Quyển 2 - Chương 36
Cứ như thế, cuối cùng thương đoàn cũng tới được Tiểu Giang Nam.
Lúc trước, Thác Mộc Nhĩ đã cướp lại được một nửa hàng hóa, cứu về được năm nữ nhân Ba Tư.
Khi sắp tới Tiểu Giang Nam, bọn họ còn gặp Tư Văn nhưng cũng chẳng có đánh nhau gì lớn. Cứ khi có Cố Thập Tam và Tiểu Phó, Tư Văn thường sẽ không dám cướp hàng. Tiểu Phó đã từng cắt mất một tai của hắn, lại còn bắt hắn thề chỉ cần là thương đoàn do Tiểu Phó hộ tống, Tư Văn không được đụng chạm. Đây cũng là nguyên nhân tại sao Thác Mộc Nhĩ bất luận có phải bỏ ra bao nhiêu tiền cũng nhất định phải mời bằng được Tiểu Phó.
Thác Mộc Nhĩ từ biệt các đao khách, tiếp tục lên nơi hắn muốn tới là Ili, cách nơi đây không xa, dọc đường lại đã có trọng binh của quan phủ đóng quân.
Được Cố Thập Tam giúp đỡ, buổi chiều hôm ấy Hà Y đã tìm được một gian nhà cho thuê.
Đó là biệt viện của một người giàu có, có một cánh cửa riêng hướng ra đầu phố, sàn nhà còn lát lớp giữ nhiệt cho nên kể cả lúc lạnh giá nhất trong phòng vẫn cực kỳ ấm áp. Xung quanh tòa nhà là một dãy hành lang, ở giữa là một khoảnh sân không lớn không nhỏ, một miệng giếng, bốn phía có trồng dương liễu, cây dâu và cây hạnh. Những công trình phụ khác đều rất đầy đủ, bài trí trong nhà lại rất tinh tế, tuy còn xa mới sánh được với Trúc Ngô viện nhưng trên khắp dải đất này, nhà như thế cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay.
Người giàu có ấy thấy thuê tòa biệt viện này là hai người phương nam trông rất trầm tĩnh, lúc nói về tiền thuê cũng không nhiều lời nên trong lòng ông ta rất cao hứng, liền vui vẻ nhận lời mỗi ngày sẽ cung ứng cho phu thê hai người họ nước nóng và nước lạnh. Thế là mỗi ngày đều có người giúp việc tới giúp bọn họ múc nước trong giếng chứa đầy lu vại trong nhà bếp, đến nhá nhem tối lại có người đun sẵn nước nóng để tắm rửa.
Mộ Dung Vô Phong hôn mê trọn hai ngày, lúc tỉnh lại thì phát hiện bản thân đang nằm trên một cái giường mềm bằng gỗ tùng kê gần cửa sổ.
Khăn trải giường trắng như tuyết, tấm chăn trên mình cũng trắng muốt trong phòng ấm áp tới đáng ngạc nhiên, cửa sổ buông mành nhẹ nhưng còn để hở một khe nhỏ. Một luồng không khí trong lành mới mẻ sau trận tuyết theo khe hở ùa vào phòng, ánh nắng chói mắt xuyên qua giấy dán cửa trắng phau chiếu lên chăn của chàng.
Mộ Dung Vô Phong ngoảnh đầu lại, nhận ra bên giường còn có một lư hương thơm, lửa than tí tách cháy trong lư, hơi ấm chầm chậm tỏa, đem cái rét căm căm ngăn ở ngoài cửa.
“Tỉnh rồi sao?”, một giọng nói êm ái dịu dàng khẽ vang lên bên tai chàng, đồng thời một bàn tay nhỏ nhắn ấm áp áp vào má chàng.
Chàng quay đầu, cười với Hà Y: “Cuối cùng chúng ta cũng tới nơi rồi?”.
“Tới rồi. Chúng ta sẽ ở lại đây một thời gian.”
“Đây là nơi nào?”
“Tiểu Giang Nam. Là nơi có nhiều người Hán nhất vùng này. Người ở đây ngoài thịt dê ra thì còn ăn cả những thứ khác nữa”, Hà Y chớp chớp mắt nhìn chàng.
Chàng khó khăn gượng cười rồi lại nhíu chặt mày, toàn thân đau khôn tả. Lúc chàng hít thở, lồng ngực luôn đau buốt khó chịu.
“Đau lắm phải không?”, Hà Y ngồi xuống trước mặt chàng có chút lo lắng hỏi.
“Không cần lo”, chàng từ từ thở ra một hơi dài, cố gắng để lồng ngực phập phồng hít thở một cách bình thường, sau đó mới lại cười gượng.
