Chương 39

Tưởng rằng may mắn có thể bỏ được nghề…


Ngày đầu tiên được thả tự do, có cán bộ gọi tôi đến phòng làm việc bên ngoài trại giam để làm hồ sơ. Tôi vẫn cư xử như một phạm nhân cho đến giây phút cuối cùng. Mặc dù đã thay bộ quần áo phạm nhân sang trang phục thường nhưng tôi vẫn ngồi quỳ gối trên nền đất chứ không dám ngồi ngang hàng trên ghế với cán bộ. Người cán bộ đó đi vào phòng, thấy tôi quỳ dưới đất như một phạm nhân liền bảo:


“Nỉnh, em không còn là phạm nhân nữa, lên ghế ngồi đi em”.
Cán bộ vừa nói đến đây nước mắt tôi đã trào ra vì xúc động. Tôi vui mừng khi mình được tự do. Hóa ra, hai từ “tự do” nó lớn lao đến thế này đây!


Hôm đó, có rất nhiều cán bộ trong trại giam cho tôi tiền, trong đó có cả giám đốc trại. Bà gửi người đưa tôi năm trăm bạt. Không phải ai cũng được bà cho tiền như tôi. Đó là vì các cán bộ biết tôi đã cố gắng hết sức giúp đỡ họ viết báo cáo lý lịch phạm nhân nên họ muốn tặng cho tôi, gọi là quà mừng tôi được thả. Ngay cả bác Siriwan cũng cho tôi khá là nhiều. Sau khi được thả, bác vẫn thường xuyên liên lạc với tôi và còn giúp đỡ nếu như tôi có gọi đến làm phiền. Hiện tại, bác đã chuyển công tác đến một tỉnh khác và không còn liên lạc với tôi nữa.


Ngày đầu tiên được thả tự do, anh trai và chị gái đến đón tôi trước cổng trại giam và đưa tôi đến bãi biển Bang Sean với mong ước gột rửa, thả trôi và vất xuống biển mọi đau khổ mà tôi đã phải chịu đựng vừa qua. Sau đó, chúng tôi đến viếng mộ bố ở một tỉnh khác. Di cốt của bố được đặt trong một ngôi chùa nhỏ và thật không thể tin được một hiện tượng lạ đã xảy ra với tôi. Khi đó là khoảng sáu giờ chiều, tôi làm lễ trước di cốt của bố. Thời tiết hôm đó rất nóng, không hề có một chút gió nào. Vậy mà tự nhiên cây cối rung lên, giống như có một làn gió rất mạnh thổi qua trước mặt tôi. Mọi người đi cùng tôi hôm đó đều nhìn thấy và tất cả đều quay sang nhìn tôi một cách đầy kinh ngạc. Có lẽ bố đang về, chúc mừng tôi đã mãn hạn tù.


Không lâu sau khi ra tù, tôi đã tìm cách liên lạc với Chin-ya nhưng thật buồn, Chin-ya đã đổi số điện thoại mới và chuyển nhà đi nơi khác sống nên tôi không thể liên lạc được. Tận sâu đáy lòng tôi hiểu được suy nghĩ của Chin-ya. Có lẽ anh đã không còn chờ tôi nữa vì tôi phải ngồi tù quá lâu và trong suốt thời gian đó chúng tôi không hề liên lạc với nhau. Thời gian trôi qua, tôi lại quen một người đàn ông khác ít hơn tôi gần mười tuổi.


