Chương 5: Điều tra, thẩm vấn

Trong những vở kịch Chekov có nhiều nhân vật trí thức khoái chơi trò dự đoán tương lai. Rằng hai chục năm, ba chục năm, bốn chục năm tới những chuyện gì sẽ xảy ra trên đất nước này. Chắc gì họ dám đoán 40 năm nữa dân Nga sẽ có dịp nếm mùi điều tra, thẩm vấn? Nếu họ lại biết những mục điều tra, thẩm vấn ấy tiến hành như thế nào e rằng kịch Chekov diễn chẳng bao giờ hạ màn nổi bởi lẽ bao nhiêu nhân vật đều điên đầu, phải tống vô Dưỡng trí viện hết!


Ai dám ngờ xương sọ con người lại bị niềng sắt xiết quanh, cứ thế xiết chặt lại? [1] Ai dám ngờ thân thể con người bị lột trần truồng ra thả từ từ ngâm trong bồn át xít?68 Hay treo ngược lên làm mồi cho kiến cắn, rệp hút máu?


Ai dám ngờ hậu môn con người có thể chịu nổi cả một cây tre xóc vô, sau khi đã hun nóng trong lò? Phương pháp “đánh dấu” đặc biệt. Cũng như bộ phận sinh dục đàn ông thì làm sao chịu nổi một bộ máy ép từ từ xiết lại? Có thể nói may mắn mới được hưởng một sự tr.a tấn lai rai. Đại khái cỡ một tuần lễ không cho ngủ, bắt ăn mặn không cho uống nước và ăn đòn ngoài da tới nhừ nát, tả tơi người.


Phải nhìn nhận rằng không riêng nhân vật kịch Chekhov, mà có người dân Nga nào dám tưởng tượng một tương lai u ám, ghê sợ như vậy sẽ chụp lên xã hội Nga, mấy chục năm sau này? Ngay những đảng viên Đảng Lao động Dân chủ Xã hội của những năm đầu Thế kỷ XX ở Nga cũng không thể chấp nhận viễn ảnh hắc ám tới như vậy.


Chế độ Nga hoàng Aleksei Mikahilovich thế kỷ XVII đã bị triều đại Phê-rô đại đế lên án dã man, phi nhân rồi. Đàn áp cỡ một hai chục mạng người như Biron giữa thế kỷ XVIII sang đến triều hoàng hậu Catherine đã bị coi như một thủ đoạn ghê tởm, không thể chấp nhận nổi. Ngờ đâu tất cả đều trở thành vô nghĩa giữa thời đại thăng hoa của nền văn minh là thế kỷ XX, giữa một xã hội xây dựng trên nền tảng Xã hội chủ nghĩa, giữa các con người đã biết thế nào là máy bay, rađiô, phim ảnh.


Lần này không phải thủ đoạn độc tài của cá nhân một gã đại ác, sống thu mình trong cung điện, mặt nào mà là một công trình của hàng chục ngàn con người được huấn luyện chu đáo để lạnh lùng làm công việc đè đầu bóp họng nhiều triệu nạn nhân vô tội.


available on google playdownload on app store


Có phải thảm trạng bộc phát chỉ vì cái di truyền tính mà chúng ta bây giờ mệnh danh là “thần tượng chủ nghĩa”? Thảm trạng đó còn rùng rợn hơn hồi năm 1937, năm chúng ta tổ chức đệ nhất bách chu niên văn hào Pushkin chắc? Có thể nào chúng ta lại trân tráo sắm lại những vai trò Chekhov khi diễn tiến ra sao đã biết cả rồi? Đáng sợ là cả ba chục năm sau có đề cập tới còn bị gạt phắt đi: “Chớ đả động chuyện đó!”. Nhắc đến niềm đau của cả triệu con người là bị lên án “xuyên tạc lịch sử”, nói đến ý nghĩa luân lý đạo đức là bị gán nhãn “phản tiến bộ”.


Hãy nhắc tới những lò than, lò thép những nhà máy cán thép, những con kênh đào. Mà thôi, bỏ kênh đào đi! Hãy nhắc tới số lượng vàng mỏ Kôlyma vậy. Mà bỏ hết đi chớ nhắc lại. Thời buổi này ta có thể nhắc đủ mọi chuyện miễn nhắc cho khéo, “ca” cho hay.


Thật khó lòng hiểu nổi tại sao chúng ta thẳng tay gạt bỏ. Sự Phán xét của Tôn giáo. Đồng ý là đã từng xảy ra nhiều trận Hoả thiêu tàn khốc nhưng bên cạnh đó còn phải kể những công trình tôn kính dân lên Thượng Đế chớ. Cũng như cứ nghe tới chế độ nông nô là chúng ta lên án có biết đâu chẳng ai cấm nông dân làm việc mỗi ngày…cũng như chẳng ai cấm họ lễ Giáng Sinh hát những bài Thánh ca truyền thống và lễ Ba Ngôi đàn bà con gái vẫn có quyền kết vòng hoa mừng Chúa.