“Cố Thập Tam mỗi ngày đều tới đây thăm chàng. Huynh ấy một mực muốn chờ chàng tỉnh lại”, Hà Y nói.
“Ta với hắn không hề thân thiết.”
“Xem ra, hẳn huynh ấy có việc muốn hỏi chàng.”
“Nói với hắn, hiện ta không cách nào dậy được”, Mộ Dung Vô Phong thử cử động, phát hiện quả thật mình chẳng nhúc nhích nổi, không khỏi cảm thấy có chút u buồn. Chàng trước giờ không nằm trên giường tiếp khách.
Hà Y nhẹ than một tiếng: “Lần này, chàng cứ ngoan ngoãn nằm yên trên giường đi”.
Mộ Dung Vô Phong khó khăn trùng trùng mới hớp được mấy ngụm canh gà rồi miễn cưỡng nuốt xuống nửa bát cháo. Nói chuyện với Hà Y một hồi, ngẩng đầu lên, qua khe hở rèm cửa sổ đã thấy Cố Thập Tam đứng trong sân viện.
“Hà Y, nhà này chỗ chúng ta trước giờ không khóa cửa sao?”
“Thiếp vừa đi mua thức ăn về, quên mất.”
“Nàng mời hắn vào đi.”
“Mời ai vào?”
“Cố Thập Tam.”
Hà Y đang định ra mở cửa, Mộ Dung Vô Phong đã gọi nàng lại.
“Nàng đỡ ta dậy khỏi giường trước đã. Lúc ta tiếp người khác, chí ít cũng phải ngồi trên ghế”, chàng nói.
Hà Y không để ý tới chàng, đẩy cửa, đi thẳng tới nói với Cố Thập Tam: “Tôi biết huynh có việc muốn tìm chàng, có điều hiện giờ chàng không thể tiếp khách”.
Cố Thập Tam hỏi: “Không phải huynh ấy tỉnh rồi sao?”.
“Nhưng chàng vẫn chưa thể ngồi dậy dược.”
“Không cần đa lễ, nằm nói chuyện cũng như nhau thôi.”
“Chàng không muốn nằm tiếp khách.”
Cố Thập Tam ngây ra, hỏi: “Đây là cái tật gì vậy?”.
“Tật của chàng rất nhiều, tôi cũng chẳng có cách gì.”
Hai người cứ đứng trong viện đôi co một lúc, chỉ nghe thấy trong phòng truyền ra một giọng nói cực mỏng, cực yếu ớt.
“Hai người không cần tranh cãi. Cố huynh, mời vào. Hà Y, đi pha trà đi.”
Hà Y giậm chân, chỉ đành tới nhà bếp đun nước.
Cố Thập Tam đẩy cửa phòng ngủ, thấy Mộ Dung Vô Phong đã ngồi dậy trên giường, tựa lưng vào hai cái gối.
“Xin lỗi, quả thật thân thể bất tiện, nếu không nên mời Cố huynh tới phòng khách ngồi một lúc, thưởng thức tay nghề nấu ăn của Hà Y”, Mộ Dung Vô Phong cười nói.
Là kiếm khách thuộc hàng đệ nhất, vậy mà cứ thế vì người này pha trà rồi lại nấu cơm. Cố Thập Tam cảm thấy Mộ Dung Vô Phong quả thật rất biết hưởng thụ, cũng rất xa xỉ.
“Hà Y nói, chúng tôi có thể bình an tới được nơi này, dọc đường toàn phải nhờ Cố huynh chiếu cố”, Mộ Dung Vô Phong lại nói.
“Thật không dám.”
“Cố huynh gấp gáp muốn gặp tôi, phải chăng có việc gì?”
“Tôi đến trả huynh đôi nạng”, Cố Thập Tam nhìn chàng nói, rồi rút sau lưng ra đôi nạng bằng hắc mộc mà Lục Tiệm Phong tặng cho chàng.
Mộ Dung Vô Phong gật đầu nói: “Đa tạ, tôi còn tưởng nó đã thất lạc trên đường rồi”.
Hà Y mang tới cho Cố Thập Tam một tách trà, nhận lấy đôi nạng từ tay anh ta, trong lòng bực bội, thầm mắng: Người này xem ra rõ ràng có việc gì rất quan trọng muốn nói, sao bây giờ mở miệng lại biến thành việc trả nạng rồi?
Cố Thập Tam hỏi: “Liệu huynh có thể nói cho tôi biết đôi nạng này là do ai tặng huynh không?”.
Mộ Dung Vô Phong cười nói: “Cố huynh khinh công tuyệt thế, tựa như không nên có hứng thú với những thứ như đôi nạng này mới phải”.
Cố Thập Tam nói: “Bởi vì tôi biết đôi nạng này không phải của huynh, nó vốn thuộc về một người khác”.
