Chương 36
Đêm nghỉ tại trang trại ở Boulois, với Barley nằm phía bên kia phòng, là một đêm thao thức nhất mà tôi chưa bao giờ nếm trải. Chúng tôi đi ngủ vào khoảng chín giờ, vì không biết phải làm gì ngoài việc lắng nghe âm thanh lục cục của lũ gà và ngắm nhìn ánh sáng đang mờ dần trên khu chuồng gia súc ọp ẹp. Tôi sửng sốt vì nông trại không có điện - “Em không để ý là không có dây điện hay sao?” Barley hỏi - bà chủ nông trại đã mang đến một chiếc đèn lồng cùng hai cây nến trước khi chúc chúng tôi ngủ ngon. Dưới ánh sáng của chúng, bóng của những thứ đồ gỗ cổ bóng loáng như cao hơn, phủ quanh chúng tôi đầy đe dọa, những đồ may thêu trang trí cũng rập rình đong đưa trên tường.
Sau vài lần ngáp, Barley để nguyên quần áo nằm xuống giường và nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Tôi không dám bắt chước anh nhưng cũng ngại không dám để các ngọn nến cháy suốt đêm. Cuối cùng, tôi thổi tắt nến, chỉ để lại cây đèn lồng, ánh sáng le lói từ nó chỉ làm cho bóng tối quanh tôi càng thêm đặc quánh lại, và bóng tối bên ngoài, từ sân khu trại, như càng đè nặng lên khung cửa sổ. Những dây nho xào xạc trên kính cửa sổ, lũ cây cối hình như cũng nghiêng vào sát hơn, một tiếng động kỳ lạ, có thể là tiếng của lũ cú hoặc bồ câu, vang lên khi tôi đã nằm co ro trên giường. Barley dường như ở rất xa; lúc nãy tôi đã mừng biết mấy khi thấy hai cái giường tách biệt, nhưng giờ thì tôi chỉ ước gì chúng tôi buộc phải nằm ngủ một giường, lưng-đối-lưng.
Sau một lúc lâu nằm yên trong một tư thế đến độ tê người, tôi thấy một thứ ánh sáng dịu êm trườn từ cửa sổ vào rồi dần lan ra trên nền ván sàn. Trăng đang lên, và nhờ thế tôi cảm thấy nỗi sợ hãi của mình phần nào nhẹ bớt, tựa như đã có một người bạn cũ đến chơi bầu bạn cùng tôi. Tôi cố không nghĩ đến cha; nếu đây là một cuộc du hành nào khác của tôi, thì hẳn cha mới là người nằm trên chiếc giường bên kia, mặc pyjama đàng hoàng, cuốn sách dở dang để bên cạnh. Chắc hẳn cha sẽ là người đầu tiên để ý cái trang trại cũ kỹ này, biết ngay phần trung tâm của trang trại được xây dựng từ thời Aquitaine( ), rồi sẽ mua vài ba chai rượu vang và bàn luận về vườn nho với bà chủ nhà vui vẻ dễ chịu.
Nằm trên giường, tôi băn khoăn tự hỏi mình sẽ làm gì nếu cha không còn sống trở về sau chuyến đi đến tu viện Thánh Matthieu. Tôi nghĩ mình sẽ không thể nào trở về Amsterdam để một mình quẩn quanh suốt ngày trong nhà với bà Clay được; như vậy tôi sẽ chỉ càng thêm đau đớn. Theo hệ thống giáo dục châu Âu, tôi còn hai năm nữa mới học xong trung học, rồi mới được đi học đại học ở một nơi nào đó. Tôi sẽ sống với ai trong thời gian đó? Barley sẽ trở về với cuộc sống thường nhật của anh; tôi không thể trông mong anh lo lắng cho mình nhiều hơn nữa. Hình ảnh thầy James thoáng hiện ra trong đầu tôi, cùng với nụ cười buồn, sâu lắng và những nếp nhăn đôn hậu quanh đôi mắt. Rồi tôi lại nghĩ đến hai bác Giulia và Massimo, đến căn biệt thự của họ ở Umbria. Tôi như thấy lại bác Massimo đang rót rượu vang cho tôi - “Thế cháu đang học gì thế, cháu yêu?” - và bác Giulia nói tôi phải được dành cho căn phòng tốt nhất. Họ không có con; họ cũng yêu mến cha. Tôi sẽ đến với họ nếu cuộc sống trắc trở.
