Chương 69
Type: Le Nguyen
Mưa bụi như tơ giăng kín không trung. Con đường lát đá mang đậm hương vị cổ xưa không có một bóng người. Trên tường những căn nhà ảm đạm, xám xịt hai bên đường dán mấy bức hình đã ố vàng rách nát, loáng thoáng có thể nhận ra mấy chữ “Người gan dạ cỡ nào, đất rộng lớn cỡ ấy”, “Chuyên chính vô sản vạn tuế”…
Quá nửa nhà cửa đều bị bỏ hoang, có vẻ đã lâu không có ai ở. Thỉnh thoảng trong một, hai căn nhà có bóng người thấp thoáng lướt qua tựa như một bóng ma. Giản Dao dìu Bạc Cận Ngôn đi trên con đường mà ngỡ rằng mình đang nằm mơ. Cô tuyệt đối không ngờ đến họ lại trôi dạt tới nơi quái gở này.
Bạc Cận Ngôn nghe cô tả lại cảnh sắc dọc đường, đưa ra lời đánh giá: “Thế giới to lớn, không gì là không thể. Với lại tổ chức Phật Thủ ẩn náu ở đây, nói không chừng tất cả những gì chúng ta nhìn thấy chỉ là biểu hiện bên ngoài mà thôi.”
Một câu nói của anh khiến lòng Giản Dao thêm kinh hãi. Nhưng rốt cuộc cô đã thấy được hơi thở của sự sống lẩn khuất nơi đây. Ngay khúc cua phía cuối đường có một cửa hàng tạp hóa thắp đèn sáng rực, trong tủ bày bánh kẹo, thuốc lá, mì gói, giấy vệ sinh giá rẻ…
Giản Dao nắm tay Bạc Cận Ngôn đi đến phía trước, hỏi dò: “Xin hỏi có ai không?”
Có tiếng bước chân truyền đến từ bên trong. Giản Dao liếc mắt quan sát một vòng. Nơi này rất đơn sơ, sau quầy hàng đặt một cái bát vừa ăn xong và một chiếc ghế nhựa màu đỏ. Trên khung cửa sổ khép hờ, có người dùng cọ nguệch ngoạc viết số và chữ cái tiếng Anh A, B, C, D, E, F, G, H, I, J… và một vài chữ Hán đơn giản, trông giống như trẻ con đang học viết vậy.
Một cô bé đi ra, nhìn không rõ rốt cuộc là mười lăm, mười sáu hay mười tám, mười chín tuổi. Vóc dáng cô bé không cao, khuôn mặt xinh xắn, có chút ngây thơ nhưng ăn mặc rất chững chạc. Áo sơ mi vải sợi tổng hợp từng được ưa chuộng những năm 70, 80, quần thun bó màu đen, chân đi giày vải. Quả thật giống như cô bé mặc đồ của bà cụ vậy. Nhưng trang phục của cô ấy lại rất phù hợp với khung cảnh cũ kỹ và lạc hậu xung quanh. Đôi mắt của cô rất trong trẻo, linh hoạt, nhìn chằm chằm hai vợ chồng họ với ánh mắt tò mò: “Hai người từ đâu đến đây?”
Trong giây phút ngắn ngủi, Giản Dao đã kịp quan sát cô bé thêm lần nữa. Tóc buộc đuôi ngựa, da ngăm đen khỏe mạnh, trên mắt cá chân còn có chút bùn đất và vết cắn nho nhỏ, giống như người làm việc đồng áng suốt thời gian dài. Cô lịch sự mỉm cười: “Chào em, bọn chị đi dã ngoại, thuyền bất ngờ bị chìm, lạc đường đến chỗ này. Xin hỏi đây là đâu vậy?”
Cô bé chớp mắt: “Đây là Tri Tử Châu ạ.” Hoàn toàn đúng như A Hồng đã nói.
Cô bé lại nhìn về phía Bạc Cận Ngôn đứng sau Giản Dao: “Anh ấy bị sao thế?”
