Quyển 2 - Chương 11: Bút Bạch Trạch

1


Gã chủ tiệm cúi đầu lặng lẽ nhìn cuộn giấy cói màu nâu nhạt đang được mở trên mặt quầy, dường như còn ngửi được cả mùi mốc mốc của cuộn giấy cói lâu năm. Với một người thường xuyên chơi với cổ vật như gã, mùi ẩm mốc đó thật quá đỗi bình thường, nhưng lần này thứ mùi phảng phất lại khiến gã có cảm giác nghẹt thở khó tả.


Từ Ai Cập trở về đã được hai tháng, gần như ngày nào gã cũng ngồi ngây ra như thế. Sách Vong Linh, thứ thần khí trong truyền thuyết có thể gọi dậy những vong linh viễn cổ, giờ đây đang ở trước mặt gã, quẻ bói gã tính được trước lúc đi Ai Cập lại hiện về trong trí não.


"Tức lộc tỉ Ngu, duy nhập ư lâm trung. Quân tử cơ, bất như xả, vãng sắc".
Ai là hươu? Ai là quân tử? Ai phải... từ bỏ ai...


"Này, chủ tiệm, cứ thế này mãi không được đâu!". Cây quyền trượng vàng đặt cạnh sách Vong Linh khẽ động đậy. Cùng với tiếng nói đùa cợt là một làn khói trắng bay lên, dần dần hóa thành hình người, chính là vị Pharaoh trẻ tuổi, Ramesses Đệ Nhị.


Dù Pharaoh tự nhận là linh lực mạnh mẽ, không dễ tiêu biến, nhưng trước khi rời Ai Cập, gã chủ tiệm vẫn đột nhập vào đền thờ Abu Shimbel, lấy trộm cây quyền trượng vàng để làm chỗ nương thân cho Pharaoh hàng ngày. Thực tế đã chứng minh rằng hành động đó của gã là đúng đắn, hai tháng trước, Pharaoh không xuất hiện thêm lần nào, chắc hẳn là vì linh lực đã tiêu hao quá mức.


available on google playdownload on app store


Gã chủ tiệm đặt chén trà đã nguội ngắt trên tay xuống, đặt lại ấm nước lên chiếc lò gốm đỏ be bé để đun nóng, không thèm để ý tới vị Pharaoh. Pharaoh cũng không bận tâm, ông ta ngủ rất lâu, mỗi lần tỉnh dậy đều thấy gã chủ tiệm ngây người ra trước cuốn sách Vong Linh, tất nhiên là đoán được trong lòng gã đang nghĩ gì.


Kẻ có hứng thú với cuốn sách có thể gọi hồn, thì chắc là có việc gì cần nhờ. Hơn nữa một kẻ sống cô độc hơn hai ngàn năm, ắt hẳn là phải có gì lưu luyến.


Trong một khoảnh khắc, Pharaoh có chút đố kỵ, trong số những kẻ sùng kính ông ta, chưa từng có ai đi theo ông ta một cách cung kính tới hơn ngàn năm cả. Ông ta nhìn một lượt đồ đạc trong Á Xá, những thứ mà đối với ông ta là rất xa lạ và cổ quái, rồi tỏ vẻ thản nhiên hỏi: "Nói đi, ngươi muốn triệu hồi ai?".


Tay cầm hộp trà gốm của gã chủ tiệm khẽ run, một chút trà Thiết Quan Âm rớt ra mặt quầy khi gã đổ trà vào chiếc ấm tử sa, gã sững người đôi chút, rồi dọn hết trà rơi, không hề trả lời câu hỏi của Pharaoh.


Bị làm ngơ một lần nữa, Pharaoh hơi chau mày, bay tới bên cạnh gã chủ tiệm ngó nghiêng, để xác nhận đúng là gã chủ tiệm có đeo tai nghe nạm vàng có thể phiên dịch, nghe hiểu ông ta nói gì. "Thực ra muốn triệu hồi vong linh xa xưa không phải chuyện dễ dàng đâu! Ngoài thứ thần khí lúc sống người đó yêu quý nhất, còn cần một cơ thể thích hợp với vong linh, quan trọng nhất vẫn còn một điểm nữa..."


Pharaoh cố ý kéo dài giọng, rồi yên lặng chờ ấm nước trên lò gốm sôi.


"Được rồi, điều quan trọng nhất, thực ra là trên sách Vong Linh đã có dấu ấn ký của cây quyền trượng của trẫm, chỉ có thể triệu hồi linh hồn của trẫm, trừ phi ngươi sửa được ấn ký trên cuốn giấy cói này, nếu không thì sách Vong Linh cũng chỉ là tờ giấy lộn". Pharaoh thở dài, cuối cùng vẫn không nhịn nổi, nói hết bí mật ra cho gã. Ông ta biết, cho người ta một hy vọng viển vông mới là tàn nhẫn nhất.


Một sự im lặng đến nghẹt thở. Một lúc sau, ấm nước phát ra tiếng lục bục, bọt nước sôi tranh nhau vỡ bung ra trên miệng vòi.
Gã chủ tiệm vẫn bình tĩnh nhấc ấm pha trà, bình thản đậy nắp ấm trà, rồi ngửi hương trà lan tỏa một cách hoàn toàn thoải mái.


Vong hồn của Pharaoh lúc mờ lúc tỏ trong làn hơi nước trắng, cuối cùng ông ta nghe được một tiếng thở dài, và một lời cảm ơn như trút được gánh nặng.


"Hả? Ngươi đang nghe đấy à?". Bởi vì ban nãy toàn tự nói một mình, nên Pharaoh bất mãn bĩu môi, nhưng rồi ông ta lại tò mò hỏi: "Có điều nếu có cơ hội thì sao? Nếu như mọi điều kiện đã đầy đủ, thì ngươi sẽ lựa chọn thế nào?"


Gã chủ tiệm khẽ nhấp ngụm trà, thưởng thức hương trà thơm đậm đà trong miệng, trả lời bình thản: "Thế giới này rất công bằng, muốn có được thứ gì, thì phải đem một thứ ngang giá ra đổi...". Gã ngừng lại một chút, hình như đang lựa chọn khó khăn, lại dường như đang kiên định niềm tin của mình: "Nếu cái giá đó mà ta trả nổi, thì ta sẽ suy nghĩ. Nếu ta không trả nổi, thì ta sẽ bỏ..."


Pharaoh sờ cằm, bắt đầu nghĩ ngợi.
Cả người và hồn ma đều không nhìn thấy sự bất thường của chiếc mặt nạ quỷ vàng treo trên tường phía đối diện với ánh sáng bập bùng của đèn cung Trường Tín, đằng sau hốc mắt tối đen sâu hoắm, thoáng qua một tia sáng...


Trong hầm mộ tối tăm trống rỗng, chỉ có một chiếc quách đã mở nắp đặt chính giữa hầm mộ, và một ngọn đèn dầu cháy leo lét ở góc phía Đông Bắc, tỏa ánh sáng yếu ớt. Con chim đỏ đậu ở cạnh chiếc quách, nhắm mắt lim dim ngủ, cho tới khi một cánh tay trắng thon thon trong quách thò ra, một gã đàn ông đeo mặt nạ quỷ vàng bám tay vào thành quan tài ngồi dậy.


Gã đàn ông có một bộ tóc dài trắng bạc, hắn bỏ chiếc mặt nạ quỷ vàng trên mặt xuống, lộ ra gương mặt tuấn tú vô song. Chỉ có điều sắc mặt tái nhợt, nhìn như có vẻ đã lâu lắm không ra ngoài nắng. Hắn chầm chậm mở đôi mắt, lộ ra đôi con ngươi đỏ ma quái, khí chất con người hắn đột nhiên thay đổi, đôi môi nhợt nhạt nở một nụ cười bí hiểm.


Áo Xích Long và mặt nạ quỷ vàng là đồ tùy táng thành đôi, áo Xích Long có hai chiếc, và mặt nạ quỷ vàng cũng có hai chiếc. Điều này chỉ có các đời tộc trưởng của họ Doanh mới biết, đến cả Phù Tô hoàng huynh hắn cũng không biết chiếc mặt nạ quỷ vàng còn có tác dụng nghe lén nhìn trộm. Cũng chỉ khi lên ngôi làm vua, có quyền lực để mở kho báu tích lũy mấy trăm năm của nhà họ Doanh, Hồ Hợi mới biết điều đó.


"Thần khí mà khi sinh thời yêu quý nhất? Chắc là miếng ngọc thô mà hoàng huynh lúc sinh thời luôn đem bên mình, cũng chính là chiếc khóa Trường Mệnh trong tay ta, không rõ bị vỡ đôi rồi còn dùng được hay không? Còn thân xác thích hợp thì..." Hồ Hợi cầm chiếc mặt nạ vàng trong tay, lẩm bẩm một mình.


Tay bác sĩ bên cạnh người đó, hắn đã dùng chén Cửu Long để thử, không hiểu vì nguyên nhân gì mà không có phản ứng. Còn tên Lục Tử Cương... Lần trước khi ở sơn trang Cờ Lục Bác, hắn lại nói ra một câu gần giống hệt câu hoàng huynh hồi xưa vẫn nói, chẳng lẽ đó chỉ là trùng hợp? Người kia dù quen biết Lục Tử Cương, nhưng không thân thiết gì lắm. Hay là gã đó đang che mắt ta...


Con chim đỏ đã tỉnh dậy sau cơn mơ màng, vừa mở mắt ra đã thấy chủ nhân tỉnh dậy, nó vui sướng kêu lích chích mấy tiếng, vỗ cánh bay đậu lên vai Hồ Hợi. Hồ Hợi vuốt lên bộ lông vũ của con chim đỏ, thấp giọng nói: "Minh Hồng, ngươi nói xem, tên Lục Tử Cương đó có phải hoàng huynh chuyển thế không?".