Bây giờ đã cảm thấy bạo dạn hơn, tôi thổi tắt ngọn đèn lồng, rón rén nhón chân nhô đầu nhìn ra bên ngoài. Tôi chỉ nhìn thấy vầng trăng chia nửa trên bầu trời đầy những mảnh mây nham nhở. Lơ lửng trôi ngang qua trước mặt trăng là một hình bóng mà tôi biết rất rõ - không, chỉ một chốc lát thoáng qua thôi, và chỉ là một đám mây thôi, đúng không nhỉ? Đôi cánh xòe rộng, cái đuôi uốn cong? Nó tan đi ngay, nhưng sau đó, thay vì trở lại giường mình, tôi đã đến giường của Barley, nằm đối lưng với anh, cái lưng vô tư lự của anh, run rẩy hàng giờ liền.
“Việc vận chuyển và thu xếp ông Erozan một chỗ trong căn phòng khách kiểu phương Đông của Turgut đã mất gần hết buổi sáng. Bây giờ, ông thủ thư đã yên vị trên đi văng dài, vẫn xanh xao nhưng đã bình tĩnh trở lại. Chúng ta vẫn còn ở đó khi bà Bora từ trường về nhà vào buổi trưa. Bà nhanh nhẹn bước vào, trong mỗi bàn tay nhỏ bé vẫn còn mang găng là một giỏ đồ. Hôm nay bà mặc váy màu vàng, đội mũ vải hoa, trông chẳng khác gì một nhánh thủy tiên nhỏ bé. Nụ cười bà vẫn tươi tắn, dễ thương ngay cả khi nhìn thấy tất cả chúng ta đang đứng vây quanh một người đàn ông kiệt sức. Có vẻ như chẳng có hành động nào của ông chồng khiến bà phải ngạc nhiên, cha nghĩ; có lẽ đó cũng là bí quyết của một cuộc hôn nhân hạnh phúc.
“Bằng tiếng Thổ, Turgut giải thích với bà tình huống xảy ra, vẻ mặt vui vẻ của bà nhường chỗ cho trước tiên là nét hoài nghi không giấu nổi rồi sau đó là vẻ kinh hoàng bùng lên khi ông kín đáo chỉ cho bà xem vết thương trên cổ họng vị khách mới. Bà nhìn Helen và cha bằng một ánh mắt thất thần không thốt nên lời, như thể đó là lần đầu tiên bà biết tới một điều xấu xa. Rồi bà cầm lấy tay người thủ thư, trước đó một lát cha đã biết bàn tay đó không chỉ trắng nhợt mà còn lạnh ngắt. Một lát sau, bà lau nước mắt rồi bước nhanh vào bếp, cha nghe vọng ra tiếng lách cách của xoong nồi. Dù bất kỳ chuyện gì xảy ra, người đàn ông đang nhiễm bệnh này chắc chắn sẽ có một bữa ăn ngon. Ông Turgut thuyết phục chúng ta ở lại ăn trưa, cha ngạc nhiên khi thấy Helen đi theo bà Bora để phụ giúp.
“Khi nhận thấy ông Erozan chắc chắn đã ngủ ngon, Turgut dẫn cha vào căn phòng làm việc quái dị của ông ta một vài phút. Cha cảm thấy dễ chịu vì tấm rèm che bức chân dung kia đã buông xuống kín mít. Chúng ta ngồi đó một lát để bàn bạc tình hình. ‘Ông có cho rằng hai vợ chồng sẽ an toàn khi để ông bạn thủ thư ở đây không?’ Cha không thể ngăn mình nêu ra câu hỏi đó.
“ ‘Tôi sẽ sắp xếp mọi biện pháp đề phòng. Nếu một hai ngày tới tình trạng sức khỏe ông ấy khá hơn, tôi sẽ tìm một nơi nào đó cho ông ấy ở, cùng với một người trông nom.’ Turgut kéo cho cha một cái ghế rồi ngồi xuống sau bàn làm việc. Cha chợt nghĩ, hầu như chẳng khác gì đang ở với thầy Rosssi trong phòng làm việc của thầy tại trường đại học, chỉ có điều phòng làm việc thầy Rossi rõ ràng là vui hơn với những loại cây kiểng xanh tốt và ấm cà phê đang reo sôi, còn căn phòng này tăm tối một cách lạ lùng. ‘Tôi chẳng mong có bất kỳ cuộc tấn công nào ở đây, nhưng nếu có, anh bạn người Mỹ ấy của chúng ta sẽ phải đối mặt với một sự giáng trả ra trò.’ Nhìn cái vóc dáng chắc đậm đầy cương quyết của ông sau bàn làm việc, cha có thể dễ dàng tin vào điều ấy.