Ánh mắt Giản Dao cũng nhìn xuống ống quần nhuốm máu của Bạc Cận Ngôn. Vụ sạt lở khi nãy, tuy hai người phản ứng nhanh nên thoát nạn, cô chỉ bị thương nhẹ, nhưng Bạc Cận Ngôn thì thương tích khá nặng. Một mắt cá chân của anh đã sưng vù, hai chân trầy trụa máu me. Mặc dù suốt quãng đường, anh không hề rên rỉ lấy một tiếng, nhưng sắc mặt rất khó coi. Cô sợ vết thương của anh bị nhiễm trùng bèn vội vàng bắt chuyện: “Bọn chị gặp sạt lở, anh ấy bị thương. Em gái, ở đây em có di động hay điện thoại bàn không? Chị muốn gọi cho bạn xin giúp đỡ.”
Cô bé tựa vào khung cửa, lắc đầu: “Ở chỗ này không có điện thoại, cũng không có di động gì đó mà chị nói. Em cũng chưa từng thấy nó bao giờ. Mẹ em bảo vì ở trên không trung không có sóng.” Cô bé chỉ lên bầu trời âm u.
Giản Dao không ngờ kết quả lại như vậy, thoáng sửng sốt. Bạc Cận Ngôn từ tốn vuốt nhẹ tay cô, ý bảo đừng nóng lòng. Hành động này của hai người bị cô bé bắt gặp, liền “òa” lên một tiếng: “Hai anh chị là người yêu à? Tình cảm tốt ghê!”
Lời nói này rất hồn nhiên, Giản Dao miễn cưỡng cười, xốc lại tinh thần hỏi: “Em tên gì?”
“Em tên Khưu Tự Cẩm. “Cẩm” của gấm hoa rực rỡ ấy.”
“Vậy Tự Cẩm, chị muốn hỏi một chút, ở đây có bác sĩ không? Chị muốn tìm người trị thương cho anh ấy.”
Câu hỏi này không làm khó Tự Cẩm. Cô bé nhảy ra khỏi cửa, xởi lởi đáp: “Ở đây có một bác sĩ, chỉ một người thôi. Giống như anh chị, cũng là người từ nơi khác đến. Bác sĩ ấy tốt lắm, để em dẫn anh chị đi.”
Đi chừng nửa con phố, rốt cuộc họ thấy thêm vài người, đều là dân bản xứ, ăn mặc kiểu dáng cũ kỹ hệt như Khưu Tự Cẩm. Còn có một người gánh hai thùng nước băng qua đường. Theo Khưu Tự Cẩm cho hay, trấn nhỏ không có hệ thống nước máy, mọi người muốn dùng đều phải ra giếng chung lấy nước. Nước giếng rất sạch, có thể uống trực tiếp.
Mấy dân làng thấy Bạc Cận Ngôn và Giản Dao đều kinh ngạc, dừng bước nhòm ngó. Có thể thấy được, nơi đây bình thường hiếm khi người ngoài lui tới. Sắc mặt Giản Dao vẫn như thường, tiếp tục đỡ Bạc Cận Ngôn đi về phía trước. Khưu Tự Cẩm lon ton đi phía trước, vô tư chào hỏi mấy người qua lại trên đường.
Hơn nữa, không biết đám người Phật Thủ có núp trong trấn nhỏ này không?
Phía trước có một căn nhà nhỏ, trước cửa đặt vài chậu cây xanh, trên cửa sổ treo một cây cờ chữ thập đỏ ố màu. Tuy nhà cửa cũ kỹ nhưng vẫn sáng sủa, sạch sẽ, sắc xuân ngập tràn. Đây là căn nhà có sức sống nhất kể từ lúc Giản Dao bước vào thị trấn này đến giờ. Đó chính là nhà của vị bác sĩ được nói đến lúc nãy.
Khưu Tự Cẩm chạy vào trước, hô lớn: “Bác sĩ, bác sĩ Ôn, có người bệnh này!”
Giản Dao dìu Bạc Cận Ngôn bước vào nhà.
