Chương 125 uỷ lạo quân đội nhập khách thập



Quang Tự 25 năm tám tháng nhập bảy ngày, dương lịch 1899 năm ngày 1 tháng 10. Y nhĩ khắc cái thản sơn khẩu đông sườn chênh vênh đá phiến hẻm núi, đáy cốc khắc tư lặc tô hà ( Xích Thủy Hà ) lao nhanh mà xuống, nước sông lạnh băng đến xương, bên bờ kết miếng băng mỏng, thiệp độ cần dẫm đạp băng thích thạch nhảy lên. Khe rải rác cổ sông băng phiêu lịch, cự thạch mặt ngoài khắc có Đột Quyết văn cùng hán văn “Trà” “Mã” chữ, phong hoá nghiêm trọng, bộ phận bị rêu phong bao trùm. Chỉ nham phùng trung sinh trưởng chịu rét gai đậu, hồng cảnh thiên, khô vàng nhánh cỏ phúc sương như chỉ bạc, ngẫu nhiên thấy tuyết liên tàng với cản gió chỗ. Sơn khẩu hình thành hiệp quản hiệu ứng, Siberia gió lạnh cùng cao nguyên dòng khí đối hướng, tốc độ gió thường đạt 8 cấp trở lên, cát bay đá chạy đập vách đá tranh tranh rung động.


Sơn khẩu đông sườn quyết đoán nứt giới bia, âm khắc “Đại Thanh Quang Tự 12 năm khám giới”, bia thân vết đạn chồng chất, cái bệ đè nặng nga chế vỏ đạn cùng Cole khắc tư người cầu phúc sừng dê. Đỉnh núi phong hoả đài than vì thạch đôi, lang phân nhiên liệu sớm bị nga quân lược tẫn, cận tồn nửa thanh cột cờ nghiêng cắm, rách nát hoàng long kỳ ở trong gió phần phật dục toái. Cửa cốc Thanh quân tạp luân ( biên phòng trạm gác ) kháng thổ thành lũy đã nửa sụp, mũi tên đống nứt toạc, cạnh cửa huyền “Đại Thanh tây thùy” mộc biển, chữ viết mơ hồ. Bảo nội cận tồn lò sưởi tro tàn cùng đoạn bính trường mâu. Nguyên trú lục doanh binh không đủ mười người, quần áo tả tơi, súng hỏa mai rỉ sắt thực, đạn dược bị ẩm.


Gió cát trung, ẩn ẩn truyền đến lục lạc thanh, một cái thương đội uốn lượn xuất hiện ở trên đường núi. Phòng giữ vương đức lộc đá nổi lên tứ tán ở thành lũy góc tránh gió binh lính, mấy người xiêu xiêu vẹo vẹo mà đứng lên. Thương đội thực mau tới rồi đồn biên phòng trước, Thanh quân dân tộc Duy Ngô Nhĩ người phiên dịch tiến lên thẩm tr.a đối chiếu lộ dẫn, vương đức lộc mang theo mấy cái binh lính phía trước phía sau mà xem xét đà đội hàng hóa, thấy nhiều là vải bông, không có gì nước luộc, sau đó nhìn đến có hai đầu lạc đà thượng hàng hóa không giống vải bông, bao khẩn thật, tức khắc ánh mắt sáng lên, hô, “Người tới, đem này mấy đà hàng hóa dọn xuống dưới kiểm tr.a thực hư, nhìn xem có phải hay không muốn giao dương hóa thuế”. Lý chưởng quầy đang muốn tiến lên, lại thấy Vương Nguyệt Sinh hơi hơi lắc lắc đầu, thế là dừng bước một bên.