Cố Thập Tam nói câu này rất chân thành, thần thái nghiêm túc, đến Mộ Dung Vô Phong cũng bị thái độ nghiêm túc của anh ta làm cho giật mình.
Mộ Dung Vô Phong nói: “A? Đôi nạng này vốn thuộc về ai?”.
Cố Thập Tam nói: “Đôi nạng này vốn thuộc về sư phụ của tôi”.
Mộ Dung Vô Phong biến sắc mặt, giọng khàn đi hỏi: “Sư… sư phụ huynh là ai?”.
Hà Y chen vào hỏi: “Sư phụ huynh có phải một người họ Ngô không, là Ngô Phong?”.
Cố Thập Tam ngẩng mặt nhìn nàng, hỏi: “Không sai, sao cô nương biết?”, anh ta còn muốn tiếp tục hỏi nữa nhưng lại thấy sắc mặt của Mộ Dung Vô Phong bắt đầu tím tái, hơi thở cũng bắt đầu dồn dập.
“Hà Y, nàng mời Cố huynh hãy cứ về trước đã. Ta…ta…”, chàng vốn định nói “Ta không được khỏe lắm” nhưng chỉ cảm thấy trong ngực nôn nao lạ thường, câu định nói cũng không nói ra nổi nữa.
“Thuốc ở đây”, Hà Y cuống quít đưa thuốc vào miệng chàng, sờ lên trán chàng, nói: “Nhìn thiếp đi, đừng nói nữa”.
Chàng nhìn nàng, khó nhọc hít lấy từng hơi.
Hổn hển hồi lâu, chàng sức cùng lực kiệt đổ gục xuống giường.
Cố Thập Tam đành đứng dậy cáo từ: “Mấy ngày nữa tôi lại tới”.
Mộ Dung Vô Phong túm lấy một góc áo Cố Thập Tam, nói: “Huynh ngồi lại đây đã, chớ đi vội”.
Cố Thập Tam ngần ngại nhìn Hà Y.
Mộ Dung Vô Phong hỏi: “Sư phụ huynh… ông ấy… ông ấy vẫn khỏe mạnh chứ?”.
Lúc chàng hỏi câu này, trong lòng xáo động không dứt, tựa như sắp chạm tới được cái bí mật chàng đã chờ đợi bao nhiêu năm nay.
Cố Thập Tam cười khổ: “Tính tình sư phụ vẫn khoáng đạt, cả đời thích ngao du núi cao sông lớn, tựa như thân long thấy đầu không thấy đuôi. Tuy tôi đã không gặp người hai mươi năm rồi nhưng vẫn luôn tin người vẫn đang ở một nơi nào đó trên thế giới này, tin rằng sẽ có một ngày người sẽ trở về Thiên Sơn, nhân tiện ngó tới tên đệ tử không ra gì này một chút”.
Sắc mặt Mộ Dung Vô Phong trắng bệch, hỏi: “Nói như vậy, ông ấy… có thể ông ấy vẫn còn sống?”.
Hà Y nắm chặt tay chàng, nhẹ giọng nhắc: “Chàng… chàng đừng hy vọng quá nhiều”.
Cố Thập Tam nói: “Kể từ lần đầu tiên tôi gặp huynh, tôi đã đoán huynh có quan hệ nào đó với sư phụ. Chỉ đáng tiếc trước giờ tôi chưa từng nghe sư phụ nhắc tới người còn có một đứa con trai. Đôi nạng này làm bằng gỗ hắc mộc ở Nam Hải vừa cứng vừa nhẹ, đao kiếm không thể chặt. Tôi vốn sớm đã nhận ra rồi, chỉ là bên trên lại có một lớp đệm mềm”, hắn bật cười nói: “Tuy hai chân sư phụ tôi tàn phế nhưng lại cứ thích đày đọa bản thân. Nạng của người là đẽo nguyên cây, chỗ này cũng rất cứng rắn. Tôi đoán lúc người dùng nó chắc chẳng dễ chịu chút nào. Có đều, võ công người cực cao, đôi nạng này cũng chưa hề rời tay. Bây giờ vật này lại ở trong tay huynh, có thể thấy người… người đa phần là đã… đa phần là đã…”, Cố Thập Tam nhìn Mộ Dung Vô Phong, nửa câu sau không sao nói nốt được.
Mộ Dung Vô Phong trầm ngâm một lúc, nói: “Cho tới bây giờ, tôi vẫn chưa nghĩ ra giữa tôi và sư phụ huynh có mối quan hệ trực tiếp gì không”.
Cố Thập Tam nói: “Tướng mạo, hình dáng của hai người gần như giống hệt nhau. Lúc tôi gặp sư phụ, người vẫn còn rất trẻ, chỉ độ hai mươi mấy tuổi. Thời gian tôi sống với người, cộng lại cũng không quá ba năm”.