Con chim đỏ được chuốt lông rất thoải mái, nó lim dim mắt kêu lên mấy tiếng lích chích vô nghĩa. Hồ Hợi cũng không hy vọng con vật này cho hắn câu trả lời, hắn gãi gãi lên đầu con chim đỏ, khẽ cười: "Cây bút có thể sửa chữa mọi thứ... Ta có một cây ở đây. Đi lấy cây bút đó lại đây".


Con chim lại rít lên một tiếng rồi bay đi, tiếng vỗ cánh nhỏ dần trong hầm mộ tối đen, rồi lát sau lại vang lên, khi bay vào trong hầm mộ, gió từ cánh cửa khiến cho lửa đèn dầu hơi rung rinh, suýt thì tắt.
Hồ Hợi lấy cây bút từ mỏ con chim, nhếch mép cười rộng hơn, cuối cùng là cười hẳn nhưng không ra tiếng.


"Thế giới này rất công bằng, muốn có thứ gì, thì phải đem một thứ ngang giá ra đánh đổi, phải không?".
"Vậy thì, ta sẽ đem tất cả ra để đánh đổi...".
"Hoàng huynh... đợi đệ...".
2


Lục Tử Cương đeo găng tay, lôi chiếc hộp gỗ long não dài ra khỏi hòm vô trùng, rồi rất nhẹ tay lấy cuộn trục bên trong hộp, cẩn thận trải bức tranh ra.


Đây là bức "Tiền Đường cảnh vật đồ" do Đường Bá Hổ thời Minh vẽ, vải lụa, bởi vì lưu truyền qua mấy trăm năm, lại không được giữ gìn cẩn thận, nên rất nhiều chỗ hư hại, màu vẽ và ấn chương đều đã hơi bạc màu. Dù đã được vài chuyên gia phục chế, nhưng vẫn thủng lỗ chỗ.


Lục Tử Cương ngắm nghía một lát, tiếc nuối lắc đầu. Đa số tranh của Đường Dần đều được lưu giữ ở bảo tàng Thượng Hải, bảo tàng Cố Cung và bảo tàng Đài Bắc, những cuộn tranh trưng bày ở mấy bảo tàng đó, phần lớn là đồ sưu tầm ở Cố Cung đời Thanh, được bảo vệ cẩn thận, một số cuộn còn có ấn giám thưởng của Khang Hy, Càn Long, khiến cuộn tranh tăng thêm nhiều giá trị. Lần này là kế hoạch của bảo tàng quốc gia, giám đốc phòng thư họa huy động mọi quan hệ mới kiếm được một lô tranh từ bảo tàng Cố Cung về, nhưng nhìn là biết, họ nhận được toàn loại phế phẩm, không thể đem ra trưng bày được. Với tình hình này, nếu đem ra treo ở phòng trưng bày, thì e là tiếp xúc với không khí trên một tháng sẽ còn bạc màu hơn nữa.


Chẳng lẽ hết cách rồi? Lục Tử Cương nhăn mày, những bức tranh chữ như thế này còn rất nhiều, hoặc có thể nói rằng, mỗi bảo tàng đều có một lượng lớn tranh chữ không thể phục chế. Khác với những loại đồ cổ khó tổn hại như đồ đồng, đồ ngọc hay đồ vàng bạc, tranh chữ còn mong manh hơn cả đồ gốm, có khi lúc lấy ra chỉ cần hơi mạnh tay thôi là đi tong luôn, coi như biến mất vĩnh viễn khỏi thế giới này.


Có khi gã chủ tiệm Á Xá có cách gì đó tránh được cho những chuyện đáng tiếc xảy ra chăng? Trong đầu Lục Tử Cương bỗng nhiên nảy ra ý nghĩ đó, rồi lập tức cười đau khổ, lắc đầu phủ nhận. Anh tin rằng gã chủ tiệm chắc chắn có cách thức đặc biệt nào đó, nhưng không thể áp dụng trên mọi cổ vật được. Cũng như thần linh không thể cứu vớt hết mọi chúng sinh vậy.


Sau khi bình tâm lại, Lục Tử Cương mượn cơ hội này để nhìn lại bức "Tiền Đường cảnh vật đồ" thêm lần nữa. "Tiền Đường cảnh vật đồ" vẽ đường mòn trên núi Tung Sơn, có ngựa rong ruổi, có du nhân ngồi một mình trên gác cỏ, trên sông thuyền cá quăng chài, bên trên có bài thơ thất tuyệt và lạc khoản của Đường Dần. Đường Dần tự xưng là "Giang Nam đệ nhất tài tử", cũng chính là Đường Bá Hổ nổi danh sau này, giỏi vẽ nhân vật, sơn thủy, hoa điểu, thành một phong cách riêng. Trong bức "Tiền Đường cảnh vật đồ" này, núi đá cây cối học theo Lý Đường thời Nam Tống, bút pháp vuông vức chắc khỏe, hình thái nhân vật tự nhiên, phong cách tinh tế, chắc là tác phẩm thời kỳ đầu, khi Đường Dần - Đường Bá Hổ còn chưa hoàn toàn thành thục.


Lục Tử Cương thưởng thức một lát, tuy rất lưu luyến, nhưng cũng biết rằng cho dù anh có nhìn nữa, cũng chẳng thể phục chế lại những chỗ bạc màu hay tổn hại của bức tranh được. Vừa khi định cuốn tranh lại, anh liền phát hiện ra có gì đó không phải, vốn là chỉ có mình anh trong phòng thí nghiệm, không biết từ lúc nào lại có thêm người nữa. Người này mặc áo trắng, thoạt nhìn cứ nghĩ là áo blouse mà mọi người đều mặc trong phòng thí nghiệm, nhưng trên chiếc áo gió trắng lại có thêm mũ, nhìn lại thì nhận ra là nó khác hẳn.


"Anh... vào đây bằng cách nào?". Lục Tử Cương nắm chặt tay lại, rồi lập tức lại thả lỏng. Đứng trước gã tóc trắng mắt đỏ kia, anh không biết phải làm gì. Anh không quên nổi những gì xảy ra trong đêm chơi cờ Lục Bác, dù chỉ là một cơn ác mộng, nhưng cũng suýt thì ác mộng thành hiện thực. "Khắp nơi ở đây đều có camera..." Lục Tử Cương lập tức dừng lời, những lời này nói ra bây giờ là vô nghĩa, phòng thí nghiệm phải quét vân tay để vào, thế mà còn không ngăn được người này, thì chắc camera cũng chỉ là thứ đồ chơi.


Hồ Hợi coi như không thấy ý đồ chống đối của Lục Tử 1 Cương, hai tay khoanh trước ngực, nhíu mày hỏi: "Ban nãy ngươi nhìn bức tranh này lâu vậy, là muốn khôi phục nó phải không?"


Lục Tử Cương không thấy có gì phải giấu giếm, thẳng thắn gật đầu nói: "Đúng vậy, tiếc là bức tranh này bị hư hại quá nặng, cho dù bồi biểu lại, lên màu lại, cũng không thể sửa được".
Hồ Hợi khẽ nhếch mép cười một tiếng rồi nói: "Nếu như ta nói rằng ta có cách để phục hồi bức tranh thì sao?".


Lục Tử Cương nhíu mày thận trọng: "Anh muốn gì?".


Đôi mắt đỏ rực nằm dưới hàng lông mi trắng bạc của Hồ Hợi có chút quái dị, bất ngờ hắn cười và nói: "Muốn có được cái gì, thì phải đem thứ ngang giá ra đổi hả? Xem ra ai cũng biết quy luật đổi ngang giá, thôi được, thực ra ta muốn đòi lại nửa tấm Vô Tự Bi".


Lục Tử Cương ngạc nhiên, nhớ lại lúc ở chợ trời Tây An, người bán tấm Vô Tự Bi cho anh là một người mặc áo gió trắng có mũ: "Nửa tấm Vô Tự Bi đó là anh bán cho tôi sao?".


Hồ Hợi nhún vai: "Đòi lại đồ cổ đã bán, ta cũng biết là trái quy củ, nhưng ta cũng vừa mới biết là Vô Tự Bi không thể ghép lại được, ban đầu ta cứ nghĩ ngươi có thể ghép được Vô Tự Bi kia!". Hắn nói nửa giả nửa thật, thực ra thì toàn là giả, hắn chỉ cần có một cái cớ để đưa Lục Tử Cương tới Á Xá mà thôi.


Lục Tử Cương thấy Hồ Hợi không chịu nói nhiều, trong lòng anh biết là có gì đó không ổn. Anh nhớ hồi đó khi ghép hai nửa Vô Tự Bi lại làm một, linh hồn liền xuyên không về thời Thịnh Đường, nhập vào vài người mà Võ Tắc Thiên tự tay giết ch.ết.


Ban đầu mới chỉ có thể nhìn không thể nói, nhưng khi nhập vào người cuối cùng là Tiết Hoài Nghĩa, thì còn có thể nói chuyện với Võ Tắc Thiên cách anh hơn ngàn năm. Lỡ mà còn tiếp tục xảy ra gì nữa...


Nghĩ đến đây, Lục Tử Cương không ngồi yên được nữa, cho dù anh đã dùng nửa tấm Vô Tự Bi để đổi lấy thanh Ngô đao mà anh rất thích, nhưng cũng không thể gây thêm rắc rối cho gã chủ tiệm Á Xá. Anh định thần lại, muốn lợi dụng cơ hội này xem thử xem vị Hồ thiếu gia kia sửa chữa bức tranh "Tiền Đường cảnh vật đồ" đã rách nát thế nào rồi tính.