Đợi đến mấy cái binh lính đem hàng hóa dọn hạ, mở ra sau, lại thấy bên trong là dùng vải thô lần thứ hai bao vây từng cái vật phẩm, mỗi khối vải thô thượng còn có chữ viết, binh lính không biết chữ, kêu vương đức lộc đi lên quan khán, thấy viết đều là “Thú biên anh kiệt” bốn chữ. Vương đức lộc kinh ngạc mà nhìn phía Lý chưởng quầy, Lý chưởng quầy hướng Vương Nguyệt Sinh chu chu môi, vương đức lộc lại nhìn về phía đứng thẳng một bên Vương Nguyệt Sinh, Vương Nguyệt Sinh chắp tay nói, “Tại hạ hải ngoại du học về nước, cùng Lý chưởng quầy thương đội về nước. Thấy rõ thú biên huynh đệ khốn khổ, cố ý chuẩn bị chút tâm ý cấp đóng giữ Khách Thập Cát Nhĩ các huynh đệ. Thỉnh đại nhân mở ra kiểm tr.a thực hư không sao”.


Vài tên binh lính mở ra này đó vải thô, Vương Nguyệt Sinh giới thiệu nói “Này hai chở mỗi chở 300 cân, cộng 600 cân. Mỡ heo hỗn quả nhân xào chế mặt 100 cân; có bơ hỗn thanh khoa chế bánh 100 cân, phong càn thịt dê 100 cân, ưng miệng đậu 100 cân, muối cùng trà bánh bao nhiêu, đại hoàng phấn, bạc hà phấn, lưu huỳnh phấn chờ dược vật bao nhiêu. Đóng gói vải thô đều là đặc chế, đơn giản đối gấp, dựa theo dự lưu nút thắt khuy áo trát trụ, liền thành dùng chung áo cộc tay. Có chữ viết một mặt ở phía sau bối, phía trước hào khảm lưu trữ các tướng sĩ chính mình điền”.


Vương đức lộc nghe, chậm rãi vành mắt đỏ, khóc không thành tiếng nói “Ta này tạp luân, còn không bằng bọn Tây ổ chó! Nhân gia mộc bảo nhóm lửa lò, uống Vodka, chúng ta gặm đông lạnh nang, nhai tuyết nắm. Triều đình ba năm chưa bát tiền lương, các huynh đệ dựa phiến da sống tạm. Chưởng quầy cấp khối trà bánh, các huynh đệ quỳ kêu gia gia! Không thể tưởng được còn có người nhớ thương chúng ta đàn ông khổ”.


Khách Thập Cát Nhĩ ( đời sau Tân Cương Khách Thập ) nằm ở trong tháp bồn gỗ mà tây duyên, bắc lân Thiên Sơn, nam ỷ khách rầm Côn Luân sơn, đông tiếp tháp cara mã làm sa mạc, là con đường tơ lụa nam bắc nói giao điểm.


Thành nội lấy phun mạn hà vì giới, phân tân thành ( mãn thành ) cùng lão thành. 1442 năm thủy kiến lão thành lấy ngải đề ca nhĩ nhà thờ Hồi giáo vì trung tâm, phố hẻm như mê cung uốn lượn, gạch mộc phòng dày đặc, nóc nhà ngôi cao tương liên, cụ điển hình trung á ốc đảo thành thị đặc trưng. Tường thành ( bộ phận vì kháng thổ kết cấu ) vờn quanh, cửa thành mỗi ngày khai bế, thương đội xuất nhập cần nộp thuế.


Làm Thanh triều Nam Cương hành chính trung tâm, bên trong thành thiết có “Trung Quốc nha thự” quản lý chính vụ, đóng quân mãn hán quan binh “Mãn thành” độc lập với chủ thành khu ngoại. Tân Cương với 1884 năm lập tỉnh, Khách Thập Cát Nhĩ là Thanh triều “Hồi Cương tám thành” chi nhất, thiết Khách Thập Cát Nhĩ nói, từ triều đình phái trú quan viên quản lý, nhưng địa phương sự vụ vẫn chịu dân tộc Duy Ngô Nhĩ truyền thống tinh anh ( như thầy tu đạo I-xlam, bá khắc hậu duệ ) ảnh hưởng.


