏi của anh, người thường nhận hết lỗi của Freddie về mình trước người cha độc ác của họ, và người có thể có một vị trí quan trọng trong Nghị viện, chỉ còn là một chuyên gia tầm thường trong những nhu cầu hàng ngày của mình.
“Anh không cho rằng cô Edgerton theo đuổi Penny chỉ vì tước hiệu và tài sản của anh ấy”.
“Chú của cô ấy có một mỏ kim cương ở Nam Phi và không có con cái. Anh không nghĩ cô ấy theo đuổi Penny vì tài sản, ít nhất là thế”.
Angelica lấy một mẩu bánh Madeira. Anh quan sát cô lơ đãng lau bơ của chiếc bánh béo ngậy còn lại trên ngón tay, gần giống như là cô đang vuốt ve chiếc khăn ăn. Anh tưởng tượng những ngón tay cô vuốt ve anh thay vào đó.
“Vậy anh nghĩ gì về cô Edgerton này?” cô hỏi.
Anh phải kéo đầu óc ra khỏi những suy nghĩ khêu gợi, và đôi khi cực kỳ trần trụi mà gần đây anh thường nghĩ tới, những suy nghĩ không bao giờ không liên quan đến Angelica đang trong tình trạng thoát y. “Cô Edgerton, à, ừm, cô ấy xinh đẹp, đáng yêu và hay cười. Nhưng không nói nhiều, ngoại trừ khi tán đồng với những gì mà bất kỳ ai đang nói”.
“Thế thì sẽ phù hợp với Penny. Anh ấy thích mọi người đồng ý với mình”.
Điều không ai trong họ nói ra cũng bởi xuất phát từ lòng yêu mến Penny, rằng Penny nhiều nhất cũng chỉ có thể hy vọng lấy được một cô gái có trí thông minh trung bình và không nhiều suy nghĩ độc đáo.
“Đã mười ba năm kể từ tai nạn của anh ấy”, Angelica nói. “Thật đáng nể vì anh ấy đã xoay xở tốt. Anh ấy cũng sẽ xoay xở được với việc này thôi”.
Freddie mỉm cười với cô. “Em nói đúng. Anh nên có thêm lòng tin”.
Họ không nói gì trong khoảng một phút, cô nhấm nháp một mẩu bánh Madeira khác, anh xoay một chiếc bánh quy hạnh nhân trong những ngón tay.
“À”, họ nói gần như cùng một lúc.
“Em trước đi”, anh đề nghị.
“Không, không, anh nói trước. Anh là khách của em”.
“Anh... anh ốn nhờ em giúp đỡ một việc”, anh nói.
“Trong suốt những năm quen biết anh, em nhớ chưa có lần nào anh nhờ tới sự giúp đỡ của em. Em thừa nhận chuyện đó là do em thường xuyên áp đặt ý kiến và mong ốn của mình lên anh”. Mắt cô lấp lánh. “Nhưng làm ơn nói tiếp đi; em đang cực kỳ ngạc nhiên đó”.
Anh yêu cái miệng của cô khi nó mỉm cười biết bao. Tại sao trước đây anh chưa bao giờ chú ý đến sức hấp dẫn của nụ cười sắp nở đó nhỉ?
“Anh nhìn thấy một bức tranh thú vị ở nhà cô Edgerton. Không ai biết danh tính của họa sĩ. Anh tin rằng anh đã nhìn thấy một tác phẩm có phong cách và xu hướng như thế. Nhưng anh không thể nhớ khi nào và ở đâu”, anh nói. “Anh tin tưởng vào trí nhớ cũng như kiến thức siêu phàm của em trong những chuyện như thế này”.
“Ừm, những lời khen tặng. Em mê mẩn những lời khen tặng. Nịnh bợ sẽ giúp anh được việc, anh chàng ạ”.
“Em biết là anh không biết cách nịnh bợ mà”. Mười năm trước Angelica đã từng là một người đặc biệt sảnh sỏi với nghệ thuật. Bây giờ, cô là một người rất uyên thâm trong lĩnh vực này. “Anh đã chụp vài tấm ảnh của bức tranh đó. Anh có thể đưa em xem sau khi đã rửa chúng không?”
Cô nghiêng đầu sang một bên và nghịch với lọn tóc ở cằm lần nữa. “Nhưng em vẫn chưa đồng ý giúp anh. Trước tiên, em nghĩ là em muốn nghe câu trả lời với yêu cầu giúp đỡ của em. Em đã đợi câu trả lời này nhiều tuần rồi, anh nhớ không?”
