Chương 9: Jerusalem

Gabriel trở lại phố Narkiss vào lúc tám giờ tối ngày hôm sau. Xe hơi của Shamron đậu ở khúc quanh và Rami, vệ sỹ của ông, đang đứng gác trên vỉa hè bên ngoài toà nhà số 16. Khi lên lầu, Gabriel thấy tất cả các đèn đều bật còn Shamron đang uống cà phê tại bàn bếp.
“Sao ông lại vào trong nhà được?”


“Nếu như cậu đã quên thì tới xin nhắc, nơi này từng là căn hộ an toàn của Văn phòng. Tôi có chìa khóa tại bộ phận Quản lý nhà ở”.
“Đúng vậy, nhưng mùa hè vừa rồi tôi đã thay khóa”.
“Thế à?”
“Tôi nghĩ mình sẽ phải thay khóa một lần nữa”.


“Điều đó là vô ích”.
Gabriel đẩy cửa sổ mở để khói thuốc trong phòng thoát ra. Sáu đầu mẩu thuốc lá giống như sáu viên đạn đã bắn nằm lung tung trên một trong những chiếc dĩa để tách. Điều này chứng tỏ Shamron đã ở đây được một lúc.
“Venice thế nào?”. Shamron hỏi.


“Venice rất xinh đẹp, nhưng lần sau nếu có đột nhập vào căn hộ của tôi, làm ơn đừng hút thuốc”. Gabriel cầm chiếc đĩa lên và đổ mẩu thuốc vào sọt rác. “Chuyện gì nghiêm trọng đến mức không chờ được tới sáng mai vậy?”
“Thêm một đường dẫn đến vụ tấn công Vatican”.


Gabriel ngước lên nhìn Shamron. “Đường nào?”
“Ibrahim el-Banna”.
“Tên giáo sỹ người Ai Cập? Tôi không ngạc nhiên về điều này”.
Gabriel ngồi xuống bàn.


“Hai đêm trước, trưởng trạm Cairo của chúng ta đã bí mật gặp một trong những nguồn tin hàng đầu trong chính phủ Mubarat của Ai Cập. Dường như Giáo sư Ibrahim el-Banna từng có thành tích và có mối quan hệ khá bền chặt trong quân đội trước khi hắn đến Vatican. Anh trai hắn là thành viên hội Huynh đệ Hồi giáo và là người thân với Ayman al-Zawahiri, nhân vật quan trọng thứ hai trong al-Qaeda. Hắn có người cháu đến Irắc chiến đấu chống Mỹ và bị giết trong vụ phòng thủ thành Fallujah. Hiện tại băng giảng đạo của hắn đang được những tên Hồi giáo hiếu chiến Ai Cập háo hức đón nghe”.


available on google playdownload on app store


“Tiếc là người bạn ở Mubarat không nói cho Vatican sự thật về el-Banna. Bảy trăm người đáng lẽ đã được cứu sống, và Đại thánh đường đã không bị lủng một lỗ”.


“Người Ai Cập biết điều khác về Giáo sư el-Banna”, Shamron nói tiếp. “Trong những năm 80 và 90 khi vấn đề trào lưu chính thống Hồi giáo đang bùng nổ ở Ai Cập, Giáo sư el-Banna nhận tiền mặt và sự chỉ đạo thường xuyên từ một người Arập Xêút dưới lốt nhân viên tổ chức Cứu trợ Hồi giáo, một trong những tổ chức từ thiện chính ở Arập Xêút. Gã này tự xưng là Khalil, nhưng tình báo Ai Cập biết tên thật của hắn là: Ahmed bin Shafiq. Điều lí thú hơn chính là thông tin về nghề nghiệp của Shafiq vào lúc đó”.


“Hắn ta làm cho GID”, Gabriel nói.
“Chính xác”.
GID, hay Tổng cục Tình báo, là tên của cơ quan tình báo Arập Xêút.
“Chúng ta biết gì về hắn?”


“Cho đến cách đây bốn năm, bin Shafiq là trưởng nhóm tình báo GID có bí danh 205, chịu trách nhiệm thiết lập và duy trì liên kết giữa Arập Xêút và nhóm chiến binh Hồi giáo quanh Trung Đông. Ai Cập là ưu tiên hàng đầu của nhóm 205, cùng với Afghanistan”.
“Ý nghĩa của con số là gì?”


“Đó là số máy phụ văn phòng của bin Shafiq tại Tổng hành dinh GID”.
“Chuyện gì xảy ra bốn năm trước?”