Mộ Dung Vô Phong hừm một tiếng, nói: “Trong thiên hạ, những người có tướng mạo giống nhau chẳng phải nhiều lắm sao?”.
Cố Thập Tam nói: “Nhưng những bệnh trên người sư phụ, dường như trên người huynh cũng đều có cả. Đây chẳng phải quá trùng hợp rồi sao?”.
Mộ Dung Vô Phong trầm xuống.
Hà Y nói: “Sư phụ huynh võ công cao cường, thân thể hẳn là rất khỏe mạnh mới phải”.
Cố Thập Tam nói: “Chỉ cần người không phạm bệnh, thân thể rất khỏe mạnh, Nhưng người giống hệt tướng công của cô, lúc kích động sắc mặt trở nên tím tái, ngoài ra còn có bệnh phong thấp. Người tới Thiên Sơn vốn là vì nghe nói suối nước nóng ở đây chữa bệnh phong thấp rất có hiệu quả, cho nên mới thường qua lại nơi này. Có điều, tính tình người hài hước, cởi mở, rất ít khi tức giận, cho nên tôi cũng hiếm thấy người phát bệnh”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Hà Y, nàng lấy cây nạng ấy qua đây cho ta xem xem”.
Hà Y nhấc cây nạng đưa cho chàng.
Người chàng không còn chút sức lực nào, chỉ có thể đưa tay khẽ vuốt nhẹ lớp đệm trên cây nạng chỗ tựa vào nách. Lớp đệm làm bằng da thú tuyền một màu đen, thêu thùa cực kỳ linh xảo, bên trong được nhồi một lớp bông dày.
Bên trên lại còn có hình thêu hoa.
Tay chàng lần nhẹ trên đó, chợt phát hiện phần đáy lớp nệm có chỗ hơi gập ghềnh không bằng phẳng.
Hay là ở chỗ khuất mắt này mà cũng thêu hoa?
Trong lòng chàng chợt động, bỗng cất giọng: “Hà Y, nàng lấy một hộp mực ấn, một tờ giấy trắng qua đây”.
Hộp mực ấn là vật bắt buộc phải có ở những gia đình có người đọc sách. Lúc Hà Y mới dọn vào đây, trên bàn viết trong phòng còn đặt mấy bộ Văn phòng tứ bảo. Mực ấn chu sa cũng còn mấy hộp.
Mộ Dung Vô Phong thoa chu sa lên chỗ lồi lõm kia rồi đem tờ giấy trắng khẽ ấn lên, in lấy hoa văn nơi đó.
Ở đó có hai chữ Hán: “Như Anh”.
Sắc mặt Mộ Dung Vô Phong tái đi, tay với cái nạng còn lại, cũng ở chỗ ấy lại thoa một lớp chu sa, lấy giấy nhấn vào, vẫn là hai chữ Hán: “Như Anh”.
Sau đó chàng ngồi dậy, trầm mặc không nói, ôm chặt đôi nạng vào lòng, nước mắt nhạt nhòa, thần tình vô cùng bi thương.
Chàng siết chặt đôi tay, trên trán đã nổi gân xanh, hiển nhiên đang cực kỳ kích động nhưng cố gắng kìm nén tình cảm và nhịp tim của mình. Một lúc lâu sau, chàng mới nghẹn ngào nói: “Bọn họ… bọn họ chắc đã… chắc đã cùng nhau qua thế giới bên kia rồi”.
Hà Y đỡ nhẹ lấy chàng, hỏi: “Như… đây là chữ Anh trong hoa anh đào đúng không? Như Anh là ai thế?”.
Mộ Dung Vô Phong than dài một tiếng, nói: “Đó là tên tự của mẫu thân ta”.
Cố Thập Tam thấy dáng vẻ thống khổ của chàng, không nén được lại lên tiếng: “Bất luận thế nào, đệ cũng đã thành sư đệ của ta. Tuy ta không biết sư mẫu nhưng ta dám đảm bảo từ những gì ta được thấy, phụ thân đệ là một bậc tuyệt thế kỳ tài, làm nhi tử của người, là một điều cực kỳ may mắn, cực kỳ đáng kiêu ngạo. Ta thật sự rất ghen tị với đệ”.
“Nên là đệ ghen tị với huynh mới phải”, Mộ Dung Vô Phong thở dài một hơi: “Ít nhất huynh còn được gặp ông ấy, còn từng nói chuyện với ông ấy”.
Cố Thập Tam nói: “Lẽ nào đệ đúng là họ Lâm”.
“Đệ họ Mộ Dung, là Mộ Dung Vô Phong.”