Và cũng nhiều tuần rồi anh đã không thể nghĩ đến chuyện gì khác ngoài nó.
Anh đỏ mặt dù không muốn thế. “Em nói đến bức chân dung?”
Bức tranh khỏa thân cô muốn anh vẽ mình. Khi anh khẳng định với Penny rằng nghiên cứu vóc dáng của phụ nữ chẳng có gì ɖâʍ dục, đầu anh đã tràn ngập những hình ảnh đầy ɖâʍ dục của Angelica rồi.
“Phải, chính nó”.
Cô thẳng thừng và gần như thản nhiên, trong khi anh cảm thấy lúng túng, lạ lẫm và quá ấm áp.
“Em biết rằng anh không phải là một chuyên gia về miêu tả con người”.
“Anh luôn luôn quá khiêm tốn, Freddie thân mến. Em sẽ không yêu cầu anh nếu em không có lòng tin vào khả năng của anh. Em đã nhìn thấy những tác phẩm anh vẽ, anh rất giỏi trong việc miêu tả con người”.
Cô nói đúng, mặc dù sở thích của anh không phải vẽ chân dung. Khi còn nhỏ, anh vốn là một đứa bé vụng về có thiên hướng tự làm mình bị thương, và vì thế anh luôn bị giữ trong nhà trong khi việc anh mong mỏi nhất là được ra ngoài, chạy nhảy, lộn nhào và lộn nhào, hay chỉ đơn giản là nằm trên cỏ và quan sát sự thay đổi màu sắc của bầu trời. Vẽ chân dung người nghĩa là phải vẽ trong phòng, trong khi anh thích ở ngoài trời, nắm bắt màu kem hồng rực rỡ của cây anh đào đang nở rộ hoa hay những cảm xúc khó định hình ở một bữa tiệc dã ngoại.
Nhưng khi anh nhìn cô, anh đã bắt đầu tính toán trong đầu tỷ lệ pha trộn giữa màu đất Naples và màu đỏ son, thêm một chút trắng bạc nữa để giống với làn da hồng hào, khỏe mạnh của cô.
“Em đã nói bức tranh là để dành cho bộ sưu tập riêng của em?”
“Đó là ý định của em”.
“Vậy em sẽ không triển lãm nó?”
“Quá quan tâm đến danh dự cho em đấy.” Cô mỉm cười đùa cợt. “Tại sao không bảo em vẽ tranh bán khỏa thân cho đứng đắn?”
“Anh cần một lời hứa”.
Anh vốn là một người dễ dãi. Nhưng anh sẽ không nhường bước trong chuyện này.
“Em muốn có một thứ ghi nhớ tuổi trẻ của mình, để một ngày nào đó em có thể nhìn lại và thở dài trước sắc đẹp đã mất. Em trang trọng hứa với anh rằng không những em sẽ không triển lãm ở bất kỳ đâu, mà em cũng không trưng bày nó trong chính nhà mình. Thay vào đó, em sẽ để nó trong một thùng kín, và không mở ra cho đến khi em nhìn thấy một mụ phù thủy xấu xí trong gương”. Cô mỉm cười lần nữa. “Như thế thỏa mãn anh chưa?”
Anh nuốt nghẹn. “Vậy được rồi. Anh sẽ làm”.
Cô đặt tách trà xuống và nhìn thẳng vào anh. “Trong trường hợp đó, em thấy mình rất sẵn lòng để giúp anh truy lùng lai lịch bức tranh bí ẩn kia”.
Bà Watts đã ch.ết được một phần tư thế kỷ. Vere cho rằng anh quá may mắn khi tìm được người đã từng biết bà ta, chỉ trong vài giờ.
Cuộc tìm kiếm đưa anh từ Bermondsey đến Seven Dials. Chỉ cách những dinh thự hoành tráng của Mayfair một dặm, Seven Dials từng nổi tiếng vì tội phạm và nghèo đói trong suốt những năm đầu thế kỷ. Gần đây, tình trạng của Seven Dials đã được cải thiện nhiều, mặc dù Vere vẫn không thích phiêu lưu trên những đường phố của nó vào ban đêm.