“Bin Shafiq và tay chân chuyên cung cấp vật chất và tiền bạc cho bọn khủng bố Hamas và Hồi giáo Jihad (Cảm tử quân). Một tay cung cấp tin người Palestine cho chúng ta biết về hoạt động này, và đã cảnh báo người Mỹ. Tổng thống Mỹ đưa bằng chứng của chúng ta cho nhà vua đồng thời gây sức ép bắt ông ta ngừng hoạt động của nhóm 205. Chuyện này xảy ra sáu tháng sau vụ 11/ , và nhà vua không còn cách nào khác ngoài việc nhân nhượng Tổng thống. Điều này làm bin Shafiq và những kẻ khác thất vọng. Nhóm 205 bị xoá sổ, còn bin Shafiq bị đuổi cổ ra khỏi GID”.


“Thế hắn ta có chạy sang phía bên kia đường không?”


“Ý cậu muốn hỏi là hắn ta có trở thành khủng bố không? Câu trả lời là, chúng ta không biết. Điều chúng ta biết là sự hiếu chiến của Hồi giáo hiếu chiến nằm trong máu hắn. Cha hắn là chỉ huy của Ikhwan, một phong trào Hồi giáo do Ibn Saud dựng nên vào đâu thế kỷ 19 ở Najd”.


Gabriel biết rõ về Ikhwan. Xét về nhiều mặt, đó chính là hình mẫu và tiền thân của các nhóm quân sự Hồi giáo ngày nay.
“Bin Shafiq còn hoạt động ở đâu nữa khi hắn lãnh đạo nhóm 205?”
“Afghanistan, Pakistan, Gioócđan, Libăng, Algeria. Chúng ta còn nghi ngờ chúng có mặt ở cả Bờ Tây”.


‘Như vậy có thể chúng ta đang đối mặt với người có mối liên hệ từ al-Qaeda cho đến Hamas và hội Huynh đệ Hồi giáo của Ai Cập. Bin Shafiq là một bậc thầy khủng bố, nên nếu hắn chuyển qua phía bên kia, hắn sẽ tạo ra một viễn cảnh đầy ác mộng”.


“Chúng ta cũng tìm thấy một mẩu thông tin lý thú trong hồ sơ”, Shamron nói. “Khoảng hai năm trước chúng ta nhận được báo cáo về một người Arập Xêút thường lùng sục tất cả các doanh trại ở Libăng để tìm những chiến binh dạn dày kinh nghiệm. Theo như các bản báo cáo, gã người Arập Xêút này tự xưng là Khalil”.


“Cùng tên bin Shafiq dùng ở Cairo”.
“Không may là chúng ta không theo đuổi vụ này. Nói thật ra, nếu chúng ta truy lùng từng tên Arập Xêút được cấp tiền để tạo đội quân nhằm tiến hành nổ bom cảm tử, chúng ta sẽ không thu được nhiều kết quả. Ai gặp thất bại cũng phải biết rút kinh nghiệm chứ”.


“Chúng ta có thêm bao nhiêu thông tin về bin Shafiq?”
“Một ít thông tin hiếm hoi, tôi e là như vậy”.
“Còn ảnh thì sao?”
Shamron lắc đầu. “Như cậu biết, hắn ta hơi mất tự nhiên khi đứng trước ống kính, nên hắn ta chẳng bao giờ chụp ảnh cả”.


“Chúng ta cần chia sẻ thông tin, Ari. Người Ý cần phải biết rằng Arập Xêút có thể dính líu đến các vụ việc. Người Mỹ cũng vậy”.


“Tôi hiểu”, giọng Shamron nghe ảm đạm. Ý nghĩ phải chia sẻ mẩu thông tin tình báo khó kiếm là điều rất khó chịu đối với ông, đặc biệt khi không thu được lợi. “Phải có qua có lại”, ông nói. “Đó mới chính là phuơng châm, là tín điều của chúng ta. Chúng ta tự mình làm mọi việc, không nhờ người khác giúp đỡ, cũng không giúp đỡ người khác giải quyết những chuyệnì do họ tự tạo ra”.


“Thế giới đã thay đổi, Ari”.


“Có lẽ đây không phải là thế giới dành cho tôi. Khi chúng ta đang đánh nhau với PLO hay tổ chức Tháng Chín Đen, lúc đó chỉ mới đơn thuần là hoạt động vật lý học theo định luật Niu-tơn. Đánh ở đây, dồn ở kia, theo dõi, lắng nghe, nhận dạng các thành viên, tiêu diệt lãnh đạo của bọn chúng. Bây giờ chúng ta đang đánh nhau với một phong trào - căn bệnh ung thư đã di căn đến tất cả những cơ quan tối quan trọng trong cơ thể. Việc này giống như dã tràng xe cát vậy. Những luật lệ cũ không phù hợp nữa. Đổi chác thì không. Mặc dù vậy, tôi có thể nói với cậu một điều. Việc này sẽ không suôn sẻ ở Washington. Người Arập Xêút có nhiều bạn bè ở đó”.