available on google playdownload on app store


Ngày mới quen nhau, cậu ta mới chỉ mười chín tuổi và đang học tại một trường đại học ở Bangkok, còn tôi lúc đó cũng đã hai mươi bảy, hai mươi tám. Tôi đã kể mọi chuyện của mình cho cậu ta nghe mà không hề giấu giếm bất kỳ chuyện gì như tôi là ai, đến từ đâu và đã từng làm gì trong quá khứ. Anh chàng tên là Phổn. Tôi quan sát thấy cậu ta là người ít có kinh nghiệm sống, mặc dù đã lên đại học. Phổn đến từ một vùng nông thôn không xa Bangkok, là tỉnh Mea Klong. Tôi đã dạy cậu ta mọi thứ, từ cách tiếp xúc với thế giới rộng lớn bên ngoài, biết đi chơi đêm, quen biết với nhiều bạn bè hơn và còn rất nhiều điều khác nữa. Phổn rất nhút nhát và nghệ sĩ vì cậu ta đang theo học mĩ thuật. Chúng tôi dính nhau như đôi sam. Tôi quen biết tất cả bạn bè của Phổn ở trường đại học, đến cả các thầy cô giáo cũng biết vì tôi thường đến ăn, ngủ lại trong phòng Phổn và thậm chí còn lên giảng đường học với cậu ta nữa. Việc học mĩ thuật cũng không có quá nhiều phép tắc như các môn học khác, mọi thứ đều rất thoải mái. Hàng ngày chỉ ngồi vẽ tranh, sau đó nộp cho giáo viên, thỉnh thoảng cũng ngồi học lý thuyết nhưng không nhiều lắm. Có lần, chúng tôi còn ngồi chơi bài với nhau bên ngoài mà không chịu vào học, bị giáo viên bắt được. Hôm nào tôi không vào trường với Phổn thì bạn bè và các thầy cô giáo lại hỏi cậu ta “Hôm nay người yêu không đến học cùng à?”. Kể cũng thấy vui vui.


Một thời gian sau, tôi cảm thấy tôi và Phổn không thể ở bên nhau được nữa vì tôi nghĩ cậu ta vẫn còn quá nhỏ tuổi. Nhiều lúc, tôi thấy cậu ta khá phân vân về mối quan hệ của chúng tôi. Vì thế chúng tôi dần dần rời xa nhau. Cuối cùng, tôi quyết định đi theo con đường riêng của mình.


Tôi lên đường sang làm việc ở Singapore, lần này tôi phải trả nợ cho bọn môi giới tám mươi khách. Tôi không còn muốn làm gái bán ɖâʍ như trước nữa. Nhưng tôi không biết phải làm gì ngoài công việc này. Tôi giống như một người phụ nữ bơ vơ giữa cuộc đời, không có ai giúp đỡ và không có ai chăm sóc, không có ai chịu trách nhiệm về cuộc đời tôi ngoài chính bản thân tôi. Giờ đây với tôi, bán ɖâʍ cũng là một nghề. Tôi chỉ nghĩ rằng nó là nghề của tôi và tôi sinh ra để làm nghề này. Để hành nghề, tôi không phải đầu tư bất cứ thứ gì ngoài vốn tự có. Ai chẳng muốn một cuộc sống an nhàn, giàu sang, tôi cũng vậy. Nếu có thể được lựa chọn thì tôi cũng muốn có một công việc nào đó ổn định chứ nhất định không bao giờ chọn nghề này.


Đến Singapore, tôi vào làm việc trong khu Geylang, nơi có rất nhiều cô gái người Thái Lan, Philippines, Trung Quốc đứng bắt khách. Đặc biệt là vào ngày cuối tuần, có đến hàng trăm cô ra đón khách. Ở Singapore không phải tiếp khách nhiều như ở Hồng Kông nhưng phương thức làm việc tương tự nhau. Đó là tính tiền phục vụ trong hai mươi phút cho một lần tiếp khách. Hàng ngày, tôi và những cô gái đó phải thường xuyên chạy trốn cảnh sát, mỗi ngày cả chục lần vì cảnh sát thường xuyên đến đuổi bắt chúng tôi. Cảnh sát ở đây rất côn đồ. Nếu ai bị bọn chúng bắt được mà vẫn có ý định chạy trốn thì sẽ bị họ đánh không thương tiếc và cũng không quan tâm người đó là phụ nữ. Tôi nghe từ những người bạn từng đến đây làm việc trước đó kể rằng nếu bị bọn chúng bắt thì sẽ phải ngồi tù, sau đó bị trục xuất về Thái. Nếu còn quay lại làm việc ở Singapore lần nữa và bị bắt lại lần thứ hai thì bọn chúng sẽ cạo sạch tóc và tống giam. Tôi tin vì tôi đã từng được chứng kiến tận mắt chuyện này.


