Chương 39: Washington
PHẦN 4: NHÂN CHỨNG
Một tháng sau vụ ám sát Tổng thống, Uỷ ban Thượng viện tổ chức một cuộc họp. Trong bài phát biểu khai mạc, các thành viên cao cấp đảm bảo với người dân Mỹ rằng họ sẽ điều tr.a đến cùng và không khoan nhượng, nhưng vào cuối tuần đầu tiên, các Thượng nghị sỹ từ cả hai đảng cảm thấy bực mình vì tính thiếu trung thực của lãnh đạo các cơ quan an ninh và tình báo. Các phụ tá của Tổng thống giải thích rất chi tiết làm cách nào lực lượng Hồi giáo cực đoan toàn cầu có thể thâm nhập vào trung tâm vương quốc Thiên Chúa giáo, và làm cách nào Giáo sư Ali Massoudi tuyển mộ được một thanh niên trẻ có tên là Erich Muller và cài hắn vào Đội cận vệ Thụy Sĩ của Giáo hoàng. Nhưng khi đụng đến người vạch kế hoạch hai vụ tấn công vào Vatican - và quan trọng hơn, ai đã trả tiền các hóa đơn - các phụ tá của Tổng thống chỉ có thể đưa ra những ý kiến gián tiếp. Họ cũng không thể giải thích thoả đáng với các thành viên của Uỷ ban về sự có mặt của Gabriel Allon, một người Israel mà bây giờ đã được biết đến là một điệp viên và kẻ chuyên ám sát huyền thoại. Sau nhiều bàn bạc trong Uỷ ban, các Thượng nghị sỹ quyết định triệu tập anh để đích thân hỏi cung. Vì là người nước ngoài, anh không có bổn phận phải tuân theo lời triệu tập nên như nhiều dự đoán, anh đã từ chối xuất hiện. Ba ngày sau, anh bất ngờ đổi ý. Anh báo với các Thượng nghị sỹ rằng mình sẽ điều trần, nhưng với điều kiện phải là một cuộc gặp bí mật. Các Thượng nghị sỹ đồng ý, và yêu cầu anh đến Washinton ngày thứ năm tuần kế tiếp.
Gabriel đi một mình vào phòng điều trần kín. Khi Chủ tịch Uỷ ban yêu cầu anh đứng lên khai tên mình để ghi chép lại, anh đã thực hiện không hề do dự.
“Chủ của ông?”
“Thủ tướng nước Israel”.
“Chúng tôi có nhiều câu hỏi muốn nêu ra với ông, ông Allon, nhưng theo lời của Đại sứ nước ông, ông sẽ không trả lời những câu hỏi mà ngài nghĩ là không phù hợp”.
“Đúng vậy, thưa ngài Chủ tịch”.
Chúng tôi cũng được thông báo rằng ông muốn đọc một bài phát biểu trước khi chúng tôi bắt đầu thẩm vấn”.
“Điều đó cũng đúng, thưa ngài Chủ tịch”.
“Bài phát biểu này có liên quan đến nước các Tiểu vương quốc Arập thống nhất và mối quan hệ giữa Mỹ và họ”.
“Đúng, thưa ngài Chủ tịch”.
“Tôi muốn lưu ý ông, ông Allon. Mặc dù buổi điều trần này được tiến hành bí mật, sẽ vẫn có bản đánh máy những lời nhận xét của ông”.
“Tôi hiểu, thưa ngài”.
“Rất tốt. Ông có thể bắt đầu”.
Sau câu nói này, Gabriel nhìn xuống và bắt đầu đọc bản điều trần. Ở góc xa của phòng, một người đàn ông nhăn mặt. Hercules đã đến Thượng viện Mỹ, anh ta thầm nghĩ. Và mang theo một bao đầy tên tẩm mật đắng.
“Chúc mừng, Gabriel”, Adrian Carter nói. “Anh không thể không làm, đúng không? Chúng tôi cho anh sân khấu, còn anh sử dụng sân khấu đó để phục vụ mình thật tốt”.
“Các Thượng nghị sỹ cần biết bản chất thật sự của đế chế Arập Xêút và sự ủng hộ của nó đối với khủng bố toàn cầu. Người dân Mỹ cần được biết những đồng tiền thu được nhờ bán dầu đó đang được sử dụng như thế nào”.
“Ít nhất anh cũng nên để tên Zizi ra ngoài chuyện này”.
“Tôi có những kế hoạch khác dành cho Zizi”.
“Tốt hơn là anh không nên làm như vậy. Hơn nữa anh cũng nên để mắt canh chừng quả bóng ngay bây giờ”.
“ Canh chừng quả bóng? Câu này nghĩa là gì?”