“Tiền sẽ giải quyết mọi sự”, Gabriel trả lời. “Nhưng người Mỹ cần biết sự thật về đồng minh tốt nhất của họ trong thế giới Arập”.


“Họ biết sự thật. Họ chỉ không muốn đối diện với sự thật đó. Mỹ biết rằng Arập Xêút là nguồn nước, là nơi ươm mầm cho khủng bố Hồi giáo, rằng người Arập Xêút gieo hạt giống, tưới bằng tiền bán dầu, và bỏ phân bón bằng cách tuyên tuyền sự căm ghét của chủ nghĩa Wahhabi. Người Mỹ dường như bằng lòng với việc này, tựa hồ hoạt động khủng bố do người Arập Xêút tổ chức chỉ là phần phụ thu nhỏ trên mỗi thùng dầu. Điều họ không hiểu là chủ nghĩa khủng bố sẽ không bao giờ bị đánh bại nếu không truy tận gốc: Riyadh và nhà al-Saud”.


“Vì vậy chúng ta càng có thêm lí do để chia sẻ tin tình báo liên kết GID và nhà al-Saud với vụ tấn công Vatican”.
“Tôi rất vui khi cậu nghĩ như thế, vì cậu đã được cử đến Washington cho họ biết những thông tin chúng ta thu thập được”.
“Khi nào tôi lên đường?”
“Sáng mai”.


Shamron nhìn đồng hồ và hỏi lần thứ hai về chuyến đi của Gabriel đến Venice.
“Tôi bị gạt đến đó”, Gabriel nói. “Nhưng tôi rất vui vì mình đã đi”.
“Ai gạt cậu?”
Gabriel nói với ông. Nụ cười trên gương mặt Shamron làm anh thắc mắc không biết ông có dính líu vào chuyện này không.


“Cô ấy sẽ đến đây chứ?”
“Chúng tôi mới ở bên nhau một ngày”, Gabriel nói. “Chúng tôi đâu thể có kế hoạch gì được”.


“Tôi không chắc mình tin những điều cậu nói”, Shamron nói một cách thận trọng. “Dĩ nhiên cậu không thể nghĩ đến chuyện quay lại Venice. Cậu đã quên mình có trách nhiệm với Lực lượng Đặc nhiệm sao?”
“Không, tôi không quên”.


“Nhân tiện, cậu sẽ được bổ nhiệm chính thức sau khi trở về từ Washington”.
“Tôi đang đếm từng giờ”.
Shamron nhìn quanh căn hộ. “Cậu có thú nhận với Chiara là cậu đã đưa hết đồ đạc của cô ấy cho người khác chưa?”


“Cô ấy biết tôi đã thay đổi một vài chỗ cho phù hợp với phòng vẽ”.
“Cô ấy không vui đâu”, Shamron nói. “Tôi sẽ trả bất cứ giá nào để được nhìn thấy gương mặt của cô ấy khi bước vào đây và nhận ra sự thay đổi của căn phòng”.


Shamron ở lại thêm một tiếng để hỏi Gabriel chi tiết vụ tấn công ở Vatican. Vào lúc 9 giờ 15 phút, Gabriel đưa ông ra xe hơi và đứng ngoài phố một lúc nhìn đèn đuôi xe biến mất sau khúc quanh. Anh quay lên lầu, dọn dẹp nhà bếp rồi vào phòng ngủ. Ngay lúc đó, căn hộ rung chuyển vì một vụ nổ lớn. Giống như mọi người dân Israel, anh rất thạo việc đoán số người thương vong trong các vụ đánh bom tự sát bằng cách đếm tiếng còi xe cấp cứu. Càng nhiều xe cấp cứu, càng nhiều người ch.ết và bị thương. Anh nghe một tiếng xe duy nhất, sau đó tiếng thứ hai, rồi tiếng thứ ba. Không lớn lắm, anh nghĩ. Anh bật truyền hình lên chờ đợi bản tin thông báo đầu tiên, nhưng sau vụ nổ bom 15 phút vẫn không có bản tin nào được phát đi. Bực mình, anh nhấc điện thoại quay số xe hơi Shamron. Không có tín hiệu trả lời.






Truyện liên quan