Hồ Hợi cười mỉm, lấy trong người ra một cây bút trắng. Quản bút không rõ làm bằng chất liệu gì, giống như ngà voi, nhưng màu sắc thì không giống lắm, trắng hơn ngà voi, mịn hơn ngà voi, sáng bóng, trên quản bút không khắc gì, rất đơn giản, lông ngòi bút cũng màu trắng, nhìn thoáng thì tưởng là một cây bút mới, nhưng Lục Tử Cương cảm thấy niên đại của cây bút này e rằng là rất xa.


"Cây bút này được làm từ xương bàn tay của thần thú Bạch Trạch, ngòi bút được làm từ lông đuôi của Bạch Trạch". Hồ Hợi tiến tới, giải đáp tận tình cho Lục Tử Cương.


"Bạch Trạch?". Lục Tử Cương không biết nói gì, anh nghĩ Hồ Hợi đang đùa mình. Tất nhiên là anh biết Bạch Trạch, đó là thần thú trên núi Côn Lôn trong truyền thuyết, toàn thân trắng toát, nói được tiếng người, thông hiểu vạn vật, rất hiếm gặp. Có truyền thuyết nói Hoàng Đế khi tuần du phía Đông, từng vô tình gặp Bạch Trạch bên bờ Đông Hải, Bạch Trạch học rộng hiểu nhiều, từng nhận lời Hoàng Đế vẽ "Quỷ thần đồ giám", trong đó vẽ một vạn một ngàn năm trăm hai mươi giống quỷ thần. Nghe nói toàn thân Bạch Trạch đều là của báu, có tác dụng cải tử hoàn sinh. Dù gì cũng là thần thú trong truyền thuyết thượng cổ, cũng khá là "oách". Nhưng "oách" mấy thì cũng là truyền thuyết!


Hồ Hợi nhìn cây bút trắng phau trên tay, vẻ mặt không có chút thay đổi cảm xúc, dải lông mi màu trắng hấp háy mấy cái, hắn nói bình thản: "Chính bởi vì Bạch Trạch toàn thân đều là báu vật, nên mới nhanh chóng biến mất khỏi thế gian, chỉ để lại truyền thuyết. Nghe nói nó trên thông thiên văn dưới tường địa lý, thông hiểu quá khứ tương lai, vì sao lại không tính ra nổi kết cục bi thảm của chính mình nhỉ?".


Lục Tử Cương cảm thấy sự cô độc ẩn trong lời nói của hắn, bất giác thở dài nói: "Có lẽ nó đã biết từ trước rồi...".


Hồ Hợi liếc đôi mắt đỏ quạch về phía Lục Tử Cương, không tiếp tục chủ đề đó nữa: "Chiếc bút này được làm từ xương bàn tay và lông của thần thú Bạch Trạch, có năng lực sửa chữa hoặc phục hồi mọi loại tranh chữ".
"Hả?". Lục Tử Cương nghi ngờ, không dám tin vào tai mình.


Hồ Hợi khẽ mỉm cười, nói với giọng đầy kỷ niệm: "Năm xưa Triệu Cao sửa di chiếu của phụ hoàng ta, chính là dùng cây bút này, nếu không những văn quan võ tướng trong triều của người năm xưa đều mù cả hay sao?". Hắn dứt lời, như nhớ ra chuyện gì đó xa xôi lắm, một chút bóng tối lướt qua ánh mắt, rồi trở lại bình thường.


Lục Tử Cương hơi bất ngờ, rồi lại nghĩ bụng, chắc tay Hồ thiếu gia này chơi cosplay hơi nhiều, tự xưng là Hồ Hợi đã quá lắm rồi, lại còn lôi cả Triệu Cao với Tần Thủy Hoàng ra nữa sao? Nhưng dù anh rủa thầm trong bụng, cũng đủ thông minh để không nói ra đằng mồm, coi như nghe chuyện cười vậy.


Hồ Hợi không nói nữa, hắn ra hiệu cho Lục Tử Cương nhường vị trí, rồi lấy chai nước khoáng còn chưa mở nắp trên bàn, rót vào cốc thủy tinh, lấy bút Bạch Trạch chấm một ít, không kịp đợi Lục Tử Cương kịp phản ứng, hắn đã quệt lên cuốn tranh.


Lục Tử Cương kêu "á" lên một tiếng kinh sợ, anh không ngờ Hồ Hợi lại nhanh như thế, trong khoảnh khắc chiếc bút Bạch Trạch hạ xuống, Lục Tử Cương như muốn vỡ tim. Tranh của Đường Dần dù là phế phẩm thì cũng có cái giá trên trời mà! Đem ra ngoài bán đấu giá, chắc chắn là tiền lên đến tám con số! Khốn kiếp, sao hắn có thể bình thản quệt lên tranh! Anh sắp không bình tĩnh nổi nữa!


Lục Tử Cương từ trước đến giờ không biết là mình có thể gào thét trong bụng giỏi đến thế, nhưng khi anh định thần lại, định bất chấp tất cả mà đẩy tay Hồ thiếu gia lỗ mãng kia ra, ánh mắt vừa lướt qua bức tranh trên mặt bàn bỗng dừng khựng lại như bị ai điểm huyệt.


Anh đang nhìn thấy bức tranh rách nát như được cải tử hoàn sinh, từng sợi lông bờm ngựa trong tranh đều rõ nét, sống động như thật, cây cối bên sông Tiền Đường lại sum suê xanh tốt như mùa xuân về, bài thơ thất tuyệt cũng đã đủ chữ trở lại, dấu ấn triện mờ mờ lại hiện rõ lên, kỳ diệu hơn nữa là, tấm vải lụa đã ố vàng lại trở lại màu vàng nhạt như mới.


Lục Tử Cương trố mắt nhìn, không thể tin nổi.


Hồ Hợi bên cạnh anh đang cúi đầu tỉ mỉ đưa bút, gương mặt nhìn nghiêng đẹp ma mị như tranh vẽ, hạ bút tự tin phóng khoáng, từng động tác đưa tay đều đầy sự quý phái cổ điển, anh thấy thấp thoáng như một vị quý công tử áo mũ xênh xang đang vung bút vẽ tranh trong đình đài lầu các.


Lục Tử Cương cố chớp mắt mấy cái, khi mở mắt trở lại, anh thấy mình vẫn đang ở trong phòng thí nghiệm quen thuộc, nhưng đặt trước mặt anh bây giờ, đúng là bức "Tiền Đường cảnh vật đồ" mới toanh.


Đúng là mới toanh, giống hệt như tranh mới được vẽ, thậm chí mực còn chưa ráo hẳn. Chỉ mới trong chớp mắt mà thôi, anh còn đang nghi ngờ có phải Hồ Hợi dùng thủ thuật gì tráo đổi bức tranh cổ rồi không...


Luc Tử Cương như phát điên, "phục chế" là như thế này sao? Thế này thì thực ra chẳng khác nào là hủy luôn bức tranh!


Hô Hợi nhìn vẻ mặt nhăn nhó của Lục Tử Cương, hắn cười thích thú: "Không sao, ban nãy ta chỉ dùng nước khoáng, đợi khô rồi là nó trở lại như cũ. Đây chỉ là cho ngươi xem thử hiệu quả thế nào mà thôi, muốn khôi phục trở lại đúng niên đại ngươi muốn cũng được, có điều yêu cầu về mực là rất cao, tốt nhất là mực Đình Khuê, có điều mực Đình Khuê còn lưu truyền lại rất ít, mực Huy Châu sau này cũng tạm chấp nhận được, chúng ta có thể đợi sau khi lấy lại nửa tấm Vô Tự Bi rồi nghiên cứu tiếp".


Lục Tử Cương vịn vào bàn, cảm thấy sức lực toàn thân như bị rút hết.
Không thể đùa kiểu đó được! Đồ khốn!
4


Vì hôm sau là cuối tuần, Lục Tử Cương đợi sau khi chắc chắn "Tiền Đường cảnh vật đồ" đã trở lại như cũ, cẩn thận đặt bức tranh vào trong hộp vô trùng, định về nhà lấy hành lý, rồi cùng Hồ Hợi đi ra sân bay.
Nhưng Hồ Hợi lắc ngón tay nói: "Không phải phiền phức vậy đâu".


"Hả? Không đi máy bay? Đi tàu hỏa à?". Lục Tử Cương rất bất ngờ, cho dù có tàu cao tốc, thì từ Bắc Kinh đến Hàng Châu cũng phải hơn sáu tiếng. Bây giờ đã hơn năm giờ chiều, hình như cũng không còn chuyến tàu cao tốc nào nữa.
"Ngươi có say xe không?". Hồ Hợi thủng thẳng hỏi.


"Không say..." Lục Tử Cương nghĩ bụng, chẳng lẽ vị Hồ thiếu gia đây định lái xe đi? Ý nghĩ đó còn chưa kịp hiện lên đầy đủ trong đầu, thì đã thấy Hồ Hợi lôi trong túi ra một chiếc khăn vải màu vàng, đưa một đầu khăn ra hiệu cho anh cầm lấy. Lục Tử Cương không hiểu gì, vẫn làm theo, nhưng khi tay vừa chạm tới chiếc khăn, bỗng thấy trời đất quay cuồng. Chỉ khoảng một hai giây sau, khi anh tính lại, mở mắt ra, thì đã thấy mình và Hồ Hợi không còn ở trong phòng thí nghiệm nữa, mà đứng ở một con ngõ nhỏ tối tăm, kiến trúc xung quanh đúng là phong cách Giang Nam, thậm chí còn có thể nghe thấy phía không xa có người đang mặc cả bằng giọng Chiết Giang đặc sệt.