Tôi có visa ở Singapore được một tháng nên có khá nhiều thời gian làm việc trả nợ. Một ngày tôi tiếp từ bảy đến mười người khách, có ngày còn được nhiều hơn, phụ thuộc vào việc tôi có chăm chỉ làm việc hay không. Tôi ở Singapore được một tuần thì gọi điện về nói chuyện với Phổn. Phổn nói rất nhớ tôi, muốn được gặp tôi và cảm thấy rất cô đơn khi không có tôi ở bên. Điều đó giúp tôi có thêm sức mạnh và muốn được trở về với cậu ta. Nhưng tôi vẫn chưa trả hết nợ nên vẫn phải ở lại làm tiếp. Có người bảo với tôi rằng nếu đã đến Singapore rồi mà chưa đi lễ Phật bà Quan Âm ở một ngôi chùa lớn của Singapore thì coi như vẫn chưa đến Singapore. Vì thế tôi muốn được đi lễ Phật để cầu xin điều an lành may mắn đến với tôi và Phổn, cầu xin cho chúng tôi có thể chung sống bên nhau trọn đời.


Ngôi chùa đó tuyệt đẹp, tượng Phật bà uy nghiêm hiền từ tọa lạc trong lễ đường chính. Sau khi lễ Phật xong xuôi, tôi quay lại phòng trọ và chuẩn bị đi làm như thường lệ. Tôi đến chỗ làm của mình nhưng thật không may tôi bị cảnh sát bắt quả tang khi đang quan hệ với khách trong phòng. Khi bị cảnh sát bắt, tôi vẫn còn cảm thấy hơi tiếc, đáng ra tôi vẫn chưa nên bị bắt lúc này vì còn chưa trả hết nợ và vẫn chưa kiếm được xu nào. Lúc đó, trong người tôi chỉ có khoảng hơn một nghìn bạt. Họ bắt và dồn tôi lại cùng với nhiều cô gái khác. Nhân lúc cảnh sát có sơ hở, một ý nghĩ thoáng qua trong đầu tôi là tôi phải chạy trốn vì hiện tại tôi vẫn chưa muốn về nhà.


Tôi định chạy trốn thì bị bọn họ phát hiện. Họ chạy đến, túm tóc tôi thật chặt, sau đó tát vào mặt tôi hai, ba cái và chửi tôi rất nhiều. Tôi biết mình không thể trốn được nên đành ngoan ngoãn nghe theo họ, chờ bị tống vào tù và trục xuất về nước. Tôi phải ngồi tù ở Singapore khoảng mười ngày mà không được tắm và thay quần áo vì ở đó không có nhà tắm cho phạm nhân. Bọn họ cũng không cho chúng tôi thu dọn quần áo trong phòng giống như hồi tôi bị bắt ở Hồng Kông hay Nhật Bản. Điều kiện nhà giam cũng rất tồi tàn, bẩn thỉu, còn bẩn hơn cả trại tù của Thái Lan vì chúng tôi phải vừa ngủ vừa đi vệ sinh chỉ trong một căn phòng duy nhất. Đồ ăn sáng chỉ có trà và một mẩu bánh mì cứng ngắc, không có đồ ăn trưa, chỉ được ăn thêm một bữa nữa tầm ba giờ chiều rồi đi ngủ. Chúng tôi không thấy mặt trời và tất nhiên cũng chẳng biết đến trăng sao vì bị nhốt dưới hầm của một ngôi nhà cao tầng. Trong tù có rất nhiều cô gái đến từ nhiều nước khác nhau. Mỗi phòng gian có rất nhiều ống dẫn khí của máy điều hòa truyền tới làm không khí trong tù lúc nào cũng lạnh lẽo. Nhà tù ở đây không có gối, không có chăn. Chúng tôi mặc bộ nào khi bị bắt thì lúc được thả vẫn mặc nguyên bộ đó.


Đến ngày được thả, cảnh sát áp giải chúng tôi ra đến tận sân bay. Vừa rời khỏi nhà giam tất cả chúng tôi đều không thể đi được vì mắt không thể nhìn thấy gì. Chúng tôi đã bị nhốt trong phòng tối đen nhiều ngày từ khi bị bắt cho đến khi được thả về nhà. Đây cũng là một hình thức tr.a tấn phạm nhân. Tôi tự thề với chính mình sẽ không bao giờ quay lại làm việc ở Singapore nữa vì nhà tù ở đây quá tàn khốc. Bọn họ chắc muốn để chúng tôi sợ đến ch.ết và sẽ không dám quay lại làm việc ở Singapore. Tuy thế, tôi thấy rất ít người chịu từ bỏ ý định quay lại Singapore, chỉ được một thời gian ngắn họ đã quay lại đó. Với riêng tôi thì trong mười năm qua, tôi chưa từng quay lại đó lần nào dù có rất nhiều cơ hội nhưng tôi vẫn muốn đến nơi khác hơn là quay lại Singapore.


