Chương 29: Cụp đuôi mà chạy
Xèo!
Thanh Hà Tử chỉ thấy bên cạnh có ánh sáng xanh lóe lên, Lôi Dẫn Phù viết bằng máu định dùng để đánh ch.ết Đỗ Thải Hà nháy mắt hóa thành một trận khói xám, hoàn toàn bị thanh quang quái dị chôn vùi.
Thế nhưng, điều quái dị còn ở phía sau.
Ánh sáng xanh đang lao thẳng, đột nhiên bẻ ngoặt một cái, nháy mắt đổi hướng bắn thẳng đến mặt Thanh Hà Tử. Lão chỉ kịp kêu “ối” một cái, hụp đầu né vội.
Đầu thì giữ lại, nhưng đạo quan, phân nửa bộ tóc trán và một lớp da đầu mỏng đã bị thanh quang gọt mất.
“Thanh Sắc thần quang!?”
Thanh Hà Tử nuốt nước bọt, hoảng sợ nhìn về phía Tạ Thiên Hoa.
Hắn coi như là cao tầng ở Long Hổ sơn, tự nhiên là biết thần thông bản mệnh Thanh Sắc thần quang của tộc Thanh Tước đáng sợ đến bậc nào.
Tạ Thiên Hoa phủi áo, hừ lạnh:
“Nghệ không bằng người thì lập tức ra tay diệt khẩu, hèn gì núi Long Hổ dám tự xưng đạo thuật cao thâm. Bội phục. Bội phục.”
Thanh Hà Tử vội vàng lấy một cái mũ vải, chụp lên che cái mảng hói trơ hói trụi trên đầu. Lão nghiến răng nhìn về phía Tạ Thiên Hoa, một bụng căm tức không có nơi nào để trút, cuối cùng nghẹn thành một búng máu ở cổ.
Phụt.
Lão đạo sĩ lại phun một ngụm máu đỏ lòm ra, bấy giờ mới thấy lồng ngực dễ chịu một chút. Lão gằn từng chữ một, nói:
“Cô nương. Cô chửi lão phu thì được, chứ không được nhục mạ bản môn.”
“Buồn cười. Lão già nhà ngươi ra ngoài, chẳng nhẽ chưa từng vỗ ngực tự xưng là chân nhân của Long Hổ sơn? Bây giờ nhà ngươi trước là vô sỉ bội tín, kế là dám chơi không dám chịu, cuối cùng là lấy lớn hϊế͙p͙ nhỏ, chẳng nhẽ không phải do Long Hổ sơn dạy dỗ bất lực?”
Tạ Thiên Hoa nói đến đây, ngừng một chốc, đoạn cười:
“Hay chân nhân đây muốn nói thực chất trên dưới Long Hổ sơn cũng rặt cá mè một lứa với nhau?”
Lý Thanh Vân và Đỗ Thải Hà nghe đến chỗ này, đồng thời phì cười. Hàm ý trong câu nói ban nãy thực ra rất đơn giản: nếu không phải Long Hổ sơn dạy dỗ Thanh Hà Tử có sơ hở, thì có nghĩa nhà dột từ nóc, bản thân hành vi của lão đạo sĩ ném vào trong núi Long Hổ cũng chẳng coi là chuyện gì to tát.
Thanh Hà Tử nghẹn giọng, tức giận “hừ” lạnh một cái, nói:
“Hôm nay bần đạo tài không bằng người, nhưng phản đồ kia ắt phải theo ta về núi Long Hổ chịu tội. Đây là chuyện nội bộ của Đạo môn, tộc Thanh Tước chẳng nhẽ cũng muốn xen vào hay sao?”
“Thiên Hoa tạm thời đã rời khỏi tộc, chuyện nó làm không đại biểu được cho Lục Trúc Hải. Thế nhưng... cho dù là như thế, thì tên mũi trâu nhà ngươi làm gì được nó?”
Tiếng nói lèm nhèm đầy hơi men được một tràng cười ha hả hộ tống truyền vào trong miếu.
Ba sư huynh muội Lý Thanh Vân vội vàng nghển cổ, nhìn về phía phát ra tiếng nói, thì đã thấy Tạ Hàn Thiên đứng chồm hỗm trên nóc chính điện từ bao giờ. Y tung mình, nhẹ nhàng đáp xuống trước mặt Thanh Hà Tử,
“Huống hồ... ai nói đây không phải chuyện của Thiên Hoa? Ba đứa nó cùng bái một một vị cao nhân tuyệt thế làm thầy, các người muốn giết sư muội của nó, làm sư tỷ há lại có chuyện đứng yên mà nhìn?”
“Các hạ cho rằng dựng lên một tên ‘cao nhân’ chẳng biết từ xó nào chui ra là có thể dọa được Long Hổ sơn ta?”
Thanh Hà tử không chịu phục, nhướn mày, đáp trả.