Nhưng bây giờ đang là thanh thiên bạch nhật. Ngõ St.Martin dẫn vào khu này đang láo nháo bởi lũ chim, những người chơi chim của London hay tụ tập ở đây. Anh đi qua một cửa hàng đầy rẫy những con chim hót ở trong lồng: chim sẻ ức đỏ, chim chiền chiện, và chim sáo đá, tất cả đều đang chiêm chiếp và líu lo một cách náo động. Một cửa hàng khác lại bày đầy những lồng chim bồ câu béo đang kêu gù gù. Diều hâu, cú và vẹt rống lên những tiếng chói tai. Anh thấy dễ chịu khi đi đến một khu vực chuyên bày bán những sinh vật ở dưới nước và thỏ, cả hai đều im lặng một cách đáng mừng.
Vere gõ cửa, một người đàn ông khoảng sáu mươi lăm tuổi, to lớn, râu rậm, tóc và hàng râu quai nón màu muối tiêu xuất hiện. Ông ta đứng sau cánh cửa hé mở, lo lắng săm soi Vere. Vere đã thay trang phục. Bây giờ anh là một tên đánh xe bò lực lưỡng với một hàng râu quai nón xum xuê sánh ngang với râu của Dooley.
Bộ quần áo lao động thô ráp bốc mùi đúng như chúng phải thế: mùi của ngựa và bia, nồng nặc như nhau.
“Cậu là ai? Tại sao cậu lại hỏi về bà Watts?” xuất thân Ai-len của Dooley bộc lộ rõ ràng trong giọng nói.
Vere trả lời bằng giọng điệu của vùng Liverpool. “Bà Watts là dì của cha tôi. Mẹ tôi nói với tôi như thế. Cha tôi bỏ đến London để sống với bà Watts.”
Mắt Dooley mở lớn. “Nhưng Ned vẫn còn là một cậu bé khi cậu ta đến sống với bà ấy, chắc chắn thế. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cậu ta. Nhưng bà Watts nói rằng cậu ta mới mười bốn tuổi khi đến và bỏ đi khi mười sáu tuổi”.
“À, ông ấy có tôi trước khi rời khỏi Liverpool. Ít nhất ông ấy khiến mẹ tôi nghĩ thế.”
Dooley lùi lại. “Thế thì vào đi. Tôi sẽ mời cậu một tách trà”.
Căn hộ chỉ có một phòng, một tấm rèm vàng mỏng treo ở giữa để ngăn cách chỗ tiếp khách và nơi ngủ. Dooley có một chiếc bàn có vẻ nặng nề đến ngạc nhiên, hai chiếc ghế, và một giá sách tự làm với những chồng báo gọn gàng và hai cuốn sách lớn, một trông như Kinh thánh, cuốn còn lại có lẽ là sách cầu nguyện.
Dooley rót nước từ một cái bình vào ấm và bỏ thêm vào đó một nắm lá trà, rồi móc cái ấm đun nước đó lên trên một chiếc đèn cồn. “Cậu vẫn ở với mẹ cậu?”
“Mẹ tôi mất hồi tháng Mười hai năm ngoái. Trước khi ch.ết bà nói với tôi về người cha ruột. Tôi đã hỏi thăm về ông ấy sau khi chôn cất mẹ mình”.
“Cậu may mắn đây, chàng trai”, Dooley nói trong lúc đứng cạnh chiếc đèn cồn. “Theo như lần cuối cùng tôi nghe được, cậu ta đã trở thành một người giàu có ở Nam Phi. Kim cương”.
Vere ngừng thở vài giây. Anh nhìn Dooley với cặp mắt đầy hy vọng. “Ông không đùa cợt tôi đấy chứ, ông Dooley?”
“Không. Lần cuối cùng tôi nhìn thấy Maggie, bà Watts của anh, bà ấy vừa nhận được một bức điện từ cậu ta. Cậu ta đã trở nên giàu sụ và đang trở về nhà để biến bà ấy thành một quý bà sang trọng. Những mong cậu biết rằng, tuy tôi mừng cho bà ấy, nhưng tôi cũng vô cùng thương tiếc cho bản thân mình. Tôi đang mong bà ấy kết hôn với tôi. Bà ấy hơn tôi vài tuổi nhưng là một người đàn bà tốt, Maggie Watts, và hát rất hay, thật đó. Nhưng bà ấy sẽ không muốn lấy một thủy thủ nghèo như tôi khi cháu trai bà ấy chuẩn bị xây một lâu đài tráng lệ ở vùng quê và đưa bà ấy đến diện kiến nữ hoàng, đúng không? Tôi bỏ đi đến San Francisco trên một chiếc tàu chạy bằng hơi nước. Và khi tôi trở lại...”, cằm Dooley bạnh ra. “Khi tôi trở lại, bà ấy đã ở trong lòng đất rồi”.