Lục Tử Cương há mồm, nhưng không nói được câu gì. Bởi vì anh cảm thấy quá sức hoang đường, đoán cũng không thể đoán ra nổi - điều này hoàn toàn bất hợp lý.


"Chúng ta tới rồi". Hồ Hợi tuyên bố thản nhiên, xóa bỏ mọi sự suy đoán của Lục Tử Cương. Hắn biết lát nữa chắc chắn Lục Tử Cương sẽ hỏi, nên vừa thu lại chiếc khăn vàng, vừa giải thích luôn: "Đây là chiếc khăn vàng của Trương Giác, thủ lĩnh quân Khăn Vàng, kẻ sáng lập "đạo Thái Bình" như hắn quả thật cũng có chút pháp lực". Hồ Hợi ngừng lại đôi chút, nhận thấy Lục Tử Cương lại há hốc mồm, hắn cảm thấy không được hài lòng lắm. Hắn cho rằng mình giải thích rất rõ ràng rồi, dù chỉ có một câu nói.


(Trương Giác, thủ lĩnh quân Khăn Vàng thời Tam Quốc, sùng bái Hoàng Đế và Lão Tử, sáng lập ra "đạo Thái Bình", là giáo phái kêu gọi xây dựng xã hội thái bình như thời Hoàng Đế, để dễ bề lôi kéo nông dân khởi nghĩa)


"Còn có vấn đề gì nữa không?". Hồ Hợi nheo đôi mắt đỏ lại, nhìn Lục Tử Cương với vẻ nguy hiểm.
"Tôi nhớ ra là lúc về mình chưa quẹt thẻ xác nhận..."
Hồ thiếu gia lập tức quay người đi.


"Ờ... thực ra thì sau khi lấy lại được nửa tấm Vô Tự Bi, anh có thể suy nghĩ chuyện đưa tôi về, như vậy cũng tiết kiệm được chút lộ phí..." Lục Tử Cương biết điều, vội bám theo. Là dân Bắc tiến với đồng lương còm cõi như anh thì tiết kiệm đến đâu hay đến đấy!


(Dịch từ hai chữ "Bắc phiêu" - chỉ những người ở tỉnh ngoài chạy lên Bắc Kinh làm việc)
Hai người đi ra khỏi con ngõ nhỏ, Lục Tử Cương liền nhìn thấy tiệm Á Xá bên kia đường, vẫn như lần trước anh tới, vẫn là tấm biển viết chữ tiểu triện và cánh cửa khắc hoa cổ kính.


Hồ Hợi rảo bước tiến tới, dùng một tay đẩy cánh cửa khắc hoa, Lục Tử Cương ngỡ rằng cứ đẩy là ra, nhưng hóa ra cánh cửa không hề nhúc nhích.


Lục Tử Cương khẽ kêu lên một tiếng rồi nói: "Hay là đóng cửa rồi? Không giống như đã đóng cửa mà". Cửa tiệm đóng cửa, chẳng phải là đều khóa hoặc cài then lại sao? Lục Tử Cương gõ cửa, không thấy trả lời, liền chạy ra cửa sổ phía bên cạnh ngó vào trong. Anh nhớ rõ cửa sổ này là cửa kính trong suốt, nhưng giờ lại mờ mờ, có lẽ vì mùa đông trời lạnh, nên sương mờ bám vào, chỉ nhìn thấy vòng sáng mờ mờ của cây đèn cung Trường Tín cháy lập lòe. Anh không cam tâm, cố ngó vào khe cửa của cánh cửa khắc hoa, thì nhận ra rằng cánh cửa đóng rất khít, không nhìn thấy gì.


Hồ Hợi không cảm thấy có gì bất ngờ, hắn còn mỉm cười.


Không có ai, rất hợp ý hắn. Cánh cửa khắc hoa của gã chủ tiệm rất cổ quái, hắn biết điều đó, chắc là một cánh cửa nội môn được lấy ra từ trong địa cung Tần lăng, chỉ có chủ nhân mới vào được, người ngoài nếu không được chủ nhân cho phép thì không thể đẩy cửa vào. Còn trong địa cung, tất nhiên là chủ nhân đã qua đời, vì thế nên sau khi người thợ cuối cùng đóng cửa, không ai có thể vào địa cung được nữa. Năm đó hắn lệnh cho người đem gã này vào tùy táng, không ngờ gã đã ăn thử thuốc trường sinh, không ch.ết, mà còn chui từ trong lăng mộ ra, coi như cơ chế cấm cửa của cánh cửa này đã bị phá. Bây giờ thì còn được bê về làm cửa tiệm, chỉ cần gã này không ở đây thì không ai có thể tùy ý vào Á Xá, đúng là còn tốt hơn bất cứ loại cửa chống trộm nào.


Nhưng, hắn đã có cách.


Trên mặt đất vẫn còn một vũng nước nhỏ đêm qua trời mưa để lại, Hồ Hợi lấy cây bút Bạch Trạch ra, cúi người chấm một ít nước mưa, vẽ hình một cánh cửa lên cánh cửa khắc hoa, rồi khẽ đẩy cửa ra dưới sự ngạc nhiên tột độ của Lục Tử Cương, "cánh cửa" kêu "két" một tiếng, mở ra.


Hồ Hợi ung dung bước vào, quay đầu nhìn Lục Tử Cương còn đứng ngây người như phỗng bên ngoài, cau mày nói: "Sao chưa vào đi? Một lát nữa là hết hiệu nghiệm đấy".


Lục Tử Cương biết Hồ Hợi làm vậy là rất có vấn đề, rõ ràng gã chủ tiệm đi vắng vẫn cố tình vào, chắc hẳn có mưu đồ gì đó, tuyệt nhiên không thể chỉ vì nửa tấm Vô Tự Bi được. Nhưng lúc này anh không thể để Hồ Hợi vào đó một mình, biết đâu anh đi theo lại ngăn được hắn? Lục Tử Cương lấm lét ngó quanh xem có ai chú ý tới họ không, rồi nhanh chóng đi vào. Sau khi đi vào trong rồi anh mới kịp nhận ra, cây bút Bạch Trạch trong tay Hồ Hợi quả là lợi hại, còn có chức năng như bút thần của Mã Lương nữa! Liệu dùng cây bút này vẽ một khẩu súng, thì có thể làm súng thật được không? Đến lúc đó hắn uy hϊế͙p͙ anh làm tòng phạm, thì anh có làm theo không? Hay là phải làm theo? Hay là cứ làm theo?


(Truyền thuyết Trung Quốc, Mã Lương có cây bút thần, vẽ cái gì thì sẽ hiện ra đúng thứ đó)


Lục Tử Cương đắn đo, cánh cửa khắc hoa phía sau anh đã phục hồi nguyên trạng ngay khi đóng lại, bởi vết bút đã khô. Lục Tử Cương lúc này cũng đã nhìn rõ đồ đạc trong Á Xá, không khác lắm với lần trước anh tới, nhưng có thêm vài món đồ cổ. Trên tường treo chiếc mặt nạ vàng ma quỷ đáng sợ, trên Bách Bảo Các có thêm chiếc chén Cửu Long làm bằng ngọc lóng lánh, trên mặt quầy còn có thêm một cuộn sách giấy đã rách nát và một cây quyền trượng vàng rất tinh xảo. Nhìn phong cách thì phải là đồ cổ Ai Cập, cuộn giấy rách đằng kia chắc hẳn là sách Vong Linh làm bằng giấy cói của Ai Cập cổ.


Lạ nhỉ, gã chủ tiệm sưu tầm đồ cổ nước ngoài từ bao giờ vậy?


Lục Tử Cương đang còn nghi ngờ, thì đã thấy Hồ Hợi như vô tình đánh mắt nhìn qua phía bức tượng binh mã vẽ màu đứng ngoài cửa, có vẻ như muốn né tránh, nhưng sau khi nhận thấy bức tượng không có gì khác thường, liền đi tới quầy cầm lấy sách Vong Linh và cây quyền trượng vàng, rồi quay người đi vào phòng trong. Lục Tử Cương biết sự việc đang diễn biến theo chiều hướng khó lường, trong lòng anh dấy lên chút nghi hoặc, đáng lý ra nếu Hồ Hợi định làm gì thì mình hắn là đủ, vì sao lại phải tìm đủ cách để lôi anh đi theo?


Nhưng sự việc đã đến nước này, dù cách nào thì anh cũng chẳng thể rút lui được nữa, đành phải liều mà đi vào theo Hồ Hợi. Sau khi anh vòng qua tấm bình phong bằng ngọc, bỗng nghe thấy một tiếng chim hót cao vút, một chú chim nhỏ màu xanh bay ra từ hành lang, kéo theo chiếc đuôi dài thượt, bay thẳng về phía Hồ Hợi.


Lục Tử Cương giật mình, còn Hồ Hợi đứng phía trước thì không hề động đậy, khi chiếc mỏ nhọn của con chim xanh sắp sửa mổ thẳng vào mắt hắn, thì trước mặt Hồ Hợi bốc lên một khối cầu lửa sáng rực, buộc con chim phải đập cánh dừng lại giữa không trung, rồi lùi lại chút ít. Dù động tác của nó đã rất nhanh, nhưng chiếc đuôi dài vẫn bị cầu lửa làm cháy xém chút ít. Tiếng kêu của con chim xanh gay gắt hẳn lên, xem ra nó đã phát cáu.