“Đây là một lối nói ẩn dụ trong thể thao, Gabriel. Anh có chơi môn thể thao nào không?”
“Tôi không có thời gian cho thể thao”.
“Mỗi ngày trôi qua anh lại càng giống Shamron hơn”.
“Tôi sẽ xem đây là lời khen”, Gabriel đáp. “Tôi nên để mắt đến quả bóng nào?”
“Bin Shafiq”. Carter nhìn xéo qua Gabriel. “Có dấu hiệu gì của hắn chưa?”
Gabriel lắc đầu. “Còn phía ông?”
“ Chúng tôi có một chút dấu vết”.
“Có dấu vết nào mà anh có thể tiết lộ với tôi không?”
“Chưa đến lúc”.
Carter lái xe qua cầu Memorial quẹo vào đại lộ George Washington. Họ lái xe trong im lặng một vài phút. Gabriel nhìn ra cửa xe, thầm thán phục cảnh thị trấn Geortown bên kia sông.
“Tôi thấy trong lịch trình bay anh sẽ ghé qua Rome trên đường về Israel”, Carter nói. “Anh dự định thực hiện một nhiệm vụ chưa hoàn tất cho Vatican à?”
“Tôi chỉ muốn dành một chút thời gian bên Donati. Khi tôi rời Rome, ông ấy vẫn chưa tỉnh”. Gabriel nhìn đồng hồ. “Ông đang đưa tôi đi đâu, Adrian?”
“Còn mấy tiếng nữa máy bay mới cất cánh. Chúng ta có thể ghé ăn trưa ở vùng đồng quê chăn ngựa Virginia”.
“Còn bao lâu nữa thì tới nơi?”
“Khoảng một tiếng”.
Gabriel hạ ghế xuống và nhắm mắt lại.
Anh tỉnh dậy khi chiếc xe bon bon vào thị trấn nhỏ có tên Đồng Bằng. Carter lái xe chậm lại khu trung tâm thương mại nhỏ xíu; sau đó băng qua đường ray xe lửa cũ kỹ, và một lần nữa lái xe về hướng đồng quê. Con đường trông có vẻ quen thuộc với Gabriel, cũng giống như con đường nhỏ trải sỏi mà Carter đã quẹo vào cách đó hai dặm. Con đường chạy dọc theo bờ suối hẹp. Bên trái là một cánh đồng thoai thoải, ngược lên cao có một nông trại lớn mái lợp bằng đồng đã mờ xỉn và hàng hiên hai tầng. Khi Gabriel ghé thăm ngôi nhà lần trước, cây đã trụi lá còn mặt đất đang phủ đầy tuyết. Bây giờ cây sơn thù du nở rộ hoa, những cánh đồng xanh mơn mởn nhờ những lá cỏ mùa xuân mới mọc.
Một phụ nữ có mái tóc vàng óng thả đi ngựa nước kiệu ngược chiều với họ. Những chỗ sưng trên khuôn mặt cô đã xẹp xuống, và nét mặt cô đã trở lại bình thường. Ngoại trừ những quầng thâm dưới mắt, Gabriel nghĩ. Trong mắt Sarah vẫn còn vương lại dấu vết của cơn ác mộng cô đã trải qua tại ngôi nhà ván ở bang Uri. Cô cho ngựa chạy dọc theo xe một cách thuần thục và nhìn xuống Gabriel. Một nụ cười nở trên gương mặt cô, và trong giây lát cô như trở lại là người phụ nữ xinh đẹp anh nhìn thấy trên đường Q ở Washington mùa thu năm ngoái. Sau đó nụ cười nhạt dần và với hai cú thúc chính xác, cô phi nước đại qua cánh đồng về phía ngôi nhà.
“Cô ấy đã có những ngày vui vẻ và những ngày tồi tệ”, Carter nói khi nhìn Sarah phóng ngựa đi. “Nhưng tôi chắc rằng anh hiểu điều này”.
“Tôi hiểu”.
“Tôi luôn cho rằng hằn thù cá nhân là phản tác dụng nhất là đối với ngành của chúng ta, nhưng tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho Zizi vì những gì hắn gây ra cho cô ấy”.
“Tôi cũng không tha thứ”, Gabriel nói. “Tôi sẽ ghi nhớ những gì hắn đã làm”.
Họ ăn trưa trong ánh mặt trời dịu nhẹ chiếu trên hiên sau nhà. Sau đó Carter dọn dẹp chén đĩa, còn Gabriel và Sarah đi dạo cùng nhau trong khu rừng đầy bóng râm. Một nhân viên CIA cố gắng theo sau họ, nhưng Gabriel tước vũ khí của anh ta và bảo anh ta quay trở lại ngôi nhà. Sarah mặc quần, đi ủng cưỡi ngựa và khoác áo lông cừu. Gabriel vẫn mặc bộ vest màu xám lúc dự buổi điều trần của các thượng nghị sỹ. Anh cầm khẩu súng của người nhân viên trong tay phải.