“Tôi rất lấy làm tiếc”. Vere không cần phải giả vờ thông cảm. Anh biết quá rõ, nỗi đau và sự hoang mang của mất mát.
Dooley không trả lời mà đặt hai chiếc tách xuống, chiếc không bị mẻ cho Vere, và cắt nửa ổ bánh mì đen. Mặc dù lá trà đã được đun với nước, nhưng trà Dooley rót ra khó có thể sẫm màu hơn nước chanh - giống như mọi thứ bán ở phố bên dưới, lá trà cũng là đồ đã dùng rồi.
“Cám ơn ông”, Vere nói và đón lấy tách trà.
Dooley nặng nề ngồi xuống. “Cho đến tận bây giờ nguyên nhân cái ch.ết của bà ấy luôn làm tôi băn khoăn”.
“Nếu ông không phiền, thưa ông, tôi muốn biết bà ấy ch.ết như thế nào?”
“Bản báo cáo của nhân viên điều tr.a nói rằng bà ấy ch.ết vì dùng quá nhiều chloral [ ]. Ngủ và không bao giờ thức dậy nữa. Tôi cố gắng nói với tay điều tr.a rằng bà ấy không bao giờ làm như thế. Bà ấy là người làm việc chăm chỉ và đến tối thì ngủ như ch.ết. Cậu nên nghe bà ấy ngáy. Tất nhiên, có nói thế cũng chẳng có ích lợi gì, hắn cứ làm như bà ấy là một phụ nữ buông thả. Tay điều tra, tên ngốc đó, nói rằng một người đàn bà sẽ cất những thứ kiểu đó đi trước khi tiếp đàn ông ở nhà, và tôi nên để nguyên nhân của cái ch.ết cho các nhà khoa học”.
[ ] HCl – axit hyđric, được dùng để làm thuốc ngủ và giảm đau.
“Ông không nghĩ đó là chloral?”
Khuôn mặt Dooley trở nên phiền muộn. “Tôi hỏi tất cả hàng xóm của bà ấy. Có hai cô gái trẻ. Họ nói bà ấy lạnh. Không phải lạnh cứng như đá mà lạnh thực sự, và vẫn còn thở khi họ tìm thấy bà ấy. Họ gọi bác sĩ, nhưng tên bác sĩ là một tên lang băm và không biết cái gì với cái gì”.
Ông ta đứng lên đi tới giá sách và lấy cuốn sách mà Vere đã nghĩ là sách cầu nguyện. Thực ra tiêu đề của nó là Thuốc độc: Tác dụng và Cách phát hiện – Sổ tay Sử dụng cho Chuyên gia và Nhà hóa học Giải tích. Dooley mở cuốn sách đến một phần đã quăn góc. “Tình trạng bà ấy đang ngủ, người lạnh dần đi là biểu hiện của chloral. Và nếu tên bác sĩ là một tay có trình độ, stricnic có thể cứu được bà ấy”.
Một tác dụng khác của stricnic là gây co giật cơ mạnh. Đây chính xác là thuốc giải độc khi dùng chloral quá liều, đồng thời hỗ trợ chức năng của tim và ngăn cơ thể hạ nhiệt quá thấp. Trong vụ Haysleigh, người bác sĩ đã sử dụng stricnic để cứu sống thành công quý bà Haysleigh, một vụ điều tr.a mà Vere đã cần tới rất nhiều sự giúp đỡ của quý bà Kingsley.
“Vậy rốt cuộc là chloral?”
“Đúng thế. Tôi đã thề trước quan tòa rằng bà ấy chưa bao giờ sử dụng nó lần nào. Nhưng tên nhân viên điều tr.a nói bà ấy có đến ba mươi gam, và thậm chí còn cho tôi xem cái chai đó”. Dooley đóng cuốn sách lại, cúi đầu. “Có lẽ tôi không hiểu bà ấy nhiều như tôi tưởng”.
“Tôi rất tiếc,” Vere nói lần nữa.
Khi anh uống một ngụm trà nóng mà gần như không có vị trà, anh đột nhiên nhớ lại một nhiệm vụ kéo dài liên quan đến một người đàn ông tên là Stephen Delaney. Delaney cũng đã ch.ết vì uống quá liều chloral. Nhưng vì Delaney không phải là một phụ nữ nghèo có cuộc tình vụng trộm mà nhân viên điều tr.a thấy kinh tởm, mà là một nhà khoa học khổ hạnh - không nói đến là em trai của một giám mục - cái ch.ết của anh ta đã nhận được rất nhiều sự quan tâm của các nhà luật pháp khi gia đình anh ta kịch liệt phản đối rằng anh ta không bao giờ cất trữ chloral.