Hán, hồi ( duy ngô nhĩ ) phân trị chính sách hạ, lão thành ( nay Khách Thập cổ thành ) lấy duy ngô nhĩ cư dân là chủ, người Hán quan viên, tiểu thương nhiều cư với tân thành ( sơ lặc ). Cư dân lấy dân tộc Duy Ngô Nhĩ là chủ, hỗn loạn số ít Cole khắc tư, tháp cát khắc, Uzbekistan ( an tập duyên người ) cập hán, hồi thương nhân. Phố hẻm trung trải rộng thợ rèn phô, đồ gốm xưởng. Dân cư nhiều vì hai tầng thổ mộc kết cấu, nóc nhà sân thượng gieo trồng hoa cỏ, mộc chất khắc hoa cửa hiên cực có đặc sắc.


Ngải đề ca nhĩ nhà thờ Hồi giáo là đạo Islam hoạt động trung tâm, quanh thân phố hẻm trung có thể thấy được đầu đội hoa mũ dân tộc Duy Ngô Nhĩ cư dân, đầu triền vải bố trắng hạo hãn thương nhân cùng với người mặc chế phục Thanh triều binh lính, hình thành nhiều dân tộc hỗn cư cảnh tượng. Đường đất đường tắt ngang dọc đan xen, xe lừa cùng người đi đường đi qua ở giữa. Nhà thờ Hồi giáo bên có thân hoạn bệnh chân voi nhi đồng ăn xin. Đạo Islam chiếm chủ đạo, mỗi ngày năm lần tuần thanh quanh quẩn, thứ sáu tụ lễ khi ngải đề ca nhĩ nhà thờ Hồi giáo nhưng dung vạn người. Tô phỉ phái giáo đoàn ( như y thiền phái ) ở dân gian ảnh hưởng sâu xa.


Làm con đường tơ lụa nam tuyến cùng trung á thảo nguyên lộ tuyến giao điểm, Khách Thập Cát Nhĩ hội tụ đến từ nước Nga ( bố ha kéo, Tashkent ), anh thuộc Ấn Độ ( Kashmiri ), Afghanistan cập Trung Quốc nội địa thương đội. Lạc đà, mã bang chở vận hàng hóa, nước Nga đồng Rúp cùng Thanh triều đồng tiền song hành lưu thông. Đại hình ba trát ( chợ ) duyên đường phố triển khai, đặc biệt “Âu nhĩ đạt hi khắc” ( hoàng cung đại môn ) ba trát trứ danh. Bán hàng rong bán cùng điền ngọc thạch, Ấn Độ hương liệu, nước Nga vải vóc, đơn vị đo lường Anh ngũ kim cập bản địa vải dệt thủ công, càn quả.


Thủ công nghiệp xưởng ( đồng khí, khắc gỗ, thổ đào ) tập trung với riêng khu phố, thợ thủ công nhiều thế hệ truyền thừa tài nghệ. Bản địa sản xuất Khách Thập Cát Nhĩ nhung thảm, duy ngô nhĩ tiểu đao ( “Anh cát sa tiểu đao” ), in hoa vải bông ( “Edley tư lụa” đời trước ) xa tiêu trung á. Thiên Tân thương nhân dẫn vào nội địa lá trà, tơ lụa chờ, cùng nước Nga thương phẩm hình thành cạnh tranh. Nước Nga thương nhân thu mua lông dê, thuộc da, đưa vào công nghiệp chế phẩm ( que diêm, dầu hoả ), hình thành trao đổi không công bằng.


Đầu đường có thể thấy được thuyết thư nhân suy diễn 《 phúc nhạc trí tuệ 》, trong quán trà thương nhân trừu mạc hợp yên, uống phục trà đàm phán sinh ý. Ba trát thượng nướng bánh bao, trảo cơm hương khí tràn ngập, khất cái ngâm xướng “Mộc tạp mỗ” đoạn ngắn ăn xin. Tiết khánh khi, tát mã vũ cùng đấu dương hoạt động hấp dẫn đám người.