Cố Thập Tam kinh ngạc nói: “Đệ chính là vị thần y Mộ Dung đó?”.
Hà Y vội vàng nói: “Đúng đấy! Không sai! Ai muốn làm phụ thân của thần y, cũng là một việc không hề dễ dàng nhé!”, lời còn chưa dứt, trán đã bị Mộ Dung Vô Phong gõ cho một cái, lại nghe chàng thở dài thườn thượt, nói: “Cái gì mà "không sai", cái gì mà "không hề dễ dàng", cùng không biết đường mà khiêm tốn thay lão công một chút!”.
Cố Thập Tam đưa câu chuyện trở về đề tài trước: “Đệ vẫn chưa nói cho ta biết, đôi nạng này là do ai tặng đệ”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Là Lục Tiệm Phong”.
Cố Thập Tam nói: “Nói như vậy, Lục Tiệm Phong nhất định là người cuối cùng từng gặp sư phụ ta”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Đệ cũng cho là vậy”.
Hà Y nói: “Thiếp đoán chắc là Lục Tiệm Phong… chắc là Lục Tiệm Phong…”, nàng vốn muốn nói “Chắc là Lục Tiệm Phong đã giết Ngô Phong, rồi thu lấy đôi nạng bất li thân của ông ấy”, nhưng nghĩ lại, Ngô Phong giờ đã biến thành phụ thân của Mộ Dung Vô Phong, mình nói như vậy tựa hồ không ổn, liền nuốt câu định nói xuống.
Mộ Dung Vô Phong lại hoàn toàn hiểu được ý nàng, nhìn nàng một cái rồi gật đầu nói: “Ta cũng nghĩ như thế”.
Hà Y lại nói: “Nếu thế…”, nàng vốn định nói “Nếu thế bây giờ chúng ta tới Thiên Sơn tìm Lục Tiệm Phong, hỏi cho rõ ngọn nguồn”, rồi lại nghĩ, hiện giờ nhất định Mộ Dung Vô Phong còn sốt ruột muốn gặp Lục Tiệm Phong hơn mình, chỉ là chàng đang bệnh không dậy khỏi giường nổi, vẫn là không nên nhắc tới chuyện này thì hơn.
Mộ Dung Vô Phong lại như đã hiểu được ý tứ của nàng, than rằng: “Không sai”.
Cố Thập Tam chẳng hiểu đầu đuôi gì, chỉ biết nhìn hai người trước mặt đang nói chuyện như đánh đố người khác.
Hà Y nói: ”Nhưng mà Cố…”, nàng muốn nói: “Nhưng mà Cố đại ca có thể thay chúng ta chạy tới đó một chuyến hỏi cho rõ ràng. Huống chi huynh ấy cũng muốn biết tung tích của sư phụ mình ở nơi đâu”.
Mộ Dung Vô Phong lại phiền não ngắt lời nàng, kiên quyết nói: “Không được, nhất định ta phải tự mình đi”.
Trong hoàn cảnh này, Cố Thập Tam chỉ đành ngối uống trà.
Hà Y lại hỏi: “Cố đại ca, huynh có từng nghe qua cái tên Mộ Dung Tuệ?”.
Vừa nghe tới câu hỏi này, ngụm trà Cố Thập Tam vừa uống suýt chút nữa bị sặc ra: “Mộ Dung Tuệ và Mộ Dung Vô Phong…”.
Hà Y đáp: “Là mẹ con”.
Cố Thập Tam nói: “Hỏng rồi. Bây giờ ta đã biết tại sao Lục Tiệm Phong lại muốn giết sư phụ”.
Hà Y và Mộ Dung Vô Phong cùng ngạc nhiên hỏi: “Tại sao?”.
Cố Thập Tam đáp: “Mộ Dung Tuệ là thê tử của Lục Tiệm Phong”.
Hà Y hỏi lại: “Thế sao?”.
Cố Thập Tam kể: “Sư phụ từng đưa ta tới gặp Lục Tiệm Phong một lần. Người nói là đi thăm một người quen. Lục phu nhân cũng có ở đó. Ta nhớ hồi đó ta còn rất nhỏ không hiểu việc cho lắm, chỉ là nghe giọng thì biết bà ấy không phải người bản địa, liền hỏi bà ấy là người ở đâu tới. Bà ấy nói cho ta, bà ấy họ Mộ Dung, còn làm cho ta một bát mì trứng. Loại họ kép này rất hiếm gặp, cho nên ta nhớ mãi không thôi”.
Tằng tổ của Mộ Dung Vô Phong là người đất Thục, người làm và đầu bếp trong cốc đều rất thích món ăn đất Thục, còn chàng bởi thân thể không được khỏe, rất ít khi ăn những thứ có vị nặng. Chàng nhớ ông ngoại thường nói, hồi nhỏ mẫu thân thích ăn nhất là những thứ như mì trứng.