“ ‘Xin lỗi giáo sư,’ cha nói. ‘Có lẽ chúng tôi đã mang đến cho ông quá nhiều chuyện rắc rối, mang mối đe dọa này đến ngay cửa nhà ông.’ Cha kể sơ lược cho ông ta nghe cuộc đụng độ giữa chúng ta và gã thủ thư xấu xa kia, kể cả việc nhìn thấy hắn trước thánh đường Hagia Sophia đêm hôm qua.
“ ‘Kỳ lạ thật,’ Turgut nói. Đôi mắt ánh lên vẻ quan tâm nghiêm túc, ông ta nhịp đầu ngón tay lên mặt bàn.
“ ‘Tôi cũng muốn hỏi ông một câu nữa,’ cha thú nhận. ‘Sáng nay, trong trung tâm lưu trữ ông có nói trước đây ông đã nhìn thấy một gương mặt giống như hắn. Ông có ý gì khi nói vậy?’
“ ‘À.’ Ông bạn thông thái của cha chắp hai tay trên bàn. ‘Vâng, tôi sẽ kể anh nghe chuyện đó. Đã nhiều năm rồi, nhưng tôi vẫn còn nhớ như in. Thực ra, nó đã xảy ra chỉ vài ngày sau khi tôi nhận được thư của giáo sư Rossi giải thích là ông ta chẳng biết gì về trung tâm lưu trữ ở đây cả. Cuối buổi chiều hôm đó, sau giờ tan học, tôi đã ghé qua phòng sưu tập - bấy giờ hãy còn nằm trong tòa nhà thư viện cũ, trước khi chuyển đến địa điểm hiện nay. Tôi còn nhớ, lúc đó tôi đang nghiên cứu một bài báo cũ viết về một tác phẩm bị thất lạc của Shakespeare, cuốn Vua Tashkani, một số người tin rằng tác phẩm này được dựng lên theo một chuyện hư cấu ở Istanbul. Chắc có lẽ anh cũng nghe nói đến tác phẩm đó chứ?’
“Cha lắc đầu.
“ ‘Nó được trích dẫn trong tác phẩm của nhiều sử gia nước Anh. Cũng chính từ các sử gia này tôi biết được nội dung của nguyên tác vở kịch, một con quỷ tên là Dracole đến triều kiến vua của một thành phố cổ xinh đẹp mà ông ta - tức nhà vua - đã chiếm đoạt bằng vũ lực. Con quỷ đó cho biết hắn đã từng là kẻ thù của nhà vua nhưng bây giờ hắn đến để chúc mừng vì sự khát máu của ông ta. Rồi, hắn thúc giục nhà vua uống cạn máu của cư dân thành phố, những người giờ đã là thần dân của ông ta. Đó là một đoạn văn gây ớn lạnh. Một số người cho rằng đoạn văn không phải của Shakespeare, nhưng tôi’ - ông ta vỗ mạnh tay xuống mép bàn, vẻ tự tin - ‘tôi tin rằng cách diễn đạt đó, nếu được trích dẫn chính xác, chỉ có thể là của Shakespeare, và thành phố kia chính là Istanbul, được cải danh thành Tashkani - một cái tên Thổ Nhĩ Kỳ.’ Ông ta chồm tới trước. ‘Tôi cũng tin rằng ông vua độc tài mà con quỷ kia triều kiến không phải ai khác mà chính là Quốc vương Mehmed II, Người Chinh phục Constantinople.’
“Cha cảm thấy sởn tóc gáy. ‘Ông có cho rằng ý nghĩa của vở kịch này có thể là - ý tôi muốn nói đó là nơi liên quan đến quá trình hoạt động của Dracula?’