Lúc này thượng vô Vương Nguyệt Sinh quen thuộc hoặc là ở Âu Mỹ nga thường thấy hiện đại phương tiện giao thông, hàng hóa ỷ lại lạc đà, xe lừa vận chuyển. Nước Nga ý đồ xây cất trung á đường sắt áo luân bảo - Tashkent tuyến chưa kéo dài đến Khách Thập, tin tức truyền lại vẫn dựa trạm dịch hệ thống truyền lại hoặc thương đội tiện thể mang theo. Thủ công nghiệp kỹ thuật tiếp tục sử dụng cổ xưa kỹ xảo, như thổ đào không thượng men gốm, đồng khí thủ công chạm hoa, dệt thảm sử dụng vuông góc giá gỗ. Nước Nga dẫn vào giản dị máy móc ( như cán miên cơ ) bắt đầu linh tinh xuất hiện.


Lúc này thanh đình thống trị lực tiệm suy, nga anh người đại lý âm thầm tranh đoạt lực ảnh hưởng. Bá khắc chế độ tuy trên danh nghĩa huỷ bỏ, cũ quý tộc vẫn lưu giữ xã hội uy vọng. Tầng dưới chót dân chúng chịu thuế phụ cùng vay nặng lãi bóc lột, mai phục kế tiếp rung chuyển phục bút. Nước Nga cùng Anh quốc thông qua 《 trung nga y lê điều ước 》 chờ hiệp nghị thẩm thấu Tân Cương.


1893 năm thiết lập nước Nga lãnh sự quán nằm ở cửa bắc ngoại, nga hoa nói thắng ngân hàng tại đây thiết lập thương mậu khu, nước Nga thương phẩm ( như in hoa vải dệt, vật dụng hàng ngày ) đại lượng phá giá, hình thành lấy bán nước Nga hóa là chủ “An tập duyên thương mậu khu”. Hạo hãn quốc thương nhân ở cửa bắc ngoại an tập duyên thương mậu khu kinh doanh, phố hẻm hẹp hòi chen chúc, gạch phòng có chứa Nga phong cách.


Anh quốc lãnh sự quán chưa thành lập, nhưng lúc này Anh quốc thế lực đã thông qua Ấn Độ thương nhân sinh động với địa phương thị trường. Thuỵ Điển thám hiểm gia văn nhã hách định từng với 1890 niên đại nhiều lần đi qua Khách Thập, Anh quốc nhà khảo cổ học Stain đó là đem với 1900 năm đầu phó Tây Vực, Khách Thập trở thành phương tây thám hiểm đội trạm tiếp viện. Người truyền giáo ( như Thuỵ Điển truyền giáo trạm ) hoạt động hữu hạn, chủ yếu phục vụ với số rất ít Châu Âu người.


Khách Thập Cát Nhĩ đề đốc vì Tân Cương tứ đại đề đốc chi nhất, khác vì y lê, a khắc tô, Barry khôn, quản hạt Nam Cương tây bốn thành Khách Thập Cát Nhĩ, anh cát sa nhĩ, diệp nhĩ Khương, cùng điền đóng quân, kiêm quản biên phòng, đồn điền cùng địa phương trị an. Đề đốc phủ nằm ở Khách Thập tân thành ( nay sơ lặc huyện ), cùng lão thành ( duy ngô nhĩ tụ cư khu ) cách xa nhau vài dặm, hình thành “Seoul - trở về thành” phân trị cách cục. Đề đốc nhiều từ Tương quân, cam quân hệ thống người Hán tướng lãnh đảm nhiệm, lúc này ở nhậm đề đốc vì đổng phúc tường cũ bộ trương tuấn.