Hắn thấy sư phụ của Đỗ Thải Hà cùng lắm là có chút kiến giải độc đáo về trận pháp, thế nên mới có thể nhân lúc hắn khinh địch thừa cơ cướp một trận thắng, song cũng chỉ đến thế mà thôi.
Bằng không, ban nãy Tạ Thiên Hoa phá huyết phù của hắn sao lại không dùng công phu bản môn, mà phải dựa vào Thanh Sắc thần quang?
Tạ Hàn Thiên cười lạnh, nói:
“Tên mũi trâu, nhà ngươi cho rằng mình là cái thá gì mà Tạ Hàn Thiên này phải bịa chuyện?”
Sau đó, cũng không chờ Thanh Hà Tử chấn vấn, Tạ Hàn Thiên vung tay lên, lấy trong nhẫn chứa đồ ra một thanh kiếm gỗ đào. Kiếm này rõ ràng là một thứ pháp bảo đỉnh cấp, nhưng hiện giờ đạo vận đã cực kỳ mờ nhạt, cơ hồ lúc nào cũng có thể rơi xuống thành một thanh kiếm gỗ mục nát tầm thường bán đầy ngoài chợ. Bấy giờ, nhận ra Thanh Hà Tử có khí tức đạo môn, thân kiếm bèn truyền ra một loại cảm xúc uể oải và kiệt sức, giống như đang cầu cứu.
Thần kiếm có linh.
Thanh Hà Tử hít sâu một hoi, hoảng sợ lùi lại một bước. Hắn còn nhớ như in hơn mười năm trước, Thiên Sư trong phái Tiết Bình Thiên ra ngoài đại chiến với Tạ Hàn Thiên, cuối cùng thua trận bỏ chạy. Tiết Bình Thiên sau đó trọng thương mém ch.ết chạy về sơn môn, ngay cả bội kiếm tùy thân Long Ảnh Đào Mộc kiếm cũng bị đoạt mất.
Sau trận đánh đó, Long Hổ sơn dựng hộ tông đại trận, phong sơn hơn ba tháng không một ai dám bén mảng nửa bước chân ra khỏi núi. Trên từ thiên sư, dưới đến đạo đồng, đều nơm nớp sợ hãi Tạ Hàn Thiên chủ động tìm đến gây sự.
Bây giờ, gã đàn ông tuấn lãng này lại có thể lấy ra một thanh kiếm gỗ đào đã khai linh trí.
Trên đời nào có lắm chuyện trùng hợp như vậy?
Tạ Hàn Thiên cười lạnh, nói:
“Bản tọa vẫn đang chờ thằng ranh họ Tiết đến đòi kiếm đây.”
Nói đoạn, y lại nhướn mày nhìn Thanh Hà Tử, nghiến răng:
“Còn chưa chịu cút?”
Thanh Hà Tử kinh ngạc, không ngờ người được mệnh danh là Tạ Phong Tử (kẻ điên) này lại thả cho mình đi. Lúc này, y nào còn dám ở lại một giây một phút? Chỉ thấy Thanh Hà Tử cuống cuồng bỏ chạy ra khỏi miếu thờ, thậm chí còn quên cả chuyện đạp mây mà đi.
oOo
Lại nói chuyện ở ải Quan Lâm...
“Được rồi. Mấy đứa về nhà đi.”
“Chào thầy!”
Mấy đứa nhỏ lễ phép cúi chào, sau đó hớn hở chạy khỏi lớp, đi lêu lổng quậy phá hay về nhà tu luyện thì chỉ có chúng nó biết với nhau. Nguyễn Đông Thanh vươn vai, uống nốt ấm nước trà pha đặc, lại chẹp miệng tiếc rẻ vì trà nguội ngắt. Nói đoạn, gã lững thững bước ra ngay ngoài cổng trường, quen thuộc kéo một cái ghế ngồi xuống. Chị gái chủ gánh ăn vặt thấy gã thì cười toe toét, lập tức múc lấy một bát bánh trôi nước cho anh chàng.
“Đây. Chị mời. Trời cũng trở lạnh rồi đấy.”
Nguyễn Đông Thanh biết tính chị chủ quán nhiệt tình, không tiện trừ chối, bèn cầm bát lên. Vừa húp một cái, nước đường ngọt thanh pha chút cay cay ấm ấm của gừng lập tức xua tan cái giá rét của ngày cuối thu.
“Bằng giờ này năm ngoái là có tuyết rồi.”
“Mà này, chú xem thế nào chú cách hai ngày dạy một buổi đi. Tháng phải mười lăm hai mươi buổi vào, lớp trẻ thành ta mới nên người được.”
Nghe chị ta nói, Nguyễn Đông Thanh chỉ biết cười trừ theo. Chị chủ quán từ khi được gã giới thiệu cho mô hình “quà vặt cổng trường” này, kiếm đầy bồn đầy bát, chỉ ước sao anh chàng dạy trẻ một tháng hẳn ba mươi ngày thì tốt.