Bác sĩ Ôn là một người đàn ông cao gần 1m8, vóc dáng gầy gầy, mặc áo blouse trắng, có vài phần phong thái thanh nhã không nhiễm bụi trần. Anh ta nghe thấy có người gọi liền quay đầu lại, trên gương mặt nở nụ cười ấm áp: “Tự Cẩm, lại đến trêu anh…”, nhưng khi thấy Bạc Cận Ngôn và Giản Dao thì thoáng ngẩn ngơ.
Giản Dao không ngờ ở trấn nhỏ trầm lặng quái dị này lại gặp được một vị bác sĩ như vậy. Tướng mạo tuấn tú, khí chất nhã nhặn, nói cười ôn hòa, mặt mày sáng sủa. Cho dù đứng trong căn phòng đơn sơ cũng không thể giấu đi hào quang rực rỡ của anh ta.
Lòng cô bỗng nhớ đến Phó Tử Ngộ. Tuy hai người dáng vẻ khác nhau nhưng khí chất lại tương đồng. Họng cô bỗng khô ran, trong đầu chợt nảy ra ý nghĩ: May mà Bạc Cận Ngôn không nhìn thấy.
Bác sĩ Ôn lên tiếng: “Hai người là…”
Lúc này, Giản Dao mới kín đáo dời mắt khỏi khuôn mặt anh ta, mỉm cười giới thiệu: “Chúng tôi là dân du lịch, giữa đường thuyền chìm nên bị dạt đến đây. Chồng tôi bị thương ở chân. Bác sĩ, anh có thể khám cho anh ấy được không?”
“Được.” Bác sĩ Ôn ngồi xổm xuống trước mặt hai người, Giản Dao dìu Bạc Cận Ngôn ngồi yên vị trên ghế, Khưu Tự Cẩm thì ở bên cạnh tò mò xem. Giản Dao nhìn thủ pháp của bác sĩ Ôn hết sức chuyên nghiệp, thành thạo nên cũng yên lòng.
“Sao lại bị thương thế này?” Bác sĩ Ôn hỏi thăm.
Giản Dao thành thật đáp: “Chúng tôi gặp sạt lở trên núi.”
Bác sĩ Ôn gật đầu, chỉ huy Tự Cẩm lấy dụng cụ chữa bệnh, bắt đầu xử lý vết thương cho Bạc Cận Ngôn. Còn Bạc Cận Ngôn từ đầu đến cuối không nói một lời, không biết đang suy nghĩ gì.
May mà không bị tổn thương đến xương. Bác sĩ Ôn cẩn thận băng bó cho anh, sau đó dặn dò những việc cần chú ý và kê toa thuốc, cuối cùng còn khuyên họ: “Xem ra hai người phải ở Tri Tử Châu một thời gian rồi, dưỡng lành vết thương rồi hãy đi.”
Trong lúc trò chuyện với nhau, Giản Dao và Bạc Cận Ngôn đã biết được tên họ đầy đủ của anh ta là Ôn Dung, một cái tên rất nho nhã. Trước đây, Ôn Dung làm bác sĩ ở thành phố lớn, thu nhập rất cao, cũng rất bận rộn. Giống như đa số thanh niên rời khỏi Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, anh ta ghét nhịp điệu cuộc sống hối hả, xô bồ như vậy. Một cơ hội bất ngờ đưa anh ta đến trấn nhỏ này, bị dáng vẻ thời gian ngưng đọng của nơi đây thu hút và rung động sâu sắc. Cuối cùng, anh ta quyết định ở lại mở một phòng khám bệnh. Dân cư trong trấn không nhiều lắm, gần như mỗi ngày anh ta đều nhàn nhã, nhưng đủ nuôi sống bản thân. Giản Dao từng gặp không ít người như anh ta ở thành phố cổ hoặc thị trấn nhỏ, cho nên có thể hiểu được.
Nhưng Giản Dao không hề chủ động hỏi về sự tồn tại của tổ chức Phật Thủ. Ôn Dung cũng không đề cập. Về phần điện thoại và Internet, Ôn Dung cũng tiếc nuối than rằng, quả thật ngọn núi này không có.