Nghe câu này, sắc mặt Mộ Dung Vô Phong lại càng tái nhợt, tay chàng vốn đang chống lên thành giường, giờ không tự chủ được mà run rẩy. Hà Y đỡ lấy vai chàng, nhẹ nhàng nói: “Đây đều là việc hai mươi mấy năm về trước… của đời trước, chàng không nên… không nên quá đặt nặng trong lòng”.
Mộ Dung Vô Phong khàn giọng nói: “Nói như vậy, đến mẫu thân đệ huynh cũng đã gặp qua”.
Cố Thập Tam nói: “Bà ấy là một phụ nữ cực kỳ mỹ lệ, bất kỳ ai từng nhìn thấy bà ấy một lần là sẽ nhớ mãi không quên”.
Mộ Dung Vô Phong trầm tư một lúc rồi hỏi: “Lúc huynh gặp bà ấy, trông bà ấy có được vui vẻ không?”.
Cố Thập Tam nghĩ một chút, đáp: “Rất vui vẻ… bà biết rất tốt với ta. Bây giờ nghĩ lại, chắc là bởi vì sư phụ ta”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Đợi qua một thời gian nữa, thân thể đệ khỏe hơn một chút. Đệ sẽ đi Thiên Sơn một chuyến”.
Cố Thập Tam gật đầu, nói: “Ta vốn định ngày mai đi luôn… nhưng chúng ta cùng đi vẫn tốt hơn, trên đường có thêm người chăm sóc nhau. Nếu như quả thật sư phụ ta không còn nữa, nếu như hung thủ sát hại người quả đúng là Lục Tiệm Phong, ta nhất định sẽ báo thù cho người!”.
Lúc Cố Thập Tam nói câu này, ngữ khí rất bình tĩnh, tựa như việc này sớm đã được quyết định xong.
Mộ Dung Vô Phong cười khổ: “Cho dù quả đúng là ông ta giết phụ thân đệ, bộ dạng đệ thế này, cũng chẳng thể làm gì ông ta”.
Hai tay chàng siết lấy tấm khăn trải giường, gân tay nổi lên xanh lè, khuôn mặt kích động tới đỏ ửng. Lời nói ra tràn đầy nỗi chua xót và trào phúng.
Hà Y nắm lấy tay chàng, nói: “Thiếp có thể thay chàng báo thù”.
Tay của nàng ấm áp, còn bàn tay của chàng lại giá buốt tựa băng.
Chàng cúi đầu, cố gắng hết sức khống chế niềm bi phẫn trong lòng.
Tuy từ nhỏ chàng đã không ngừng tưởng tượng ra câu chuyện của phụ thân và mẫu thân mình, nhưng tới thời khắc sắp biết được chân tướng, chàng lại do dự.
Dường như chàng đã ngầm đoán được sự đáng sợ của chân tướng mọi việc, dường như đã ngửi thấy mùi máu tanh.
Nhưng điều đáng buồn nhất chính là chàng chỉ có một thân thể tàn phế, dù câu chuyện này có kết quả thế nào thì cũng đều chẳng thể làm gì được.
Đây không phải câu chuyện chàng muốn nghe.
Chàng ngẩng đầu, nhìn Hà Y, rất lâu sau mới lên tiếng, nhấn từng chữ một:
“Hà Y, chuyện này không có chút gì liên quan tới nàng. Ta không cho phép nàng có ý nghĩ ấy.”
Hà Y đứng phắt dậy: “Đương nhiên có liên quan, thiếp là thê tử của chàng”.
Mộ Dung Vô Phong nói: “Ta và Cố đại ca sẽ cùng nhau tới Thiên Sơn, nàng ở lại đây”.
Hà Y nói: “Thiếp nhất định phải đi cùng chàng, bất kể chàng đi tới đâu, thiếp cũng sẽ không rời chàng một bước”.
Lúc nói ra câu này, thái độ của Hà Y vô cùng dứt khoát.
Mộ Dung Vô Phong than: “Thế thì cùng đi vậy”, nói xong có chút lúng túng quay sang nhìn Cố Thập Tam.
Cố Thập Tam híp mắt lại, trong mắt mang một nét cười khó nhận ra.
Mộ Dung Vô Phong nghiêng người dựa trên cái giường nhỏ, dõi qua song cửa sổ điêu khắc tinh xảo đang mở hé, ngắm nhìn một góc sân vườn ngoài song.
Bao nhiêu ngày qua, đó là nơi duy nhất chàng thấy thân thuộc trong căn phòng này.