Tân Cương đóng quân lấy “Dũng doanh” là chủ, lúc này chủ yếu là đổng phúc tường cam quân cải biên “Định xa quân”, phụ lấy chút ít Bát Kỳ còn sót lại cùng lục doanh chế độ cũ. Khách Thập Cát Nhĩ đề đốc khu trực thuộc ( hàm quanh thân bốn thành ) tổng đóng quân ước 2000-3000 người, trong đó Khách Thập tân thành trung tâm đóng quân ước 800-1000 người. Tương so nga thuộc trung á đóng quân, như áo luân bảo quân đoàn mấy vạn người, quy mô rõ ràng không đủ. Khách Thập đóng quân chia làm trang bị so kiểu mới súng ống chủ lực bộ đội, phụ trách yếu địa phòng ngự quân thường trực; phân tán đóng quân với biên cảnh tạp luân ( trạm gác ) cùng giao thông yếu đạo, nhiều cầm kiểu cũ vũ khí tuần phòng doanh cùng nửa nông nửa binh; thời gian chiến tranh trưng điều, sức chiến đấu thấp hèn đồn điền binh. Trong đó kỵ binh ước 200-300 người dùng với biên cảnh tuần tra, ngựa nhiều vì bản địa lùn ngựa giống; bộ binh làm chủ lực bộ đội, trang bị súng trường giả ước một nửa; pháo binh thuộc về tượng trưng tính tồn tại, chỉ có số môn cũ xưa trước thang pháo ( như “Phá núi pháo” ), vô cận đại pháo.


Trang bị súng ống hỗn tạp, có chút ít thông qua Thiên Tân, Hán Khẩu hiệu buôn tây mua nhập nhập khẩu súng trường như đức chế mao sắt súng trường ( MauserM1871 ), đơn vị đo lường Anh mã Boutini - Henry súng trường, nhưng đạn dược cung ứng không ổn định. Sản phẩm trong nước hỏa khí như Giang Nam chế tạo cục phỏng chế “Lâm minh đăng biên châm thương” ( RemingtonRollingBlock ) cập thổ tạo nâng thương ( hai người thao tác trọng hình súng hỏa mai ) chiếm trang bị đa số. Đến nỗi đại đao, trường mâu chờ vũ khí lạnh vẫn rộng khắp trang bị, đặc biệt đồn điền binh cùng tuần phòng doanh.


Hơn nữa kho đạn tồn trữ bị không đủ, binh lính thật đạn huấn luyện cực nhỏ, binh lính xạ kích độ chặt chẽ thấp hèn. Anh quốc thám hiểm gia Stain từng ký lục: “Thanh quân binh lính phóng thương khi nhắm mắt quay đầu, súng vang vết xe đổ thổ phi dương, lại không người trúng đạn”. Khuyết thiếu duy tu năng lực, hư hao súng ống thường bị bỏ dùng. Nước Nga lãnh sự báo cáo xưng Khách Thập Thanh quân “Súng trường kích cỡ hỗn độn như đồ cổ cửa hàng, một nửa binh lính không biết nhắm chuẩn cụ cách dùng”. Huấn luyện thượng tiếp tục sử dụng Tương quân chế độ cũ, chú trọng trận pháp thao diễn ( như “Phạm vi trận” ), nhưng khuyết thiếu cận đại chiến thuật huấn luyện. Hỏa khí sử dụng huấn luyện cực nhỏ. Kỵ binh vẫn luyện tập truyền thống cưỡi ngựa bắn cung, đối kháng nga quân Kazaki kỵ binh vô ưu thế. Quan quân hủ bại phổ biến, cắt xén lương hướng dẫn tới binh lính kiêm chức người bán rong, nông dân lấy duy sinh. 1895 năm “Hà hoàng biến cố” sau, bộ phận cam quân điều nhập Tân Cương, này sức chiến đấu hơi cường, nhưng trường kỳ đóng giữ sau dần dần chậm trễ.


Khách Thập tân thành ( sơ lặc ) kiến có kháng thổ tường thành, chiến hào cập bốn môn pháo đài, nhưng phòng ngự hệ thống dừng lại ở vũ khí lạnh thời đại, khó có thể chống đỡ cận đại pháo. Duyên khăn mễ nhĩ cao nguyên thiết có bao nhiêu chỗ tạp luân ( như y nhĩ khắc cái đường ), nhưng đóng quân chỉ mười hơn người, trang bị đơn sơ, đối nga quân thẩm thấu mấy vô uy hϊế͙p͙. Đối lập dưới, nga thuộc trung á đóng quân đã toàn diện đổi trang bá đan súng trường ( Berdan ), Mark thấm súng máy, cũng ở Almaty chờ mà xây cất đường sắt, hậu cần ưu thế rõ ràng.






Truyện liên quan