Lúc họ rời khỏi phòng khám của Ôn Dung, trời đã sầm tối. Giản Dao dìu Bạc Cận Ngôn ra ngoài, vô tình quay đầu lại liền thấy Ôn Dung đã cởi áo blouse, chỉ mặc áo sơ mi trắng và quần âu màu đen, đứng tựa bên cửa, mỉm cười tiễn họ. Còn Khưu Tự Cẩm khoác tay anh ta, bám dính lấy vị bác sĩ.
Lòng Giản Dao có chút bùi ngùi khó hiểu. Có điều, chuyện gấp rút trước mắt là tìm được một chỗ nghỉ chân rồi nghĩ cách thoát khỏi trấn nhỏ này hoặc liên lạc với tổng bộ.
Trấn nhỏ đâu đâu cũng có nhà hoang, họ không tốn nhiều thời gian đã tìm được một ngôi nhà tương đối sạch sẽ. Tuy rằng cũ nát nhưng trong nhà vẫn đầy đủ tủ giường, bàn ghế. Ngoài cửa có khoảnh sân nhỏ, cây mọc thấp thoáng, cỏ dại um tùm. Giản Dao dìu Bạc Cận Ngôn rảo bước băng qua giao lộ, mua thức ăn ở một quán nhỏ ven đường. Chủ quán vừa ngượng ngùng vừa tò mò hỏi: “Hai người chính là khách du lịch bị thương đó hả?” Xem ra trấn này vô cùng nhỏ, sự xuất hiện hai người họ chẳng mấy chốc đã truyền khắp nơi, cũng không biết là phúc hay họa.
Trời tối đen như mực, từng giọt mưa gõ tí tách vào cửa kính. Bạc Cận Ngôn nằm trên chiếc giường mộc mạc, Giản Dao tìm được một tấm chăn cũ trong tủ, giũ rất lâu mới miễn cưỡng đắp lên cho anh. Sắc mặt anh không tốt lắm, có lẽ do vết thương đau nhức, cũng có thể do hoàn cảnh nơi này quá tệ. Lòng cô cũng thấy mông lung, thầm nghĩ, từ khi hai người điều tr.a đến giờ vẫn chưa từng trải qua hoàn cảnh lâm nạn chốn hẻo lánh thế này.
Trong nhà không có điện, cô lục tìm được một chiếc đèn dầu. Lần này thì Bạc Cận Ngôn bật cười: “Em là Doraemon có khả năng biến ra mọi thứ sao?”
Lời nói đùa của anh khiến lòng Giản Dao thư thái hơn đôi chút: “Bây giờ biết được ích lợi khi dẫn em theo rồi chứ?” Rồi cô leo lên giường, tựa sát vào anh.
Ánh đèn leo lét soi sáng cả căn nhà như trong ảo ảnh. Xung quanh cực kỳ yên tĩnh, như thể “những người còn sót lại” trong trấn này đều ngủ say khi màn đêm buông xuống, khiến cảm giác cổ quái lại trào dâng mãnh liệt.
Một tay Bạc Cận Ngôn ôm lấy cô, một tay khác đeo máy đọc, tìm hiểu phần tài liệu quý báu mà đội trưởng Chu Thao đưa cho họ. Trong vầng sáng lờ mờ, ngay cả Giản Dao cũng không thấy rõ chữ, vậy mà máy đọc của anh vẫn nhận rõ từng nét, đọc từng hàng chữ thật lưu loát. Chẳng qua thỉnh thoảng sẽ có chút tạp âm “xoẹt, xoẹt”.
Một giờ sau, Bạc Cận Ngôn đã “xem” hết tất cả các tài liệu. Nội dung chú trọng ghi chép mấy cuộc giao dịch gần đây của tổ chức Phật Thủ, kết cấu hoạt động nội bộ và quan hệ hợp tác. Nhưng còn cơ cấu thành viên cốt lõi, bao gồm cả căn cứ địa thì không hề nhắc đến.
“Xem ra…” Bạc Cận Ngôn suy đoán: “Thông tin của người cung cấp tài liệu này cho Chu Thao chỉ có hạn. Hoặc là… phần tài liệu này không phải bản hoàn chỉnh.”
Giản Dao gật gù, bó xấp tài liệu và máy đọc vào ba lô, đưa thuốc mà Ôn Dung kê đơn cho anh.