Cách sân vườn không xa hình như sẽ là một con đường rợp bóng hoa dẫn tới một cánh cửa nhỏ. Mỗi ngày Hà Y đều ra ngoài mua thức ăn, chính là từ con đường này đi ra, rồi lại quay về trên con đường ấy.
Trời nắng, nàng rất thích ngồi ở góc sân giặt quần áo.
Bởi vì bệnh ưa sạch của Mộ Dung Vô Phong, mỗi ngày nàng đều phải giặt một chậu quần áo to đùng, nào là khăn trải giường, vỏ gối, áo trong, áo ngoài, khăn tay, khăn mặt, băng trắng, bít tất…
Nàng thường phải tốn hơn một canh giờ mới giặt được tất cả mọi thứ đến mức độ “sạch sẽ” mà Mộ Dung Vô Phong chấp nhận được.
Phơi xong quần áo, nàng sẽ chạy ù ra ngoài mua thức ăn, bởi vì cũng đã gần tới giờ làm cơm trưa rồi.
Mộ Dung Vô Phong ăn rất ít mà cũng chỉ ăn những món có vị thanh đạm như ngó sen, măng, nấm, đậu phụ thôi. Khổ nỗi mấy thứ rau ấy chỉ sinh trưởng ở phương nam, vận chuyển tới được phương bắc thì đều đã thành thực phẩm khô rồi. Chàng rất ít ăn thịt, chỉ ăn thịt gà và một vài loại cá. Thịt dê thì chàng vừa ngửi thấy đã liền hoa mắt chóng mặt rồi.
Cũng may chàng cũng chẳng có yêu cầu gì đặc biệt với việc xào nấu thức ăn. Mấy thứ ấy, chỉ cần đem trộn lại với nhau, cho thêm ít muối, ít dầu rồi xào chín thì bình thường chàng đều có thể ăn hết.
Chàng uống trà thì lại rất cầu kỳ, lá trà bình thường chàng chẳng buồn động vào, kể cả là lá trà ngon cũng phải theo lời dặn dò của chàng mà đi pha, trải qua bảy tám công đoạn tỉ mỉ kỹ lưỡng chàng mới chấp nhận có thể uống.
Từ khi Hà Y học được cách pha trà, nàng đã tự thề với mình sẽ không bao giờ uống trà nữa, đổi sang uống nước sôi còn hơn.
Uống có ngụm trà mà cũng phải phiền phức như thế, đúng là thần kinh!
Chàng ăn cơm rất nhỏ nhẹ thong thả, Hà Y đã ăn xong hai bát, chàng vẫn còn hơn nửa bát chưa ăn.
Nếu như có người hỏi chàng tại sao lại ăn chậm thế, chàng sẽ nói ăn như thế mới có lợi cho tiêu hóa. Nàng chỉ đành kiên nhẫn đợi chàng ăn xong, thu dọn bát đũa rồi tới nhà bếp rửa bát.
Mặc dù như thế, Hà Y vẫn cho rằng một ngày của Mộ Dung Vô Phong quả thật quá nhàm chán.
Từ khi ngực bị thương, trên vai lại có thêm một vết bỏng lớn, nửa thân trên của chàng bị sưng phù rất khủng khiếp, đau tới mức không sao cử động nổi đôi vai.
Hoạt động duy nhất hàng ngày của chàng chính là, buổi sớm Hà Y sẽ bế chàng từ giường lớn mà hai người ngủ tới giường mềm bên cạnh cửa sổ, chàng sẽ nằm đó qua hết buổi sáng và buổi trưa, tới giờ thắp đèn, tắm rửa xong, Hà Y sẽ lại bế chàng về giường lớn.
Hà Y thời thời khắc khắc đều đề phòng chàng bị nhiễm lạnh, ho khan hoặc co giật do vết thương ở chân tái phát, những chấn động cơ thể kiểu ấy là tối kỵ cho người bị thương xương cốt đang trong giai đoạn phục hồi.
Sống kiểu đó, Hà Y chỉ cần trải qua một ngày là đã đủ phát điên, vậy mà Mộ Dung Vô Phong lại có thể cứ nằm yên không động đậy như vậy suốt cả hai tháng trời!
Chàng rất bình thản, từ đấy đến giờ không hề cáu giận, luôn giữ một vẻ thuận lòng cam chịu. Chỉ có một lần chàng thật sự thấy có chút buồn bực mới để Hà Y dìu mình lên xe lăn, hai người cùng tản bộ một vòng trên hành lang quanh viện.
Có những lúc chàng nhớ tới Vân Mộng cốc, nhớ tới Trúc Ngô viện, rồi nói, từ sau khi chàng đi, bệnh án tồn lại chẳng phải sẽ chất đầy tới tận nóc thư phòng sao? Sau đó chàng lại lầm rầm nói một mình, nói Sái Tuyên và Trần Sách nhất định có thể thay chàng lo liệu tốt y vụ trong cốc.