“ ‘Chà, anh bạn à, tôi cảm thấy rất thú vị là huyền thoại về Vlad Dracula thậm chí cũng thâm nhập vào nước Anh theo đạo Tin Lành một cách rất mạnh mẽ, vào khoảng - xem nào - năm 1590. Hơn nữa, nếu Tashkani quả thực là Istanbul, thì điều đó cho thấy sự hiện diện của Dracula ở nơi chốn này, vào thời đại của Mehmed, là có thực. Mehmed đã tiến vào thành phố này vào năm 1453. Thời điểm đó chỉ cách năm mà gã thanh niên Dracula trở về Wallachia sau thời gian bị giam giữ ở Tiểu Á năm năm, và không có bằng chứng chắc chắn nào cho thấy trong suốt cuộc đời hắn, Dracula có quay lại khu vực chúng tôi, dù một số học giả cho rằng hắn đã đích thân đến triều kiến Quốc vương. Tôi không nghĩ người ta có thể chứng minh được điều này. Giả thuyết của tôi là chính hắn đã để lại cái di sản ma cà rồng hút máu ở đây, nếu không phải trong thời gian còn sống thì cũng là sau khi hắn ch.ết. Nhưng’ - ông ta thở dài - ‘ranh giới giữa văn chương và lịch sử thường là một ranh giới không rõ ràng và dễ đổi thay, mà tôi lại chẳng phải là một sử gia.’
“ ‘Ông là một sử gia đích thực rồi đấy,’ cha đáp lại, tỏ vẻ khâm phục. ‘Tôi rất ấn tượng trước số lượng những đầu mối lịch sử mà ông đã theo đuổi, cùng với những thành công như vậy.’
“ ‘Anh thật tử tế, anh bạn trẻ à. Dù sao chăng nữa, một buổi chiều hồi tôi còn đang soạn thảo bài viết về giả thuyết này - tiếc là nó chưa bao giờ được công bố, trời ơi, vì những biên tập viên của tạp chí chuyên đề nơi tôi gửi bài đến nhận định là nội dung bài viết quá mê tín dị đoan - tôi đã mê mải làm việc ở trung tâm lưu trữ ba tiếng đồng hồ liền, sau đó vào nhà hàng bên kia đường để ăn qua loa món bưrek. Anh đã ăn bưrek rồi chứ?’
“ ‘Ồ, chưa ạ,’ cha thừa nhận.
“ ‘Anh nên thử món đó ngay đi - đó là một trong những món đặc sản ngon nhất của đất nước chúng tôi. Khi tôi vào nhà hàng đó, vì đang là mùa đông nên ngoài trời đã tối. Sau khi ngồi xuống bàn, và trong thời gian đợi món ăn tôi đã lấy ra và đọc lại lá thư của giáo sư Rossi. Như đã nói, tôi chỉ nhận lá thư này mới mấy ngày và hãy còn rối tung vì nó. Người phục vụ mang thức ăn ra, và tôi chợt nhìn thấy gương mặt hắn khi hắn đặt các đĩa thức ăn xuống. Hắn nhìn xuống, tôi thấy có vẻ như hắn bất chợt chú ý đến lá thư tôi đang đọc, có tên của giáo sư Rossi ở phía trên. Hắn liếc nhìn lá thư một hoặc hai lần bằng ánh mắt sắc lạnh, ngay sau đó cố xóa tất cả nét biểu lộ trên mặt như không có gì xảy ra, nhưng tôi chú ý thấy hắn bước ra sau lưng tôi để đặt một đĩa khác xuống bàn, và hình như qua vai tôi, hắn lại nhìn vào lá thư.
“ ‘Tôi không thể giải thích hành vi đó và cảm thấy vô cùng khó chịu, vì vậy tôi yên lặng xếp lá thư lại và bắt đầu bữa ăn tối. Gã bỏ đi, không nói gì, tôi không thể không chú ý quan sát gã đi quanh quẩn trong nhà hàng. To con, vai rộng, đậm người, mái tóc đen nhánh chải lật ngược ra sau để lộ gương mặt và đôi mắt to đen. Chắc hẳn đó là một khuôn mặt đẹp trai nếu trông nó không có vẻ - người ta gọi là gì nhỉ? - khá nham hiểm. Suốt cả giờ đồng hồ, có vẻ như hắn không thèm chú ý đến tôi, ngay cả khi tôi đã ăn xong. Tôi lấy một cuốn sách ra đọc trong vài phút, nhằm giết thời gian, đột nhiên gã lại tiến đến, đặt trước mặt tôi một tách trà nóng còn bốc hơi. Tôi ngạc nhiên vì mình đâu có gọi trà, và nghĩ chắc hẳn hoặc đó là món khuyến mãi của nhà hàng hoặc là sự nhầm lẫn. “Trà của ông đây,” gã nói lúc đặt tách trà xuống. “Tôi bảo đảm trà còn nóng lắm đấy.”