Còn khối cầu lửa thì thu lại, hóa thành một con chim nhỏ màu đỏ rực, kêu lên mấy tiếng thị uy, rồi lao vào chim xanh. Hai con chim xông vào giáp chiến, lông vũ xanh đỏ bay loạn, rồi chỉ nghe thấy một tiếng đập mạnh, hai con chim đã biến mất.


Lục Tử Cương nheo mắt, chẳng lẽ hai con chim đều ch.ết rồi? Nhưng dưới đất ngoài những chiếc lông vũ xanh đỏ ra, không hề có xác con nào cả! Tuy anh không hiểu lắm về vật nuôi, nhưng cũng biết hai con chim đó là những linh vật hiếm có, nếu ch.ết thì quả là đáng tiếc.


Hồ Hợi tiếp tục đi lên, hắn không quay đầu lại, nhưng dường như biết Lục Tử Cương đang nghĩ gì, nên bình thản nói: "Chúng cảm thấy chỗ này chật hẹp quá, nên đổi sang chỗ khác để chiến rồi".


Đổi chỗ khác? Chẳng lẽ hai con chim đó biết thuật di chuyển tức thời? Lục Tử Cương thấy hơi choáng váng. Nhưng ban nãy đã thấy cây bút thần Mã Lương rồi, anh cảm thấy cũng dễ chấp nhận hơn nhiều. Đang lúc nhấc chân định bước tiếp, thì anh lại thấy bên cạnh Hồ Hợi hiện lên một mỹ nữ trong suốt, như đang ngăn hắn đi vào. Người con gái mặc đồ cổ trang quý phái, tay áo dài phất phơ, trên gương mặt trắng như ngọc là đôi mắt dài sâu thẳm. Nàng nhẹ như bồng bềnh giữa không trung, còn mái tóc dài thì giống như có sự sống, nổi bồng bềnh quanh quẩn bên nàng.


Lục Tử Cương dụi dụi mắt, trong Á Xá có cả nữ quỷ sao?


Nhưng khi anh nhìn kỹ lại, thì phát hiện thấy phía xung quanh "mỹ nữ cổ trang" là những làn khói nến, không xa phía sau nàng có một căn phòng nhỏ, nhìn qua khe cửa có thể thấy một cây nến thơm màu đỏ đang cháy, khói nến bay lên biến thành cô gái cổ trang tuyệt đẹp ấy.


Hồ Hợi không để ý tới mỹ nữ cổ trang, thấy nàng ta có bay loanh quanh cũng chẳng bận gì, có điều rất khó chịu, nên mở cửa bước vào trong căn phòng để cây nến, cây bút Bạch Trạch trong tay vẫn còn có chút nước mưa, hắn nhanh chóng vẽ một chiếc lồng thủy tinh, chụp lên trên cây nến thơm. Khói nến không bay ra ngoài được nữa, mỹ nữ cổ trang phía ngoài cũng mờ dần rồi biến mất trong không trung. Còn trong lồng thủy tinh thì xuất hiện một mỹ nữ cổ trang bé hơn một "size", đang dùng tay gõ vào lồng, gương mặt mỹ lệ đầy vẻ tức tối.


"Làm thế thì cây nến thơm này chẳng mấy chốc mà tắt mất chứ?". Lục Tử Cương thấy không nhẫn tâm, vì bị cách khỏi oxy, nên khi chiếc lồng kính hình thành, ngọn lửa của cây nến đã nhỏ đi nhiều, nhìn hơi đáng thương.


"Không phải lo, một lát nữa là chiếc lồng biến mất thôi". Hồ Hợi bình thản giải thích, loại nến Nhân Ngư đó cũng rất quen thuộc, trong địa cung Tần lăng có cả đống, trừ phi chính người thắp nến thổi tắt, bằng không nó sẽ không bao giờ tắt. Hắn lạnh lùng liếc xéo mỹ nữ cổ trang bị nhốt trong lồng kính, còn mỹ nữ thì vì cái lườm của hắn mà sực nhớ lại chuyện gì đó, sợ hãi thu mình lại, run rẩy trong một góc lồng kính.


Hồ Hợi không thèm nhìn thêm nữa, quay người đi ra. Lục Tử Cương thì sợ cây nến bị tắt, muốn đi tới bỏ chiếc lồng kính ra, nhưng khi anh vừa động vào, chiếc lồng kính đã biến mất. Còn cô mỹ nữ cổ trang, tuy đã thoát gông cùm nhưng không đuổi theo Hồ Hợi nữa, mà nhìn Lục Tử Cương với vẻ mặt sợ sệt đề phòng, chỉ sợ anh định làm gì mình.


Lục Tử Cương ngán ngẩm, biết là mình đã bị cô nàng quy vào loại người xấu, anh cũng không biết giải thích thế nào, vội vã bỏ lại một câu "xin lỗi", rồi đuổi theo Hồ Hợi. Nhưng khi anh đi ra ngoài thì thấy hành lang của Á Xá tối đen, không có chút ánh sáng nào, ban nãy cũng chỉ nhờ ánh nến mới thấy được cô mỹ nữ khói nến đó, bây giờ thì anh chỉ nghe được các loại âm thanh kỳ lạ, đành đi lên phía trước theo tiếng động. Phòng trong của Á Xá rất sâu, không rõ dọc đường đi Hồ Hợi đã giải quyết bao nhiêu đồ đạc và cạm bẫy kỳ quái, khi Lục Tử Cương nhìn thấy ánh sáng hắt ra từ cánh cửa phía cuối hành lang, anh mới rảo bước đi về phía cửa, tay vịn vào cửa do dự một lát, rồi mới cắn răng bước vào.


Khi anh nhìn thấy cảnh tượng trong phòng, thì sững người luôn. Căn phòng này không nhỏ hẹp như phòng để nến ban nãy, phòng rộng bằng một lớp học, hóa ra ánh sáng trong phòng là của mười mấy viên dạ minh châu lớn bằng quả bóng rổ, lần lượt được xếp ở tứ phía trên tường. Còn những viên ngói xanh dưới chân anh, cũng khác với loại gạch thông thường lát ngoài hành lang, có những hoa văn hoàn mỹ, ở giữa được nạm vàng và các loại đá quý, hoa lệ đến mức khiến anh sững sờ. Nhìn dọc theo hàng ngói xanh đến giữa căn phòng, thì nhìn thấy một tấm bình phong bằng vàng và một chiếc bàn sơn màu, hình điêu khắc và hình vẽ đều vô cùng tinh tế. Trên chiếc bàn sơn đặt một khối ngọc tỉ và một bộ mũ miện.


Lúc này Hồ Hợi đã đến trước chiếc bàn sơn, vén vạt áo trắng quỳ xuống, đặt cây quyền trượng vàng trên tay xuống, rồi trải cuốn sách Vong Linh ra.


Dưới ánh sáng của dạ minh châu, Lục Tử Cương nhìn thấy trên khối ngọc tỉ khắc năm con rồng, bị khuyết một góc, được trám vào bằng vàng. Khối ngọc tỉ đang được Hồ Hợi cầm lên, có thể thấp thoáng nhìn thấy phía dưới khắc tám chữ triện, hình như là "Thụ mệnh ư thiên, ký thọ vĩnh xương"? Hình dạng chữ khắc và phong cách điêu khắc này... Chẳng lẽ là ngọc Hòa thị trong truyền thuyết? Còn chiếc mũ miện kia, là mũ Thông Thiên, cao chín tấc, thẳng đứng, đỉnh mũ hơi nghiêng, xương sống mũ bằng sắt, phía trước có chữ Sơn, ống mũ rộng, rõ ràng là loại mũ Thông Thiên chỉ hoàng đế mới được dùng!


Không cần biết chiếc mũ Thông Thiên kia lai lịch thế nào, nhưng ngọc Hòa Thị thì có ghi chép đàng hoàng trong sử!


Chẳng lẽ khối ngọc này là thật? Lục Tử Cương thấy hơi rối loạn, gã chủ tiệm Á Xá chẳng lẽ lại thần thông quảng đại đến mức này? Ngọc Hòa Thị thất truyền từ lâu rồi mà cũng kiếm được? Hơn nữa căn phòng này rõ ràng là phong cách thời Tần, Lục Tử Cương bắt đầu nghĩ có khi nơi này tất cả đều là đồ cổ thời Tần, kể cả từng viên gạch viên ngói.


Lúc này Lục Tử Cương đã biết chắc Hồ Hợi đến đây không phải vì nửa tấm Vô Tự Bi, anh có dự cảm không lành trong lòng, cất tiếng hỏi: "Ngươi muốn làm gì?". Đáng lý ra ăn trộm xong rồi thì phải lập tức bỏ đi, nhưng xem bộ dạng hắn thì chẳng giống như đi ăn trộm tí nào!


Hồ Hợi không trả lời anh, mà chỉ lặng lẽ cúi đầu nhìn ngọc Hòa thị trong tay, hình như đang hoài niệm điều gì, đang nhớ lại điều gì.


"Là muốn phục sinh ai đó hả, ta đoán thế". Một giọng giễu cợt đột ngột cất lêện trong căn phòng, với một thứ khẩu âm lơ lớ, nghe như người nước ngoài mới học tiếng Trung.


Lục Tử Cương nhìn tới chỗ có tiếng nói, thì thấy một làn khói trắng bay lên từ cây quyền trượng vàng, ngưng tụ lại giữa không trung thành hình dáng một mỹ nam tử, mắt sâu mũi cao, thân trên cởi trần, nhìn phục sức là biết ông ta phải là người rất có quyền thế thời Ai Cập cổ đại. Vì đã được tiêm mũi dự phòng lúc thấy cây nến rồi, nên Lục Tử Cương không còn tỏ vẻ kinh ngạc khi thấy anh trai kia nhảy ra nữa, anh liền hỏi dồn: "Phục sinh? Có thể phục sinh được người ch.ết sao? Phải phục sinh thế nào?".