Vụ điều tr.a đó đến giờ vẫn chưa có kết quả gì. Bảy năm sau, đến lúc Vere đọc tập hồ sơ, nó đã dày lên bởi một lớp bụi vì không được đụng đến trong một thập kỷ. Và ngay cả anh đã phải thừa nhận rằng, sau khi đọc xong, anh cũng không có manh mối gì để tiếp tục điều tra.
“Tôi lại thế rồi”, Dooley nói, “Nói mãi về Maggie tội nghiệp của tôi trong khi cậu muốn nghe về cha mình”.
“Nếu ông ấy là cha tôi, thì bà ấy là cô của tôi, bà cô của tôi”.
“Thì thế. Thì thế”. Dooley đặt bàn tay dày, chai sần lên cuốn sách về thuốc độc. “Nhưng tôi không thể kể thêm gì với cậu”.
“Không phải ông nói rằng ông ấy sẽ đến, gặp bà ấy và biến bà ấy trở thành một quý bà sang trọng sao?”
“Cậu ta chưa bao giờ đến. Tay thư ký đến, nhưng cậu ta thì chưa bao giờ”.
Vere phải đấu tranh để tỏ vẻ thất vọng. “Thư ký của ông ấy?”
“Đó là điều Fanny Nobb nói. Bà ấy nói một quý ông rất lịch thiệp đến gặp Maggie vài ngày trước khi bà ấy ch.ết. Cha cậu phải ở lại Kimberley, trông mỏ kim cương, vì thế cậu ta cử thư ký đến giải quyết những việc ở London. Tay thư ký đang tìm một ngôi nhà tráng lệ cho Maggie và đưa bà ấy đi mua mọi thứ bà ấy muốn. Có lẽ đó là lý do bà ấy cần chai chloral. Phấn khích đến nỗi không ngủ được”.
Trái tim Vere đập thình thịch. Thay vì Edmund Douglas quạu cọ, ‘một quý ông rất lịch thiệp’ đã đến thay ông ta. Và sau một thời gian ngắn bà Watts đã ch.ết vì một thứ mà người yêu bà ấy chắc chắn là bà ấy không bao giờ sử dụng.
Nếu nghi vấn của anh là đúng, nếu Douglas không phải đã vớ được mỏ kim cương nhờ vào may mắn, rồi theo chiều hướng đó, cơn đói thành công đã khiến ông ta lao vào những lĩnh vực làm ăn khác. Ông ta đang cố gắng chứng tỏ rằng mình thực sự làm ăn phát đạt mà không phải phạm tội, trừ khi ông ta không làm được.
“Sau đó cha tôi có đến dự tang lễ của bà Watts không?” Vere hỏi.
“Làm gì có đủ thời gian để trở về. Bà ấy ch.ết vào tháng Bảy, phải chôn rất nhanh. Nhưng anh ta đã gửi tiền về để lo chi phí đám tang, Fanny nói thế”.
“Người thư ký, ông ta cũng không đến đám tang à?”
“Tôi không thể trả lời với cậu vì lúc đó tôi đang ở San Francisco, say quắc cần câu”. Người đàn ông già thở dài. “Đã vài lần tôi định đi tìm cha cậu và kể với cậu ta về Maggie của tôi. Nhưng rồi lại thôi. Tôi chưa bao giờ giúp cậu ta chuyện gì, nên không muốn cậu ta nghĩ rằng tôi đang vòi tiền”.
Vere gật đầu và đứng lên. “Cám ơn, ông Dooley”.
“Xin lỗi tôi không thể kể với cậu nhiều hơn”.
“Ông đã kể cho tôi khá nhiều rồi, thưa ông”.
Dooley đưa tay ra cho Vere. “Chúc cậu may mắn, chàng trai trẻ”.
Vere bắt bàn tay thô ráp của Dooley, nhận ra rằng đây là lúc sự ngụy trang của anh có thể bị bóc trần: Anh không có bàn tay của một người lao động. Nhưng Dooley vẫn còn trong vòng kìm kẹp của quá khứ, không hề chú ý.
Đối với Dooley, công lý sẽ không bao giờ tồn tại, ông ta đã mất người phụ nữ mình yêu. Nhưng Vere có thể vẫn chưa khám phá ra toàn bộ sự thật về chuyện gì đã xảy ra với bà Watts.
Và đó là điều anh sẽ làm.