Bạc Cận Ngôn lại nói: “Trong túi của chúng ta không phải có mang theo thuốc kháng sinh sao? Anh muốn uống thuốc của mình.”
Giản Dao hơi giật mình: “Tại sao?”
Bạc Cận Ngôn lý giải: “Nếu nơi này là hang ổ của Phật Thủ, bốn người chúng ta từng tiếp xúc hôm nay, em có thể xác định được ai không phải là sát thủ mặt nạ không? Người của Phật Thủ có lẽ không nhận ra chúng ta, nhưng sát thủ mặt nạ nhất định biết.”
Giản Dao chợt hốt hoảng, vội vàng vứt thuốc của Ôn Dung vào góc tường, lấy thuốc kháng sinh của mình ra.
Chờ Bạc Cận Ngôn uống thuốc xong, cô cầm một cây gậy gỗ gần giường, đứng dậy nói: “Tối nay, em sẽ canh gác.”
Nhưng Bạc Cận Ngôn lại đưa tay kéo cô trở về giường: “Không cần đâu. Đấu với kẻ địch, quan trọng nhất là xem xét thời thế, bỏ ra ít nhất nhưng gặt hái thành quả lớn nhất. Tối nay, chúng ta cứ ngủ một giấc thật ngon đi. Nếu bọn họ không rõ ràng thân phận của chúng ta, tối nay chắc chắn sẽ không manh động. Còn nếu biết rõ rồi, hai người chúng ta chẳng phải như ba ba trong rọ sao? Vậy họ sớm đã động thủ rồi, còn để chúng ta đi khám bệnh, dạo phố, ăn cơm sao? Cho nên bà Bạc à, em cứ xem như đang ở nhà. Tối nay, chúng ta không có nguy hiểm gì đâu, hãy ngủ một giấc đi.”
Giản Dao dở khóc dở cười, nhưng ngẫm nghĩ thấy cũng phải. Đã vào hang ổ của kẻ địch, dù họ có nhạy bén cỡ nào cũng khó lấy một địch trăm, chi bằng ngủ một giấc thì hơn. Nghĩ vậy nên cô đặt gậy gỗ bên giường, nghe lời anh nằm xuống ngủ.
Đêm khuya càng thêm yên ắng, tay chân Giản Dao dù đã đắp kín chăn vẫn lạnh buốt. Bạc Cận Ngôn ủ tay cô trong lòng bàn tay mình, lại nhấc hai chân cô đặt vào bắp đùi nóng hực của anh. Giản Dao không chịu, đau lòng nói: “Như vậy anh sẽ bị lạnh.”
Bạc Cận Ngôn chỉ cười trêu: “Ồ, nói cứ như trước kia, mỗi đêm đông em không hề thư thái làm như vậy ấy.”
Giản Dao phì cười: “Nhưng bây giờ, anh đang bị thương mà.”
“Vì có em nên thân nhiệt của anh không hề giảm.”
Khóe môi Giản Dao khẽ cong lên. Cô gối đầu trên tay anh, nhanh chóng thiếp đi. Ban đầu, hơi thở của Bạc Cận Ngôn còn đều đặn, lát sau phát hiện Giản Dao đã ngủ say, anh từ từ mở mắt ra trong đêm tối, lẳng lặng nghe tiếng mưa rơi ngoài cửa sổ, hồi lâu vẫn không chợp mắt.
Đến rạng sáng thì mưa đã tạnh. Ánh mặt trời le lói soi rọi khoảnh sân nhỏ lầy lội và những phiến lá long lanh ánh nước. Một đôi boot quân nhân hơi cũ giẫm trên đất bùn. Người nọ mặc áo jacket đen, chậm rãi nhả ra một làn khói thuốc. Không ít người loáng thoáng đứng sau lưng hắn.
Lát sau, hắn ném nửa điếu thuốc còn đang cháy dở xuống đất rồi phủ bùn lên, gằn giọng: “Hai người mới đến rất kỳ quặc. Thuyền A Duyệt lại bị cảnh sát đánh úp. Chắc chắn là cảnh sát rồi. Ngày mai báo cáo với lão đại, giết họ.”