Vị Pharaoh trẻ tuổi gần đây hay bị cây nến bám riết để hỏi chuyện phục sinh như thế nào, hai người khác quốc tịch không có chiếc khuyên tai nạm vàng của chủ tiệm, không thể nào nói chuyện nổi, nhưng nhờ sự tiếp xúc liên tục, Pharaoh thông thái cũng học được một chút tiếng Trung, có điều đúng là chỉ có một chút, muốn nói nhiều nữa thì chịu hẳn. Ông ta nói một tràng tiếng Ai Cập cổ, thấy Lục Tử Cương ngơ ngác, bèn thôi không nói, chỉ dùng ánh mắt cảm thông nhìn anh.


Anh thanh niên vô tội này chắc hẳn là vật hy sinh mà tay mắt đỏ kia dẫn tới, sẽ làm cơ thể để vong linh nhập vào xâm chiếm.
Pharaoh trẻ tuổi ɭϊếʍƈ môi, đôi mắt màu hổ phách ánh lên sự thích thú, lẩm bẩm một mình: "À! Gã chủ tiệm về rồi, có kịch hay để xem rồi!".
Lục Tử Cương ra vẻ nghe không hiểu...


Hồ Hợi cũng không hiểu, nhưng hắn biết, có điều hắn không phản ứng gì thôi. Giờ này gã kia mới về, thì chẳng thay đổi được gì.
4


Tối nay bác sĩ uống chút bia. Dạo này đang có mốt mua chung, vừa rẻ vừa tiện, anh cũng chạy theo trào lưu, mua được cái voucher thịt nướng cho hai người, tất nhiên là lôi gã chủ tiệm đi. Ăn thì cũng được, có điều hai cốc bia tươi thì gã chủ tiệm không uống lấy một giọt, anh nốc hết vào bụng, bây tuy ra ngoài có chút gió lạnh làm tỉnh người, nhưng hơi men vẫn đang bốc lên. Gã chủ tiệm bèn đề nghị về Á Xá uống trà giải bia.


Bác sĩ cũng không muốn về nhà ở một mình, giơ hai tay đồng ý luôn, vì quán hai người ăn ở ngay trên con phố đó, nên hai người cũng không gọi xe, dẫn nhau đi bộ về. Hiện giờ tuy đã là mùa đông, nhưng là dịp cuối năm đông đúc, đèn màu bắt đầu treo, người đi lại nhộn nhịp, không hề giống cảnh tiêu điều mọi ngày chút nào.


Vì bác sĩ vẫn hơi say, nên bước đi có phần chậm chạp, bị thụt lùi lại vài bước, anh cũng không vội, chỉ cúi đầu nhìn con đường lát đá dưới chân. Con phố buôn bán này có từ lâu đời, con đường lát đá nghe nói cũng đã có vài chục năm tuổi, lồi lõm mấp mô lắm. Anh sợ uống bia vào chân đi không vững, nên cứ cúi đầu nhìn chằm chằm, đề phòng hụt chân ngã. Lát sau anh nhìn thấy đôi giày vải đế bằng quen thuộc, bác sĩ cười, biết là gã chủ tiệm cũng cố đi chậm lại cho bằng tốc độ của anh.


Đầu óc ngấm men rượu có chút lơ đơ, nhưng bác sĩ vẫn nhớ ra hôm nay vì sao lại uống nhiều bia thế, không phải vì nhà hàng tặng bia mà uống vô tội vạ. Anh nhớ tới mẩu tin hôm nay đọc trên báo, cuối cùng không nhẫn nhịn được, hỏi: "Nghe nói con phố này sắp được giải tỏa?".


"Chắc thế, hơn nửa năm trước đã thấy có tin tức rồi, nhưng ai biết chính quyền định quy hoạch thế nào". Gã chủ tiệm thủng thẳng đáp, chẳng thấy có vấn đề gì. Tuy gã không quen thân lắm với những chủ tiệm trên khu phố này, nhưng thường xuyên có hai con thần thú lắm chuyện đến chơi, nên gã cũng biết tin tức này từ lâu. Cùng Kỳ và Hoàn Cẩu xem chừng thích ứng rất nhanh, đám chó hoang mèo lạc quanh đây đều là thủ hạ của chúng, xem ra cũng diễu võ dương oai lắm. Đúng là mất mặt cho thần thú quá! Gã chủ tiệm rủa thầm trong lòng hai con thần thú an phận thủ thường, thì thấy bác sĩ đang trầm ngâm, gã thoáng nghĩ là biết anh đang băn khoăn chuyện gì, khẽ cười nói: "Thế thì có làm sao đâu? Giải tỏa thì tôi đổi chỗ khác là xong chứ gì? Cậu còn lo tôi không có tiền để sắp xếp à?".


Bác sĩ thở mạnh ra một hơi toàn men rượu, không biết phải nói ra sự bất an của mình như thế nào. Anh biết gã chủ tiệm vì muốn che giấu bí mật về gương mặt bất biến của mình, mà chưa từng ở chỗ nào quá mười năm, có khi thậm chí vài năm là rời đi, điều này đã trở thành quy tắc mà gã tuân thủ suốt hơn hai nghìn năm nay. Anh sợ gã chủ tiệm mượn lý do giải tỏa, mà rời bỏ thành phố này. Anh đưa tay sờ lên cây thập tự giá đeo trên cổ, đây là bức tượng Ki-tô làm bằng ngọc xanh nước biển, gã chủ tiệm tặng anh cách đây mấy hôm. Anh vẫn nhớ miếng ngọc xanh này là miếng ngọc Thủy Thương năm xưa, gã chủ tiệm nói miếng ngọc không phù hợp với phong cách của Á Xá, nên ném cho anh. Nhưng bác sĩ luôn cảm thấy đây là món quà tiễn biệt.


"Chỗ này đang tốt mà, tôi tạm thời không muốn đi".


Bác sĩ giật mình ngẩng đầu, nhìn thấy ánh mắt cười của chủ tiệm, trong phút chốc anh biết là tâm sự của mình đã bị gã thấy hết, bất giác cảm thấy hơi ngượng. "Không phải là tôi luyến tiếc gì anh đâu! Có điều tôi thấy trà của anh pha rất là ngon...". Bác sĩ cứng giọng giải thích.


"Phải phải". Gã chủ tiệm cũng không so đo với bác sĩ. Trong cuộc đời dài đằng đẵng của mình, dù là người muốn uống trà gã pha cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay, tất nhiên gã không muốn vội vã ra đi. Giải tỏa mặt bằng thì có sao? Mua một cửa tiệm ở gần đây dọn về là được thôi, dù sao gã cũng đâu có định bán đồ cổ thật.


Nghe lời hứa của chủ tiệm, bác sĩ vẫn không yên tâm, ngược lại còn có một cảm giác bất an khó hiểu dâng lên trong lòng.
Vừa đi vừa nói chuyện, họ đã đến trước cửa Á Xá, gã chủ tiệm định đẩy cửa vào như mọi khi, nhưng khi tay vừa chạm vào cánh cửa khắc hoa, thì đột nhiên thu lại.


"Sao vậy?". Bác sĩ nhìn thấy một chút hoang mang thoáng qua trên mặt của chủ tiệm, trong lòng càng bất an.


Gã chủ tiệm cười nói như không có chuyện gì: "Tôi nhớ ra là còn có chuyện chưa làm, tối nay chưa mời trà cậu được rồi". Nói đoạn bèn đẩy cánh cửa khắc hoa, bước vào một mình, không hề có ý địinh mời bác sĩ vào, rồi đóng cửa.


Bác sĩ nhanh chóng chặn cánh cửa lại, chen người vào qua khe cửa, mượn tí hơi men cất giọng oang oang: "Không được! Đã nói là mời tôi uống trà, thì anh đừng có ăn gian!". Lúc đó anh đã nhận ra tay mình dính nước, hôm nay không mưa, tại sao cánh cửa gỗ của Á Xá lại ướt?


Rõ là gã chủ tiệm cũng không ngờ bác sĩ lại lỗ mãng như thế, nhưng lúc này gã đã nhìn thấy trên mặt quầy không còn thứ gì, sách Vong Linh và quyền trượng vàng đã biến mất, liền không còn kịp nhìn xem bác sĩ có theo mình vào hay không, vội vã nhìn quanh xem có đồ cổ nào mất hoặc bị tổn hại.


Nhìn sắc mặt kỳ quái của chủ tiệm, bác sĩ đang định mở mồm hỏi, thì thấy một bóng trắng xông ra từ phòng trong, làn khói nến biến thành Chúc. Trên gương mặt yêu kiều đầy vẻ sợ hãi, không ngừng hô hoán: "Hắn đến rồi! Hắn đến rồi!".


"Hắn? Hắn nào?". Bác sĩ ngơ ngác không hiểu chuyện gì. Còn gã chủ tiệm thì cau mặt, quay người định đẩy bác sĩ ra ngoài tiệm. Bác sĩ ghì chặt lấy cổ tay gã, trầm giọng hỏi: "Có chuyện gì? Anh biết là những lúc này tôi không thể yên tâm mà bỏ đi được".