“ ‘Rồi hắn nhìn thẳng vào mắt tôi, tôi không thể giải thích vì sao gương mặt đó lại làm mình khiếp sợ đến vậy. Một khuôn mặt tái mét, nước da gần như vàng ệch, tựa như gã đã - nói thế nào nhỉ? - đã mục ruỗng hết bên trong. Dưới hàng lông mày rậm, cặp mắt hắn đen và sáng rực, chẳng khác gì mắt của một con thú. Những chiếc răng dài và trắng nhởn trong một cái miệng đỏ như máu - trông chúng có vẻ khỏe mạnh lạ thường trên một khuôn mặt bệnh hoạn. Gã mỉm cười lúc cúi xuống đặt tách trà lên bàn, tôi có thể ngửi thấy cái mùi cơ thể kỳ dị của gã và cảm thấy muốn nôn vì kinh tởm. Anh bạn ạ, nói ra anh đừng cười, nhưng nó cũng thoảng chút cái mùi mà trong những trường hợp khác tôi luôn thấy thích - mùi những cuốn sách cổ. Chắc hẳn anh cũng rành rẽ cái mùi đó - mùi giấy và bìa da của những cuốn sách cổ xưa - và một cái gì khác nữa nhỉ?’
“Cha biết cái mùi đó và cảm thấy chẳng có gì đáng buồn cười cả.
“ ‘Một lát sau, gã bỏ đi về hướng bếp nhà hàng, chẳng hề tỏ ra vội vã, tôi ngồi lại đó, có cảm giác như gã muốn cho tôi thấy một cái gì đó - gương mặt của gã chăng, có lẽ vậy. Gã muốn tôi nhìn kỹ gã, tuy vậy tôi vẫn không thể viện dẫn được bất cứ lý do cụ thể nào để giải thích cho nỗi sợ hãi của mình.’ Sắc diện Turgut giờ đã chuyển sang tái mét, ông ngồi dựa vào lưng chiếc ghế bành kiểu thời Trung cổ. ‘Để lấy lại bình tĩnh, tôi bỏ một ít đường vào cốc trà rồi khuấy đều. Tôi chỉ định trấn tĩnh lại bằng cốc trà nóng hổi đó, nhưng rồi đã xảy ra một chuyện gì đó rất - rất kỳ lạ.’
“Ông ta chợt ngưng bặt tưởng chừng như đang hối tiếc vì đã bắt đầu câu chuyện. Bản thân cha cũng biết rất rõ cảm giác đó, nên đã gật đầu để khuyến khích ông ấy. ‘Xin ông cứ tiếp tục.’
“ ‘Bây giờ khi kể lại, sự việc có vẻ như kỳ quái, nhưng tôi đang nói rất chân thật. Hơi nóng bốc lên từ cốc trà - chắc anh cũng biết hơi nóng bốc lên thường trông như thế nào khi ta khuấy một thứ gì đó còn nóng chứ? - nhưng khi khuấy cốc trà đó, hơi nóng bốc lên khỏi miệng cốc thành hình một con rồng nhỏ, lơ lửng ở đó vài giây rồi tan biến. Chính mắt tôi nhìn thấy nó rất rõ ràng. Anh có thể tưởng tượng cảm giác của tôi lúc đó như thế nào, trong một thoáng tôi cảm thấy không còn tin vào chính bản thân mình nữa, sau đó tôi đã nhanh chóng thu xếp giấy tờ, trả tiền rồi vội vã ra khỏi nhà hàng.’
“Cha cảm thấy miệng mình khô khốc. ‘Ông có gặp lại gã hầu bàn đó chứ?’