“Arian có vẻ không vui vì sự xuất hiện của anh trước Ủy ban”.
“Đúng vậy”.
“Một người nào đó phải chuyển thông điệp về những người bạn Arập Xêút của chúng ta. Còn ai khác ngoài anh? Anh đã cứu được mạng sống của Tổng thống”.
“Không, Sarah, chính cô mới là người cứu Tổng thống. Có lẽ một ngày nào đó đất nước sẽ nhận ra họ có món nợ lớn với cô”.
“Tôi không muốn công khai bản thân quá sớm”.
“Kế hoạch của cô là gì?”
“Adrian chưa kể với anh à? Tôi sẽ gia nhập cơ quan. Tôi nhận ra rằng thế giới nghệ thuật có thể vẫn tồn tại mà không cần đến một người phụ trách bảo tàng”.
“Bên nào? Điệp vụ hay tình báo?”
“Tình báo”, cô đáp. “Tôi đã có đủ kinh nghiệm hoạt động cho cả đời người. Thêm nữa, sẽ không an toàn nếu tôi sớm xuất đầu lộ diện. Zizi đã cảnh cáo tôi về án phạt cho những người phản bội hắn”.
“Hắn có mạng lưới hoạt động vươn xa lắm. An ninh của cô ở Mỹ thì sao?”
“Người ta sẽ cho tôi tên và nhân dạng mới. Tôi được quyền chọn tên. Tôi tự hỏi không biết anh có cho phép tôi sử dụng tên của mẹ anh không?”
“Irene?”. Gabriel mỉm cười. “Tôi rất lấy làm vinh dự. Bà ấy giống cô - một người phụ nữa can đảm phi thường. Lần tới khi cô đến Israel, tôi sẽ cho cô đọc những gì xảy ra với bà trong chiến tranh”.
Sarah dừng bước, mân mê một bông hoa sơn thù du vừa nở rộ.
“Còn anh thì sao, Gabriel? Kế hoạch của anh là gì?”
“Tôi nghĩ cô và tôi có lẽ đi theo hai hướng khác nhau”.
“Ý anh là sao?”
“Tôi e rằng mình không thể nói gì hơn vào lúc này”.
Cô bĩu môi đập nhẹ vào tay anh. “Anh không dự định giữ bí mật với tôi từ giờ phút này chứ?”
“Giờ đây cô đang làm việc cho cơ quan Tình báo của một nước khác, tôi e rằng mối quan hệ của chúng ta sẽ phải có một số…” Anh ngừng lại tìm từ diễn đạt cho đúng bằng tiếng Anh. “Giới hạn nhất định”.
“Thôi nào, Gabriel. Chúng ta có mối dây ràng buộc vượt quá qui tắc liên lạc giữa đặc vụ của các tổ chức tình báo khác nhau”.
“Tôi thấy cô đã bắt đầu sử dụng nhuần nhuyễn những gì được huấn luyện”.
Sarah nói. “Việc này giúp tôi đỡ buồn khi sống một mình ở nông trại này”.
“Cô khỏe không, Sarah?”
“Ban ngày tôi ổn, nhưng ban đêm tôi cảm thấy rất khó khăn”.
“Cô sẽ cảm thấy như vậy trong một thời gian dài. Nhưng làm việc cho cơ quan Tình báo sẽ giúp cô dễ chịu hơn. Cô có biết họ sẽ cho cô làm việc gì không?”
“Đến Arập Xêút ”, cô nói. “Tôi đề nghị như vậy”.
Khu rừng rung chuyển vì loạt sấm từ xa. Sarah hỏi thăm về Julian Isherwood.
“Tình trạng hiện thời của anh ấy rất giống của cô”.
“Các anh đưa anh ấy đi đâu?”
“Sarah”.
“Nói đi, Gabriel”.
“Anh ta được bảo vệ tại một căn nhà cũ gần Vùng Tận Cùng ở Cornwall”.
“Còn phòng tranh thì sao?”
“Tạm thời bị đóng cửa. Việc cô rời Luân Đôn đã gây ra một vụ xì căng đan. Những anh bồi bàn tại quầy rượu của nhà hàng Green nhớ cô lắm”.
“Tôi cũng nhớ họ. Nhưng tôi nhớ đội của anh hơn”.
“Mọi người gửi lời chào”. Gabriel ngập ngừng. “Họ cũng nhờ tôi nói lời xin lỗi với cô”.