Gã chủ tiệm vô cùng hối hận ban nãy chỉ vì sơ suất đã để bác sĩ vào trong, nếu như còn cánh cửa khắc hoa, thì anh ta có muốn cũng không vào được. Gã đành lấp ɭϊếʍƈ: "Chỉ là có trộm, mất một ít đồ thôi, tôi đi giải quyết ngay đây, cậu cứ đợi ở đây".


Bác sĩ cau mày, không tin vào lời nói của chủ tiệm, chỉ nhìn vẻ mặt sợ hãi của Chúc là biết tên trộm này không đơn giản. Nhưng anh cũng không muốn gã chủ tiệm mất thời gian thêm, cũng cố ý nói: "Được, anh đi đi, tôi ngủ một lát đã". Nói xong bèn nới lỏng cà vạt trên cổ, ngồi xuống chiếc ghế gỗ sưa, nghiêng đầu nhắm mắt nghỉ ngơi.


Gã chủ tiệm thấy anh có vẻ như say rượu, tuy còn hơi nghi ngờ, nhưng vì tình thế cấp bách, chẳng để ý được thêm nữa, vội vã đi theo Chúc vào phòng trong của Á Xá. Sau khi gã đi rồi, bác sĩ lại mở mắt ra, bắt đầu nghĩ xem nên làm gì.


Xem ra tên trộm này còn chưa đi khỏi, bắt cá trong rọ thôi còn gì! Nếu người thường gặp phải chuyện này thì việc đầu tiên chắc là báo cảnh sát? Nhưng bác sĩ lôi di động ra từ trong túi rồi lại do dự, cảm thấy nếu theo kinh nghiệm của anh ở Á Xá này, báo cảnh sát là không ăn thua, thậm chí còn làm rối thêm. Nhưng nếu lỡ có chuyện gì, thì ít ra anh cũng phải giúp sức được chứ? Thế là bác sĩ khe khẽ đứng dậy, đi vào nhà trong.


Lục Tử Cương rất lo lắng, trong tiềm thức anh biết Hồ Hợi không làm chuyện gì tốt lành, nhưng không biết phải làm sao, anh mặc kệ ông Pharaoh đang lẩm bẩm bằng tiếng Ai Cập cổ bên cạnh mình, chạy thẳng đến bên bàn, hỏi đầy lo lắng: "Hồ thiếu gia, ngươi định làm gì?".


"Đến đúng lúc lắm, đưa thanh Ngô đao ta mượn một chút". Hồ Hợi bỏ ngọc Hòa thị trên tay xuống, vớitay lấy thanh Ngô đao trong túi áo Lục Tử Cương.


Lục Tử Cương kinh hãi, từ khi có Ngô đao, anh luôn mang theo người, lần này còn định đem Ngô đao ra đổi lại nửa tấm Vô Tự Bi. Anh chỉ không ngờ Hồ Hợi lại bất ngờ rút thanh đao đi mất. Đúng lúc định mềm mỏng nói ra sự không hài lòng của mình, thì Lục Tử Cương lại kinh hãi nhìn Hồ Hợi mặt lạnh tanh, lấy Ngô đao rạch một đường trong lòng bàn tay hắn, máu chảy lênh láng.


"Này! Ngô đao không được vấy máu! Gã chủ tiệm đã dặn dò ta như thế!", Lục Tử Cương giãy nảy, lập tức giật lại Ngô đao trong tay Hồ Hợi, cẩn thận lau sạch.


"Gì có chuyện vớ vẩn đó". Hồ Hợi không tin, lấy cây bút Bạch Trạch ra chấm một ít máu trên tay mình, vẽ loạn lên sách Vong Linh, sau chốc lát, cuốn sách Vong Linh rách nát đã trở lại như ban đầu, chữ viết trên đó cũng như mới tinh. Màn diễn này khiến Pharaoh cũng phải ngạc nhiên tột độ.


Hồ Hợi nhìn thấy sau khi cuốn sách Vong Linh được phục chế, bên góc phải cũng hiện lên một hình ấn ký, hắn lấy cây quyền trượng vàng ra so sánh, thấy dấu ấn trên đó trùng khớp, bèn tiếp tục dùng bút Bạch Trạch, sửa ngày tháng phục nguyên của sách Vong Linh tiến lên vài ngày, cho đến khi ấn ký quyền trượng biến mất hẳn mới thôi. Sau đó hắn cầm Hòa Thị Bích chấm thẳng vào máu trên bàn tay, đóng thẳng xuống sách Vong Linh.


Nhìn tám chữ triện "Thụ mệnh ư thiên, ký thọ vĩnh xương" xuất hiện trên sách Vong Linh, Hồ Hợi đắc ý nhếch mép cười, sau đó hơi ngập ngừng đôi chút, rồi rút một chiếc khăn lụa trong người ra.


Lục Tử Cương vẫn lo lắng theo dõi Hồ Hợi, lúc này anh thấy chiếc khăn lụa được mở ra, bên trong là một chiếc khóa Trường Mệnh đã vỡ đôi, anh như bị đánh một đòn chí tử, lập tức cứng đờ người lại.


Rõ ràng trước đây anh chưa từng thấy chiếc khóa Trường Mệnh, vì sao giờ trông nó lại quen đến thế? Gần như anh có thể nhẩm lại chi tiết từng đường hoa văn trên đó...


Hồ Hợi tất nhiên không buồn để ý đến sự bất thường của anh, hắn rất bình tĩnh, dùng mặt khắc chữ "Trường mệnh bách tuế" của khóa chấm vào máu mình, rồi lại in lên trên sách Vong Linh.
"Ngươi đang làm gì vậy?".


Hồ Hợi nhìn lên, thấy gã chủ tiệm giận dữ tiến tới chỗ hắn, hắn đắc ý giơ sách Vong Linh trong tay lên nói: "Ta đang làm gì hả? Ngươi nên biết mới phải chứ?".


Pharaoh đứng bên cạnh vội vàng từ chối trách nhiệm: "Trẫm không làm gì cũng không nói gì đâu nhé! Mà ngươi xem bộ dạng này của trẫm cũng không ngăn được hắn phải không? Hừ, còn dùng tới hai thần khí, chắc hắn sợ một cái không gọi được, nên dùng hai cái cho chắc".


Gã chủ tiệm nhìn trên sách Vong Linh quả nhiên có hai ấn ký, trong lòng hơi mừng: "Sách Vong Linh mỗi lần gọi được hai linh hồn sao? Chắc là không được chứ?".


Pharaoh buông thõng tay: "Trẫm cũng chưa từng thử, ngươi hỏi trẫm cũng vô ích. Nhưng trong số mấy người chúng ta đây, trẫm không có thân thể, thân thể của ngươi không phù hợp, kẻ kia thân thể cũng rất kỳ quái, chỉ có anh bạn trước mặt này là thích hợp, nên cho dù gọi về hai linh hồn, cũng chỉ có thể phục sinh một người, sách Vong Linh có phạm vi nhất định, ra ngoài căn phòng này là không sao nữa". Ban nãy ông ta cũng đã cảnh cáo anh thanh niên rồi, nhưng tiếc là anh ta không có khuyên tai nạm vàng của chủ tiệm, không hiểu Pharaoh nói gì.


Gã chủ tiệm vừa nghe, bèn định bảo Lục Tử Cương mau chóng ra ngoài, nhưng khi tay gã vừa đưa lên thì phát hiện ra Lục Tử Cương đang nhìn chằm chằm vào khóa Trường Mệnh, kéo thế nào anh ta cũng không có phản ứng gì.


Hồ Hợi thì mặc kệ họ nói gì, đôi mắt đỏ rực dán chặt vào sách Vong Linh, nhìn vết máu của mình trên đó khô dần.


Gã chủ tiệm đang định bất chấp mà kéo Lục Tử Cương đi, nhưng chưa kịp kéo mạnh thì đã thấy mặt anh trắng bệch, rồi hôn mê luôn. Gã chủ tiệm chỉ kịp giữ được tay anh, không cho anh đổ thẳng xuống đất. Đúng lúc đó, phía ngoài hành lang có tiếng một vật nặng rơi xuống đất.


Gã chủ tiệm giật mình, chắc là bác sĩ lo lắng nên lén đi theo sau. Gã vội đặt Lục Tử Cương nằm xuống đất, vừa ra khỏi phòng thì quả nhiên thấy bác sĩ hôn mê bất tỉnh nằm ngoài cửa, gã chủ tiệm lòng dạ rối bời nói: "Sao ông bảo ra khỏi căn phòng này là không sao?".


Pharaoh ngại ngùng gãi mặt nói: "Thì trong phạm vi nhất định cũng có chút sai sót..."
Hồ Hợi đứng cạnh Lục Tử Cương, hắn đang rất mong chờ thì lại thấy gã chủ tiệm lôi vào một người hôn mê nữa, hắn hơi chau mày. Sao lại có hai người? Nhưng rồi nghĩ lại, lúc ấy hoàng huynh chọn bừa một người cũng tốt.


Gã chủ tiệm đặt bác sĩ nằm xuống đất, rồi không nỡ để anh nằm trên nền gạch lạnh, liền quỳ gối xuống, đặt nửa thân trên của anh lên đùi gã. Tạm thời xong xuôi rồi, gã ngẩng đầu, ánh mắt lạnh lùng nhìn Hồ Hợi, nói rành rọt từng chữ: "Để ngọc Hòa Thị lại".


Hồ Hợi biết giới hạn chịu đựng của người trước mặt hắn là đâu, tuy trước kia hắn từng mê đắm ngọc Hòa Thị, nhưng giờ đây đối với hắn thì cũng chỉ là một thứ vật ch.ết mà thôi, hắn liền đặt ngọc Hòa thị lên chiếc bàn sơn. Nhưng nhìn thấy gã kia vẫn dán mắt vào chiếc khóa Trường Mệnh ở tay bên kia của mình, hắn bĩu môi nói: "Đây là thứ ta lấy trong quan tài hoàng huynh ta, ngươi không có tư cách đòi lại".