Quay về gặp Phổn, chúng tôi lại thường xuyên ở với nhau. Ngoài ra, tôi cũng cố gắng liên lạc tìm Chin-ya. Nhờ sự giúp đỡ của một cô bạn Thái đã kết hôn với người Nhật, cuối cùng tôi cũng tìm thấy anh. Tôi gọi điện nhờ Chin-ya sang Thái đón tôi quay lại Nhật vì trong thời gian đó tôi cũng không dám chắc chắn về tình cảm của mình với Phổn. Chin-ya sang Thái tìm tôi thật. Anh đã thực hiện mọi thủ tục để giúp tôi quay lại Nhật sinh sống với anh như xưa và còn nói với tôi rằng anh đã chia tay với người phụ nữ kia. Chin-ya đến tìm tôi ở Thái Lan, Phổn cũng biết chuyện. Phổn sợ nếu không có tôi thì không biết cậu ta sẽ sống ra sao. Phổn nói với tôi rằng cậu ta rất yêu tôi và không thể sống đươc nếu bị tôi bỏ rơi. Phổn đã khóc xin tôi đừng đi với Chin-ya và hứa sẽ sống với tôi suốt đời cho dù có chuyện gì xảy ra.


Tôi quyết định ở lại với Phổn vì tôi và Chin-ya đã xa cách nhau quá lâu để có thể quay lại hàn gắn tình cảm như xưa. Chúng tôi đã không gặp nhau nhiều năm, tôi tự hỏi lòng mình để biết hiện tại tôi yêu ai nhiều hơn và câu trả lời là "Tôi đã yêu Phổn".


Ngày tiễn Chin-ya ra sân bay về nước, tôi chỉ bảo Chin-ya về lại Nhật trước, sau đó tôi sẽ theo sang sau vì còn vướng chút giấy tờ chưa giải quyết xong, cần phải chờ anh về Nhật gửi cho tôi để tôi tiến hành thủ tục xin visa mới. Hôm đó ở sân bay, Chin-ya luôn nhìn vào mắt tôi như thể anh muốn chứng minh điều gì đó. Có lẽ anh muốn kiểm chứng xem tôi còn có tình cảm với anh nữa hay không. Sau khi chia tay nhau, tôi không hề gọi điện cho Chin-ya và anh cũng không gửi bất kỳ giấy tờ nào cho tôi. Chắc anh cũng hiểu rằng tôi đã không còn yêu anh nữa. Chúng tôi chia tay nhau trong yên bình, chỉ có điều tôi vẫn chưa làm thủ tục ly hôn với Chin-ya và tôi vẫn phải dùng họ của Chin-ya cho đến tận bây giờ.


Tôi chuyển đến sống với Phổn cho đến khi anh tốt nghiệp, nhận bằng đại học và hoàn thành nghĩa vụ đi tu[ ]. Sau đó, chúng tôi sinh sống bằng nghề bán hàng dạo trong các chợ phiên. Quán của chúng tôi là một chiếc xe tải nhỏ có thể mở được nắp đằng sau. Tôi chấp nhận làm mọi thứ và luôn cố gắng hết sức, chưa từng nhụt chí. Mối quan hệ giữa tôi và bố mẹ, anh chị em của Phổn khá tốt. Mặc dù họ biết tôi hơn tuổi con họ nhưng nếu con họ yêu tôi thì họ cũng vẫn chấp nhận tôi. Điều kiện gia đình Phổn có thể nói là khá giả. Bố mẹ Phổn làm nghề bán đồ hải sản ở Mea Klong. Chúng tôi đã đưa nhau về Mea Klong sinh sống. Mẹ Phổn rất tốt, bà còn mua xe trả góp cho chúng tôi để lấy phương tiện chở hành đi chợ bán. Hồi đó, tôi bán quần áo ở chợ Mea Klong. Ở đó, mọi người ai cũng biết tôi vì tôi ăn mặc rất phong cách. Mặc dù nhiều lúc bố mẹ Phổn tỏ ra không thích nhưng chuyện này không thể làm khác được vì tôi phải ăn mặc thật đẹp để cho khách hàng ngắm. Có thế họ mới mua quần áo của tôi.