“Về việc gì?”
“Chúng tôi đã làm cô thất vọng, Sarah. Rõ ràng chúng tôi đã bị những tên trong đội an ninh của bin Shafiq hay Zizi nhìn thấy”.
“Có lẽ đó là lỗi của tôi”. Cô nhún vai. “Nhưng chuyện này không quan trọng. Tất cả chúng ta đều may mắn sống sót để mà thoát khỏi vụ này, ngoài ra còn hạ được mười lăm tên trong ngôi nhà đó. Chúng ta còn phá hỏng âm mưu ám sát Tổng thống. Được quá đi chứ, Gabriel”.
Lại một hồi sấm khác, lần này gần hơn. Sarah nhìn lên bầu trời.
“Tôi phải hỏi cô mấy điều, Sarah. Có một vài thứ tôi cần biết trước khi đóng lại quyển sách về lần hoạt động này”.
Sarah vẫn ngước mắt nhìn trời. “Anh muốn biết tôi khai gì với bọn chúng trong căn nhà ở Thụy Sĩ”.
“Tôi biết cô bị bỏ thuốc. Tôi biết có lẽ cô đã cố đẩy những ký ức đau buồn đó ra khỏi đầu mình”.
Cô nhìn anh rồi lắc đầu. “Tôi không cố quên”, cô nói. “Thật ra tôi còn nhớ từng từ”.
Những giọt mưa đầu tiên bắt đầu rơi. Sarah dường như không chú ý. Họ đi dưới những hàng cây, Sarah lần lượt kể cho anh nghe.
Carter tiễn Gabriel đến sân bay Dulles và đưa anh qua cửa an ninh. Họ ngồi cùng nhau trong khoang ngoại giao đặc biệt chờ thông báo chuyến bay. Gabriel bỗng chú ý đến người đàn ông ngồi bên phòng đối diện: Hoàng tử Bashir, đại sứ Arập Xêút ở Mỹ.
“Đừng nghĩ về chuyện đó, Gabriel”.
“Đối đầu công khai không phải là phong cách của tôi, Adrian”.
“Có lẽ không, nhưng Bashir khá thích chuyện đó”.
Tựa như nghe được câu chuyện, ông đại sứ vụt đứng dậy, bước ngang qua phòng. Ông ta dừng trước mặt Gabriel nhưng không chìa tay ra. “Tôi nghe nói sáng nay ông thu hút được khá nhiều khán giả tại đồi toà nhà quốc hội ông Allon. Toàn những lời nói dối và tuyên truyền của dân Do Thái, nhưng kể cũng khá hài hước”.
“Buổi điều trần được giữ bí mật, Bashir”.
“Không có gì diễn ra trong thành phố này mà tôi không biết. Ông phải gọi tôi là Hoàng tử Bashir”. Viên đại sứ nhìn Carter. “Anh có chịu trách nhiệm về tiết mục xiếc ngày hôm nay không, Adrian?”
“Các Thượng nghị sỹ ra trát hầu tòa, thưa Hoàng tử. Cục không liên quan gì đến việc này”.
“Lẽ ra các anh nên làm điều gì đó để ngăn chặn chuyện ấy”.
“Đây không phải là Riyadh, thưa ngài đại sứ”.
Bashir trừng mắt nhìn Carter, sau đó quay trở lại chỗ ngồi.
“Tôi đoán mình không đủ tiêu chuẩn nằm trong kế hoạch nghỉ hưu của người Arập Xêút ”.
“Gì cơ?”
“Không có gì”, Carter nói.
Mười phút sau loa phóng thanh thông báo chuyến bay của Gabriel. Carter tiễn anh đến cửa ra.
“Ồ, tôi gần như quên khuấy chuyện này. Tổng thống gọi điện đến nhưng lúc đó anh đang nói chuyện với Sarah. Ông ấy muốn ngỏ lời cảm ơn. Ông ấy bảo sẽ gặp anh vào dịp khác”.
“Nhắn hộ tôi rằng ông ấy đừng bận tâm”.
“Tổng thống cũng bảo ông muốn anh tiếp tục kế hoạch hai người đã thảo luận tại Bãi cỏ phía Nam”.
“Ông chắc không?”
“Chắc về chuyện gì?”
“Ông có chắc Tổng thống nói như thế không?”
“Chắc chắn”, Carter đáp. “Thế hai người nói chuyện gì đêm hôm đó?”
“Cuộc chuyện trò của chúng tôi mang tính chất cá nhân, Adrian, và sẽ luôn là như vậy”.
“Anh cừ lắm”. Carter nói.
Họ bắt tay; sau đó Gabriel quay bước lên máy bay.