Gã chủ tiệm biết hồi trước bác sĩ đã bỏ chiếc khóa Trường Mệnh vỡ đôi lại trong chiếc quách ở địa cung Tần lăng, lúc đó gã không hề ngăn lại, nên hôm nay cũng không thể đòi, bèn thu lại ánh mắt, không nói nữa.


Hồ Hợi thấy gã chủ tiệm không hề tỏ thái độ gì với việc hôm nay hắn làm, nhưng trong lòng hắn vẫn không yên tâm. I Hắn biết rất rõ con người này, bề ngoài càng tỏ ra yên ắng, thì càng chứng tỏ gã đang để ý, chuyện hôm nay e là không thể êm đẹp được. Đôi môi mỏng của Hồ Hợi nở một nụ cười nham hiểm, nói một cách khinh bỉ: "Đừng có tỏ thái độ kiểu đó, chẳng qua ta cũng làm cái việc mà ngươi muốn làm thôi, ngươi không dám thừa nhận sao?".


Tay gã chủ tiệm tháo kính mắt cho bác sĩ, không ai nhìn thấy bàn tay đó khẽ run lên.
Chuyện mà gã muốn làm? Không, không phải như thế.


Gã không dám đóng nắp quan tài cho Phù Tô, đắp tấm áo Xích Long lên để đảm bảo thi thể không mục rữa, tuy cũng hy vọng có ngày Phù Tô lại mở mắt nhìn đời trở lại, nhưng chính gã cũng biết đó chỉ là ý muốn của mình gã mà thôi.


Đi tìm những kiếp sau của Phù Tô, cũng bởi vì gã không muốn nhìn thấy linh hồn của ngài phải chịu nỗi khổ yểu mệnh trong vòng luân hồi bất tận, không muốn người thân của ngài ở mỗi kiếp bị nỗi khổ cốt nhục phân ly giày vò.
Gã chỉ đang chuộc tội, vì sao chỉ mình gã vẫn cứ sống?


Năm xưa đã hứa rằng hai người sẽ cùng khai sáng nền thịnh trị Đại Tần, để trăm họ trong thiên hạ không còn chịu cảnh lầm than... Nhưng gã quá bất lực, thậm chí không thể bảo vệ người cần được bảo vệ.


Đã hơn hai nghìn năm trôi qua, gã vẫn như vậy, chẳng tiến bộ lên chút nào, vẫn không thể bảo vệ được người mà hắn quyết tâm bảo vệ.


Thế giới này rất công bằng, muốn có được thứ gì, thì phải đem thứ ngang giá ra đánh đổi... Nhưng gã chưa bao giờ nghĩ sẽ đem người đang hôn mê trong tay gã ra đổi lấy một người khác...


Hồ Hợi nhìn thấy bàn tay gã chủ tiệm đã nắm chặt thành nắm đấm, nghĩ là mình đã nói đúng tâm sự của gã, cười đắc ý, định nói thêm đôi ba câu nữa, thì cảm thấy người dưới chân mình khẽ rên lên, liền vội cúi xuống đỡ anh dậy, để thân trên của anh dựa vào người hắn. Đến khi đôi mắt anh mở ra, Hồ Hợi nhất thời bị kích động mạnh, đôi môi hơi run lên, định gọi một tiếng hoàng huynh, nhưng hắn bỗng trở nên sợ sệt.


Lục Tử Cương mở mắt ra, liền nhìn thấy chiếc khóa Trường Mệnh đã vỡ trong tay Hồ Hợi, anh cảm thấy hoang mang, không nói câu nào.


Pharaoh đang xem một cách thích thú, liền bay lại, mặc kệ người ta có hiểu lời ông ta nói hay không, cười hề hề hỏi: "Thế nào? Cảm giác ra sao? Có đau hay khó chịu lắm không?". Ông ta tạm coi anh là đối tượng thí nghiệm.


Lục Tử Cương bấm tay lên chỗ Thái Dương hơi đau nhức, cảm thấy trong đầu mình hiện ra rất nhiều mẩu ký ức, nhưng rất hỗn loạn, nhất thời không thể sắp xếp rõ ràng được, đầu đau như búa bổ. Lại còn nghe thấy tiếng làu bàu như tiếng ruồi bay bên tai, anh bèn bực dọc nói: "Tôi không phải đã nói là không hiểu anh đang nói gì à? Còn gọi tôi làm gì hả? Phải rồi, tôi bị sao vậy? Tôi nhớ hình như thấy mặt mũi tối sầm rồi ngất đi mà? Trong đầu giờ lại thêm một đống thứ gì đó nữa, Hạ Trạch Lan? Là ai nhỉ... Không đúng... Hình như cái tên này rất quan trọng với mình..."


Hồ Hợi nghe xong thì cứng đờ người, lập tức đẩy Lục Tử Cương ra, nhìn anh mà không dám tin.
Lục Tử Cương thì chẳng hề chú ý, chỉ thẫn thờ nhìn chiếc khóa Trường Mệnh trong tay hắn, ký ức trong đầu lướt qua nhanh chóng như một cuốn phim tua nhanh.


Nhờ cái tên mà Lục Tử Cương vừa nhắc tới, gã chủ tiệm giật mình hiểu ra vấn đề, thì ra chiếc khóa Trường Mệnh mà Hồ Hợi dùng quả nhiên đã gọi được một linh hồn, có điều đó lại chính là kiếp trước của Lục Tử Cương. Gã vội hỏi Pharaoh.


"Sao? Chính là kiếp sau à? Vậy thì linh hồn được triệu hồi sẽ trực tiếp hòa hợp vào thân thể của kiếp này, như vậy thì chỉ có thêm một chút ký ức thôi. Anh bạn này may thật đấy!". Pharaoh rất bất ngờ, nhưng không hề ngưỡng mộ, ông ta là cá thể độc lập, nếu như bắt ông ta phải dung hợp với linh hồn khác, thì ông ta không còn là chính mình được nữa,


Còn gã chủ tiệm thì đã có thêm hy vọng sau khi nghe Pharaoh nói, gã cúi đầu nhìn bác sĩ trong tay mình, hỏi không thành câu: "Nếu như... nếu như...". Pharaoh nhìn chăm chú vào bác sĩ trên tay gã, sau đó lắc đầu nói: "Anh này thì không được, hồn phách anh ta vốn không được hoàn chỉnh, rất dễ gây ra những chuyện kỳ quái, nếu như sách Vong Linh triệu hồi thành công, thì linh hồn của anh ta chắc chắn sẽ bị đẩy ra ngoài thân xác, cho dù là tiền kiếp của anh ta cũng không được".


"Nếu bây giờ ta hủy sách Vong Linh thì sao?". Gã chủ tiệm cau mặt, vẫy tay một cái, sách Vong Linh đặt trên chiếc bàn sơn bỗng như có một bàn tay vô hình điều khiển, bay tới tay chủ tiệm.


Pharaoh nhún vai bất cần: "Dù sao ta cũng không dùng đến, ngươi cứ tùy ý xử trí. Nhưng, ta phải cảnh báo ngươi, hiện tại việc triệu hồi đã thành công, nếu ngươi hủy sách Vong Linh, có thể sẽ cứu được người đang nằm trong tay ngươi, nhưng linh hồn được gọi về sẽ lập tức tan thành mây khói".


Gã chủ tiệm rùng mình, đôi tay đang định xé rách sách Vong Linh lập tức ngừng lại.
"Cũng có nghĩa là, hai người, ngươi chỉ có thể chọn một". Pharaoh nói một cách không hề nể nang.
"Tức lộc tỉ Ngu, duy nhập ư lâm trung. Quân tử cơ, bất như xả, vãng sắc". Thì ra... quẻ này chỉ chuyện này sao?


Ai là hươu? Ai là quân tử? Ai phải... từ bỏ ai...
"Tất Chi..." Một tiếng nói như vang lên từ năm tháng xa xôi nào đó.
Tay cầm sách Vong Linh của gã chủ tiệm bỗng run rẩy, Tất Chi là tên của gã, do người đó đặt cho.


Gã vẫn nhớ, có một hôm, hai người tập viết chữ trong thư phòng, giở đến Kinh Thi, bởi vì tên người đó cũng lấy từ câu thơ "Sơn hữu phù tô, tịch hữu hà hoa" trong thiên "Trinh Phong". Gã thầm ngưỡng mộ, không ngờ người đó lại để ý, nói rằng tên của gã là La, nên đặt thêm tự cho gã là Tất Chi, lấy từ câu "Uyên ương ư phi, tất chi la chi" trong thiên "Tiểu Nhã".


(Núi có cây dâu, đầm có hoa sen.
Chim uyên ương bay, gặp lưới lớn lưới nhỏ ("tất" là lưới nhỏ, "la" là lưới lớn).)
Hai cái tên đó, đã rất rất lâu không có người gọi rồi.


Trong lúc gã chủ tiệm đang bàng hoàng, lại loáng thoáng nghe thấy có người khẽ cười nói bên tai: "Tất Chi, tóc của ta, sao lại ngắn thế?".


Gã chủ tiệm chớp chớp mắt, cúi đầu nhìn người đang nằm trên đùi mình, thì nhìn thấy một đôi mắt sâu thẳm, không còn cặp kính che phía trước nữa, đôi mắt vẫn ôn hòa như hơn hai nghìn năm trước.
Ngài nói: "Tất Chi, lâu quá không gặp".






Truyện liên quan