“ ‘Chưa bao giờ. Mấy tuần sau tôi không quay lại nhà hàng đó, và khi tính hiếu kỳ trỗi dậy, tôi đã trở lại đó vào một buổi tối, nhưng không có dấu vết nào của gã. Thậm chí, tôi đã hỏi thăm một trong những người hầu bàn khác, anh ta nói gã chỉ làm việc ở đó một thời gian ngắn và anh ta cũng chẳng biết gã họ gì. Tên gã, anh ta cho biết, là Akmar. Tôi chưa bao giờ tìm được dấu vết nào khác của gã.’
“ ‘Và liệu ông có nghĩ chính gương mặt hắn cho thấy hắn là…’ cha bỏ lửng câu hỏi.
“ ‘Nó làm tôi quá kinh hãi. Tôi chỉ có thể nói với anh như vậy về khoảnh khắc đó. Khi nhìn thấy gương mặt của tên thủ thư mà anh đã - như anh nói - anh đã mang tới đây, tôi cảm nhận là mình đã biết vẻ mặt đó. Đó không đơn giản chỉ là vẻ mặt của cái ch.ết. Nét mặt đó còn có một cái gì đó…’ ông ta bứt rứt quay qua quay lại trên ghế rồi liếc nhìn về phía cái hốc tường che rèm, nơi treo bức chân dung. ‘Một chi tiết trong câu chuyện của anh khiến tôi suy nghĩ rất lung, tên thủ thư người Mỹ kia đã phát triển thành một con quỷ mạnh hơn nhiều so với lúc anh gặp hắn lần đầu.’
“ ‘Ý ông muốn nói gì?’
“ ‘Khi hắn tấn công cô Rossi trong thư viện ở Mỹ, anh đã có thể đánh ngã hắn. Nhưng ông bạn tôi ở trung tâm lưu trữ, người hắn tấn công sáng nay, nói rằng hắn rất khỏe, và ông ta cũng đâu có yếu ớt hơn anh. Tên ác ôn đó còn hút được của ông bạn tôi một lượng máu đáng kể, than ôi. Và hơn nữa, lúc chúng ta nhìn thấy hắn, tên ma cà rồng này đang ở giữa ánh sáng ban ngày, chứng tỏ hắn vẫn chưa hoàn toàn bị biến thành quỷ. Tôi phỏng đoán là tên tay sai này đã được hồi sinh lần thứ hai ở trường đại học của anh hoặc ở ngay Istanbul này, và nếu có những mối liên lạc ở đây, hắn sẽ nhanh chóng nhận được phép hồi sinh của quỷ lần thứ ba và mãi mãi trở thành quỷ nhập tràng.’
“ ‘Vâng,’ cha nói. ‘Khi chưa tìm ra gã thủ thư đó thì chúng ta chưa thể làm gì cả, vì vậy ông phải canh chừng bạn ông ở đây rất cẩn thận.’
“ ‘Tôi sẽ cẩn thận.’ Turgut trả lời, giọng nhấn mạnh đầy quyết tâm. Ông chợt im lặng một lát, rồi lại quay về hướng tủ sách. Không nói lời nào, ông rút ra từ trong bộ sưu tập của mình một cuốn album lớn có dòng chữ Latin ở bìa trước. ‘Tiếng Rumani,’ ông giải thích với cha. ‘Đây là bộ sưu tập hình ảnh các nhà thờ vùng Transylvania và Wallachia của một nhà sử học chuyên về nghệ thuật vừa qua đời cách đây không lâu. Ông ta đã chụp lại nhiều hình ảnh của các nhà thờ mà tiếc là sau này đã bị phá hủy trong chiến tranh. Vì vậy, cuốn sách này rất quý.’ Ông ta đặt cuốn sách vào tay cha. ‘Tại sao anh không thử lật đến trang hai mươi lăm xem sao?’