Hà Y bắt đầu thầm đoán, rốt cuộc chàng có còn sức mà về nhà không, bao nhiêu năm nữa mới có thể về nhà.
Thân thể chàng chịu bao nhiêu tổn thương, đang ngày nối ngày tụt dốc.
Mỗi ngày Hà Y đều giúp chàng xoa bóp cơ thịt đang ngày một teo rút. Chàng ngồi yên không động đậy nhìn nàng nắn bóp cơ thể chân tay mình, cố gắng giữ vẻ thản nhiên nhưng kỳ thực trong lòng lại day dứt vô cùng.
“Hà Y, nàng không cần vì ta mà tốn nhiều công sức như vậy”, có một ngày chàng bỗng nói.
“Như thế này chàng mới nhanh khỏi được”, nàng lại càng làm càng hăng hái hơn.
Mộ Dung Vô Phong lặng lẽ nhìn nàng, trong lòng dâng lên niềm thương cảm không nói nên lời.
Chứng phong thấp của chàng đã dần dần lan tới vai trái. Vai trái là nơi duy nhất trên cơ thể chàng hoàn toàn khỏe mạnh. Viết chữ, chẩn bệnh, chàng đều dùng cánh tay trái này. Nhưng giờ chàng đã cảm thấy nó đang dần dần trở nên không còn linh hoạt nữa. Cứ mỗi khi rét buốt, các đốt ngón tay và cổ tay lại dấy lên cơn đau thấu xưong. Có lẽ trong một ngày không xa nữa, khi chàng tỉnh dậy sẽ phát hiện hai tay mình vì phong thấp mà biến thành cứng đơ. Tới lúc ấy đến cả những động tác đơn giản như ăn cơm, chàng cũng sẽ thấy cực kỳ khó khăn.
Mộ Dung Vô Phong cố gắng không để những suy nghĩ ấy vào sâu trong đầu mình nhưng hàng đêm chàng lại cứ không ngừng nghĩ về những điều đó.
Bất kế thế nào, chàng cũng sẽ kết liễu chính mình trước khi bản thân hoàn toàn trở thành một phế nhân. Nhân lúc mình vẫn còn sức để ch.ết, chàng nhất định phải ch.ết đi. Chàng tuyệt đối không thể sống cuộc sống như một hài nhi, ngay tới một chút tôn nghiêm tối thiểu cũng không có nổi.
Nửa đêm, chàng nghĩ tới những khó khăn gian khổ sắp phải đối diện mà thao thức không ngủ được, cứ mở to mắt ngắm nhìn màn đêm vô hạn. Người bên cạnh thì vẫn bình yên chìm vào giấc ngủ, dáng vẻ của nàng khi ngủ trông thật ngon lành.
Ban ngày, lúc nào nàng cũng tràn đầy lòng tin.
“Vô Phong, chàng nghĩ xem, bao nhiêu người phải trải qua những ngày tháng bị cha mẹ quở mắng, bi thảm mà tuân theo ý của bề trên. Không có cha mẹ, loại vận khí này không phải ai cũng có đâu nhé”, có một hôm nàng ngang nhiên nói ra những câu đại nghịch bất đạo như thế.
Đương nhiên, nàng là đứa bé bị bỏ rơi không tránh khỏi có sự oán hận đối với cha mẹ.
Trên người nàng không có bất cứ dấu vết gì đủ để cho phép nàng lần tìm lai lịch bản thân. Nàng tựa như một đám không khí phiêu bồng, chẳng có nơi quay về.
“Hà Y, nếu như có một ngày, cuối cùng nàng cũng tìm được cha mẹ mình, phát hiện ra rằng họ vẫn còn sống, nàng có vui không?”, có một đêm nọ, hai người nổi hứng nói chuyện, nói tới tận khuya, chàng bỗng hỏi như thế.
“Thiếp không biết, bởi vì thiếp vốn không định đi tìm cha mẹ thiếp, với lại cũng đã sớm tự thề với bản thân sẽ không nghĩ tới việc này nữa”, nàng nhạt giọng đáp.
“Ta sẽ nghĩ cách giúp nàng. Chúng ta thuê người, dù có phải lật tung ba thước đất cũng sẽ tìm bằng được cha mẹ ruột của nàng”, chàng nói.
“Vô Phong, trên đời này không phải ai ai cũng nghĩ giống như chàng”, nàng khúc khích bật cười.
Có những lúc Mộ Dung Vô Phong cảm thấy chàng không hề hiểu Hà Y. Dường như trong sâu thẳm nội tâm nàng vẫn còn có một nơi đóng chặt không sao mở ra được.