*


Nếu hiểu rằng trong ngành điều tra, thẩm vấn năm 1937 là năm đặc biệt của ngụy tạo tội trạng và tr.a tấn thì sai lầm. Không phải vậy. Suốt khoảng thời gian kế tiếp, công tác thẩm vấn chiếu điều 58 Hình Luật, chẳng bao giờ được sử dụng để soi sáng sự thực mà giản dị chỉ là một cung cách máy móc để tiến hành một thủ tục độc hiểm đẻ thằng nào lỡ lọt vô chỉ có cách lạy để xin ra.


Chẳng hạn một kẻ mới đây còn tự do, tính khí hãnh diện bất ngờ bị câu lưu điều tra. Bị thẩm vấn có nghĩa là bị nhét vô, tống đại vô một cái ống dài nghẹt thở, đầy gai góc bên trong. Chịu không nổi, ngất ngư gần ch.ết chỉ lạy lục để xin ra. Hắn sẽ được chui ra ở đầu đằng kia, rất ngoan ngoãn và sẵn sàng làm công dân “quần đảo”.


(Thương hại cho những kẻ còn nghĩ đến việc chống cự lại, cứ tưởng rằng lọt vô đầu ống ấy là có thể ra bằng một ngã nào khác!)


Tình trạng nằm kẹt trong ống như thế nào? Mấy ai đã biết được, lấy đâu ra nhân chứng và càng để lâu lại càng khó lòng thâu góp những tài liệu tản lạc, những câu chuyện thực của những nhân chứng may mắn còn sống sót.


Ngay từ ngày vừa thành lập, các Cơ quan đã được trao các công tác nòng cốt là ngụy tạo hồ sơ. Đó là một cần thiết. Còn phải bắt người thì còn phải “sáng chế” ra tội, còn phải gán ghép để buộc tội vả lại nếu hết đối tượng, Cơ quan hết việc và bị dẹp luôn thì sao?


Nội một hồ sơ Kosyrev [2] cũng đủ để chứng minh tình trạng bấp bênh của Cheka ngay từ năm 1919. Đọc lại mớ tin tức đăng báo năm 1918 tôi bỗng gặp lại bản thông cáo chính thức về một tổ chức ghê gớm vừa được phát giác. Có một nhóm 10 người âm mưu định đặt (xin đừng quên là họ mới định đặt) đại bác lên trên nóc toà nhà đang dùng làm Cô nhi viện để từ dây nã bắn vào điện Cẩm Linh (làm sao kéo nổi đại bác lên trên nóc nhà là vấn đề khác). Có 10 người liên can đến vụ này, kể cả đàn bà và con nít. Bản thông cáo chính thức không nói rõ một khẩu hay mấy khẩu đại bác, súng cỡ nào, lấy ở đâu ra cũng như những chi tiết chuyên môn: kéo nổi đại bác lên thang đâu phải chuyện dễ, đặt sao nổi đại bác trên nóc nhà và nóc nhà dốc như vậy làm sao bắn mà súng không giật?


Đừng quên là lực lượng Cảnh sát Petersburg công khai đặt súng trên nóc nhà để bắn đàn áp cuộc Cách mạng tháng Hai cũng chẳng thể kéo nổi một ổ súng nào nặng hơn đại liên. Vậy mà cũng thành một hồ sơ, nhiều người phải đọc và phải tin là chuyện có thực. Sự ngụy tạo chẳng cần phải căn cứ trên một sự thực nào hết, cũng như hồ sơ vụ án Gumilyv năm 1921 [3] .


Cũng năm 1921 cơ sở Cheka ở Ryazan đã sắp đặt trọn vụ án trí thức địa phương. Vì nhóm này phản ứng quá mạnh, dám có tiếng vang về tận Mạc Tư Khoa nên hồ sơ này phải bỏ ngay. Năm 1921 còn có một vụ động trời: trọn tiểu ban Sapropelite trong Ủy ban Sử dụng Năng lực Thiên nhiên bị mang ra xử bắn [4] . Khỏi cần đào sâu, khai quật lại ta cũng thấy giá trị của Công lý trong vụ án này, xét vì các nhà bác học, khoa học gia Nga hồi đó đâu đã bị “thuốc” bởi chủ nghĩa thi đua hăng say phục vụ.


Nhà bác học Dôyarenkoo ghi nhận lại tình hình 1921 như dưới đây:


Khám tạm ở Lubyanka là nơi tiếp nhận tù mới có khoảng 40 đến 50 giường tre ọp ẹp mà tù phụ nữ thì cứ đêm đêm gởi vô một nhiều. Đám đàn bà con gái đâu biết bị câu lưu vì tội gì nên cứ nghĩ không có tội mà nhà nước muốn bắt vẫn cứ bị. Cả khám tạm chỉ có một người biết tại sao bị vô đây: đó là một nữ đảng viên Đảng Xã hội Cách mạng.