“Cha lật đến trang đó. Ở đó, cha thấy trải rộng trên cả hai trang sách là một bức bích họa điêu khắc màu. Nhà thờ có bức tranh đó được chụp lại trong một bức hình đen trắng nhỏ in ở góc bức hình hai trang ấy: một kiến trúc xinh xắn với hai tháp chuông như kiểu vặn xoắn. Nhưng chính tấm hình lớn mới thu hút sự chú ý của cha. Phía bên trái, hiện ra lờ mờ hình một con rồng dữ tợn đang bay, đuôi cuộn lại không phải một mà thành hai vòng, đôi mắt vàng khè trừng trừng vẻ điên cuồng, miệng đang khạc lửa. Có vẻ như nó đang bổ nhào xuống để tấn công nhân vật ở phía bên phải, một người đàn ông mặc áo giáp, đầu đội khăn xếp vải sọc đang co rúm người lại. Nét mặt rúm ró vì sợ hãi, một tay cầm thanh mã tấu cong, tay kia là một tấm khiên tròn. Thoạt tiên, cha nghĩ anh ta đang đứng giữa một cánh đồng thảo mộc kỳ lạ, nhưng khi nhìn kỹ cha nhận ra những vật chung quanh đầu gối anh ta là những con người, một rừng người tí hon, và người nào cũng đang quằn quại trên đầu một cây cọc. Một số mang khăn xếp, như nhân vật khổng lồ ở giữa họ, nhưng nhiều người khác ăn mặc kiểu như nông dân. Vẫn còn một số người khác mặc quần áo kim tuyến và đội mũ lông cao. Có cả những mái đầu hoe vàng và đen nhánh; quý tộc với bộ ria nâu dài; thậm chí có cả các tu sĩ và thầy tế đội mũ cao và mặc áo thụng đen dài. Đám đàn bà rũ rượi với những bím tóc dài, nam thiếu niên và bọn trẻ nhỏ đều trần truồng. Thậm chí còn có cả một hai con vật. Tất cả đều đang lộ vẻ đau đớn cùng cực.
“Turgut nhìn cha chăm chú. ‘Nhà thờ đó được Dracula chu cấp trong suốt thời kỳ trị vì thứ hai của hắn,’ Turgut nói, giọng bình thản.
“Cha đứng đó, nhìn đăm đăm tấm hình thêm một lát, rồi đóng ập cuốn sách lại vì không thể chịu thêm nữa. Turgut nhận lại và mang cuốn sách đi cất. Khi quay lại với cha, ông ta trông như đang sôi sục. ‘Còn bây giờ, anh bạn, anh dự định làm thế nào để tìm giáo sư Rossi đây?’
“Câu hỏi như một lưỡi dao xoáy vào người cha. ‘Tôi vẫn đang cố gắng chắp nối tất cả các thông tin này lại với nhau,’ cha chậm rãi thừa nhận, ‘cho đến tối hôm qua, thậm chí với sự trợ giúp nhiệt tình của ông - và ông Aksoy - tôi vẫn không cảm thấy mình biết gì nhiều. Có lẽ Vlad Dracula đã hóa thân thành một cái gì đó ở Istanbul sau khi ch.ết, nhưng làm sao chúng ta có thể tìm ra xem liệu hắn chỉ từng được chôn ở đây hay vẫn đang nằm dưới mồ ở đây? Đối với tôi, điều đó vẫn còn là một bí mật. Cho đến lúc chúng ta tiến hành bước kế tiếp, tôi chỉ có thể nói với ông là chúng tôi sẽ đi Budapest một vài ngày.’
“ ‘Budapest?’ Cha hầu như có thể thấy rõ những suy đoán đang dồn dập hiện ra trên gương mặt to bè của ông.
“ ‘Đúng vậy. Ông còn nhớ câu chuyện về mẹ cô Helen và giáo sư Rossi - cha cô ấy không? Helen chắc rằng mẹ cô có thể có những thông tin cần thiết đối với chúng tôi, những thông tin mà Helen chưa bao giờ hỏi đến, vì vậy chúng tôi sẽ đích thân nói chuyện với bà ấy. Bác của Helen là một nhân vật quan trọng trong chính quyền và sẽ thu xếp chuyện đó, chúng tôi hy vọng như vậy.’
“ ‘À, là vậy.’ Ông ta gần như mỉm cười. ‘Ơn trời vì chúng ta có những người bạn quyền chức. Khi nào hai người đi?’
“ ‘Có lẽ là mai hoặc ngày kia. Tôi nghĩ chúng tôi sẽ ở đó năm, sáu ngày rồi quay trở lại đây.’
“ ‘Tốt lắm. Và các bạn nên mang thứ này theo.’ Turgut đột ngột đứng dậy, lấy trong tủ ra bộ đồ nghề săn ma cà rồng mà hôm qua đã cho chúng ta xem. Ông ta đặt nó ngay ngắn trước mặt cha.