“Cho chục cái bánh.”
Lúc hai người một còn đang nài tăng buổi, một con đang cố từ chối khéo, thì bỗng nhiên có một người thứ ba tiến đến, kéo ghế ngồi xuống bên cạnh Nguyễn Đông Thanh.
Nguyễn Đông Thanh nhìn sang, chỉ thấy người nọ là một thanh niên dáng dấp thư sinh, ăn vận sạch sẽ lịch sự, nếu không phải sĩ tử lên kinh thì cũng hẳn là con nhà cửa quyền phú quý.
“Huynh đài là phu tử ở đây?”
Người nọ cười, chỉ vào căn nhà gỗ chỉ được ba gian phòng be bé mà Nguyễn Đông Thanh được cấp làm trường dạy trẻ.
“Đúng vậy. Các hạ vì sao tự nhiên lại hỏi chuyện đó?”
“Không có gì. Tiểu sinh chỉ không ngờ ở nơi quan ải toàn là mãng phu này lại có thể gặp được người cùng trong chốn cao nhã, cảm thấy vui vẻ, nên muốn mời huynh đài uống một chén rượu cho ấm người mà thôi.”
Thiếu niên cười, sau đó đưa tay lấy ra một cái bình gốm màu trắng, chế tác cực kỳ tinh xảo. Y đưa bình rượu cho chị chủ quán nhờ hâm nóng lại giúp. Chẳng mấy chốc, miệng cái bình sứ đã truyền ra một mùi hương rượu nồng nàn. Thư sinh nọ đưa tay, trước tiên rót một chén mời Nguyễn Đông Thanh, kế lại tự rót một chung cho chính mình.
“Rượu ngon.”
Thư sinh nhấp môi, cười khẽ một cái, sau đó quay sang chỗ Nguyễn Đông Thanh mà hỏi:
“Huynh đài thấy sao?”
“Khó uống.”
Nguyễn Đông Thanh lắc đầu, lè lưỡi. Gã chẳng rõ tên thư sinh khẩu vị ra sao, nhưng thứ “rượu” kia vừa hôi vừa nhớt, lại có mùi tanh lợm giọng như bùn sình lưu cữu cả mấy năm trời. Nếu không phải thấy thư sinh kia rót rượu mời khách một cách kính cẩn như vậy, Nguyễn Đông Thanh chắc chắn không nhấp môi đến lần thứ hai.
Thư sinh trố mắt nhìn, sau đó vội vàng hắng giọng một cái, đầu cúi xuống che giấu ánh nhìn thất thố ban nãy. Y lại cố tình rót một chén khác, đặt bên cạnh Nguyễn Đông Thanh, kế hỏi:
“Tuy rượu này quả thực là tệ, nhưng cảnh này tình này, thiết nghĩ đáng ngâm thơ vịnh phú lắm thay. Không bằng huynh đài cũng ngâm xướng một bài, cũng coi như ghi dấu lần tương hội tình cờ này?”
Khóe miệng Nguyễn Đông Thanh giật một cái, trong lòng thầm chửi tên thư sinh kia.
Ngươi rảnh đến rửng mỡ thì ngủ một giấc đi, chạy đến đây làm cái gì?
Còn đòi thơ? Nguyễn Đông Thanh tự biết sức mình. Hắn mà tự làm được bài thơ nào ông trời không gọi một tiếng “cậu” (1), thì hắn sẽ vung đao tự cung.
(1: biên tập chú thích cho ai chưa hiểu, đây là nói thơ "con cóc" đó, "con cóc là cậu ông trời" mà)
Thế nhưng, tên thư sinh từ đầu đến giờ hành xử cũng khiêm cung lễ phép, lịch sự khiêm nhường. Có câu “tay hung không đánh mặt cười”, bây giờ Nguyễn Đông Thanh muốn chối từ cũng khó.
Cuối cùng, hắn thở dài:
“Tại hạ tài học thô thiển, làm thơ xin miễn cho. Nhưng có đôi câu danh thi của bậc tiền nhân ở đây, xin mượn lời người xưa một phen vậy. Thỉnh các hạ chớ chê cười.”
“Nào dám. Lời ngọc của huynh đài tiểu sinh cầu còn không kịp, sao lại chê cười?”
“Vậy xin mạn phép:
Quan tây biên hướng vạn thiên thiên,
Khiêu tận giang tân kỷ dạng thuyền.
Thương cổ tự tri du thủ lạc,
Lưỡng quân chiến sĩ ngoạ lam yên.”
(Dịch nghĩa:
Lương thực vận ra biên ải phía tây kể hàng ngàn vạn,
Bắt hết các hạng thuyền ở bên sông để chuyên chở.
Bọn lái buôn được cái thú “ngồi rồi”,
Còn chiến sĩ hai quân thì lăn lóc nơi lam chướng mù mịt.)