[ ] Người Thái có phong tục nam giới đến tuổi trưởng thành phải đi tu khoảng một đến ba tháng để báo hiếu cho bố mẹ.


Tôi rất hạnh phúc khi có một nghề lương thiện để làm và không phải đi bán ɖâʍ như trước. Tôi đã nghĩ Phổn có lẽ sẽ là người đàn ông cuối cùng của đời tôi. Tôi sẽ nguyện chung sống cả đời với anh và sẽ không bao giờ quay lại nghề cũ nữa. Nhưng một thời gian sau, cửa hành quần áo của chúng tôi liên tục bị thua lỗ. Chúng tôi phải thay bằng việc bán hàng tiêu dùng khuyến mãi. Chúng tôi mua về một giá sau đó bán ra với giá cao gấp đôi. Thời gian đầu, công việc buôn bán rất thuận lợi, tôi không phải ngồi bán lẻ nữa mà bán buôn cho các cửa hàng. Sau đó ở Mea Klong cũng có nhiều người bắt chước làm theo tôi vì thấy tôi bán hàng rất chạy, nhưng không có ai có thể cạnh tranh được với tôi. Tôi đắt khách là nhờ vào khả năng giao tiếp, chào mời khách hàng. Nhiều khách hàng nói với tôi rằng thật ra họ không muốn ra mua hàng của tôi đâu mà chỉ muốn ra nói chuyện với tôi. Họ khen tôi là người nói chuyện rất có duyên, biết lắng nghe người khác và thỉnh thoảng còn cho họ lời khuyên khi họ gặp rắc rối.


Tôi bán loại hàng này được hơn hai năm thì gặp khó khăn và bị thua lỗ, cũng dễ hiểu thôi bởi trong kinh doanh không phải lúc nào cũng gặp thuận lợi. Tôi và Phổn phải vay nặng lãi người khác, ban đầu chỉ vay vài nghìn bạt rồi dần dần lên thành hàng chục nghìn, hàng trăm nghìn bạt. Chúng tôi nợ quá nhiều đến mức bố mẹ Phổn phải bỏ tiền ra trả giúp và chúng tôi phải chuyển sang làm nghề mới. Tôi quay ra nghề bán bánh mì có nhân là thịt dăm- bông, thịt hun khói và các loại mứt hoa quả. Tôi luôn cố gắng tìm cách làm ra những loại bánh khác biệt với những người khác và không nơi nào có. Tôi học làm theo một loại bánh lúc đó đang rất đươc ưa chuộng và thường được bán ở trong các nhà ga tàu điện có tên là Bread Ham. Nhưng tôi sẽ pha trộn nhiều loại khác nhau, cố gắng để không giống bất kỳ ai và đặt tên bánh Chai-en. Tôi làm và bán bánh ở Hua Hin, Phetburi, Ratburi. Hàng bán rất chạy. Hồi đó, ai muốn ăn bánh của tôi đều phải đứng xếp hàng chờ rất lâu. Người nào không có thời gian chờ có thể ghi lại vào giấy sau đó quay lại lấy sau. Tôi rất tự hào với các loại bánh do chính mình sáng tạo ra. Tôi luôn cố gắng duy trì điều đó. Khách hàng của tôi rất đông và tôi chỉ bán với giá chỉ bảy bạt một cái, ba cái hai mươi bạt. Dù tôi có đem bán ở đâu thì cũng rất chạy. Việc bán bánh của tôi khi đó rất vất vả vì phải ngồi làm cả đêm để có thể làm ra được số lượng bánh nhiều nhất có thể, lên đến hàng nghìn cái. Tôi chỉ bán một mình, thỉnh thoảng để Phổn giúp nhưng cũng không làm kịp vì thế nên phải thuê thêm một người giúp việc.






Truyện liên quan