“ ‘Nhưng nó là một trong những báu vật của ông mà,’ cha phản đối. ‘Vả lại, có thể chúng không qua được cửa hải quan đâu.’
“ ‘Ồ, anh đừng bao giờ trưng nó ra với hải quan chứ. Các bạn phải giấu nó thật cẩn thận. Hãy kiểm tr.a lại va li xem có thể giấu vào đâu đó hay không, hoặc tốt hơn là để cô Rossi mang nó. Họ sẽ không xét kỹ hành lý của phụ nữ đâu.’ Ông ta gật đầu động viên cha. ‘Tôi sẽ chẳng thể an tâm nếu anh không mang nó theo. Trong thời gian anh ở Budapest, tôi sẽ xem qua thêm nhiều sách cổ khác để cố giúp anh, nhưng có một điều chắc chắn là anh sắp phải săn tìm một con quỷ. Còn giờ thì anh hãy cất nó vào cặp xách đi - gọn nhẹ mà.’ Cha im lặng cầm lấy hộp gỗ đó, xếp nó cạnh cuốn sách có hình con rồng. ‘Và trong thời gian anh nói chuyện với mẹ của Helen, tôi sẽ sục sạo thêm quanh đây để truy tìm những dấu vết khả dĩ về ngôi mộ đó. Tôi chưa từ bỏ ý kiến đó đâu.’ Ông ta nhíu mắt. ‘Việc đó sẽ giúp giải thích rõ hơn về những dịch bệnh đã nguyền rủa thành phố này từ thời kỳ mà chúng ta đã đề cập. Nếu chúng ta không thể giải thích mà chấm dứt chúng thì…’
“Đúng lúc đó thì cửa phòng làm việc bật mở, bà Bora ló đầu vào mời chúng ta dùng bữa trưa. Đó là một bữa ăn ngon giống như bữa ăn mà chúng ta đã ăn ngày hôm trước ở đó, nhưng cũng là một bữa ăn khá u sầu. Helen im lặng và có vẻ mệt mỏi, bà Bora phục vụ với thái độ hòa nhã nhưng cũng yên lặng không nói gì, còn ông Erozan, dù đã ngồi dậy được để cùng ăn với chúng ta, nhưng không ăn được nhiều. Tuy nhiên, bà Bora đã cho ông ta uống khá nhiều rượu vang đỏ, và ăn một ít thịt, trông ông ta có vẻ đã hồi phục phần nào. Ngay cả Turgut cũng có vẻ như nhụt chí và buồn bã. Helen và cha lịch sự cáo từ ngay khi có thể.
“Turgut tiễn Helen và cha ra khỏi nhà và bắt tay từ giã nồng nhiệt như thường lệ, nhắc chúng ta điện thoại cho ông ngay khi có được kế hoạch cụ thể cho chuyến đi Budapest và tỏ ý mong được đón tiếp chúng ta trở về. Đoạn ông gật đầu rồi vỗ vỗ vào cặp xách của cha. Cha gật đầu đáp trả, ra dấu với Helen là sẽ giải thích với cô sau. Turgut đứng vẫy tay cho đến khi hàng dương và đoan đã che khuất ông, rồi chúng ta không còn nhìn thấy ông ta nữa. Ngay lúc đó, Helen mệt mỏi quàng lấy tay cha. Không khí thoảng mùi tử đinh hương, và trong khoảnh khắc, trên con đường xám xịt yên tĩnh đó, bước đi trong những vệt nắng mờ bụi, cha bỗng tưởng rằng mình đang đi nghỉ ở Paris.”
Chú thích:
1. Aquitaine: khu vực miền Tây Nam nước Pháp, bao gồm các hạt hành chính như Dordogne, Gironde, Landes, Lot-et- Garonne, và Pyrénées-Atlantiques. Thủ phủ của khu vực là thành phố Bordeaux; dân số: 2.795.800 (1990); diện tích: 41.308 kilomet vuông. Thời Aquitaine: ám chỉ thời kỳ khu vực này thuộc quyền cai trị của Anh khi nữ Công tước Eleanor xứ này (Eleanor of Aquitaine) kết hôn với vua Henry II nước Anh (1154-1189).