Thông thường đồng chí Yayoda hỏi ngay câu đầu tiên: “Thế nào, tại sao phải vô đây? Về vụ gì?”. Làm như ông Giám đốc Mật vụ muốn bảo thẳng có gì cứ khai ra để cơ quan dễ làm hồ sơ vậy! Năm 1920 cán bộ GPU ở Ryazan cũng chỉ có một câu hỏi đó. Có ai biết mình làm gì để đến nỗi bị bắt? Lý do mỏng manh quá nhưng dù sao cũng phải có một lý do nào đó như trường hợp I.D.T bị Cơ quan cho lệnh câu lưu vì tình nghi tên giả. Sau đó, điều tr.a ra tên ông ta là tên thực thì đương sự bị tạt qua Hội đồng Đặc biệt tức OSO để lãnh án đi đày 3 năm, chiếu khoản 10 điều 58 Hình Luật [5] .


Có trường hợp không biết buộc nạn nhân vào tội gì thẩm vấn viên hỏi gặng: “Anh ở sở làm công việc gì?”. Nghe nạn nhân trả lời: “Kế hoạch gia”, hắn bèn thản nhiên phát biểu: “Vậy anh cứ làm tờ khai nói rõ “kế hoạch gia” làm những gì, công tác tiến hành ra sao. Cứ khai thực rồi tôi sẽ cho hay tại sao anh bị giữ”.


(Dĩ nhiên ông thẩm vấn viên sẽ chiếu bản khai công tác và thế nào cũng tìm ra một “đầu mối” nào đó để buộc tội.)


Nội vụ đã được tạo dựng lên như vụ pháo đài Kovno năm 1912 vậy. Vì thấy để pháo đài không lợi ích gì về quân sự nên cấp trên ra lệnh triệt bỏ. Bộ chỉ huy pháo đài hoảng sợ đã “sắp đặt” cả một vụ tấn công đêm để có lý do “ngồi” lại.


Xét cho cùng ngay từ lý thuyết thì “yếu tố phạm pháp của bị can” đã là cả một vấn đề co giãn rồi chiếu huấn luyện của sếp lớn Cheka M.I. Latsis gởi cho các thẩm vấn viên: “Trong cuộc điều tr.a chớ bận tâm tìm bằng cớ, tang vật chứng tỏ bị can chống đối chế độ, bằng lời nói hay hành động. Trước hết phải hỏi rõ giai cấp nào, gốc gác gì, trình độ học lực đến đâu, thành tích công tác ra sao…(Hãy học tập hồ sơ Sapropelite). Đó mới là những câu hỏi quyết định số phận bị can”. Ngày 13 tháng 11 năm 1920, chính Dzerzhinsky [6] cũng gởi thẳng văn thư đến Cheka tố cáo Cơ quan thường dung dưỡng những lời khai xuyên tạc dối láo.


Mấy chục năm lịch sử chứng minh một điều: đã đi quần đảo là không có về. Trừ đợt sóng ngược chiều nhỏ nhoi, ngắn hạn năm 1939 có nghe nói mấy ai được thả lỏng sau một cuộc điều tra, thẩm vấn? Đã bị điều tr.a thì ghi tống giam luôn cũng chỉ được thả ra để tiện theo dõi! Cơ quan đã điều tr.a có bao giờ nhầm lẫn nên đã bị điều tr.a không thể vô tội được.


Trong tập Danh từ chuyên viên, luật gia đã định nghĩa rành rẽ như sau: “Thẩm vấn phải phân biệt với điều tr.a ở chỗ phải tiến hành thẩm vấn để coi xem có văn bản để mở một cuộc điều tr.a hay không.”


Giản dị chỉ có vậy nhưng nếu thế thì Cơ quan có biết đến thẩm vấn bao giờ! Chỉ cần chiếu một bản danh sách lập sẵn nào đó, từ một điểm nghi ngờ nhỏ nhặt, một báo cáo của chỉ điểm viên hay bất cứ một cáo giác nặc danh nào (!) cũng đủ để Cơ quan cho lệnh câu lưu và sau đó chắc chắn sẽ có bản cáo trạng. Thời gian cần thiết để điều tr.a không nhằm soi sáng một vụ án mà có thể nói 95 phần trăm chỉ cốt làm bị can đau khổ, hết mức chịu đựng, không thể thi gan được nữa, chỉ mong sao “kết thúc” được hồ sơ với bất cứ giá nào.


Ngay từ 1919, các thẩm vấn viên Cheka đều có phương pháp căn bản là đặt khẩu súng sáu trên buya-rô. Phương pháp này chẳng phải áp dụng riêng cho các chính trị phạm mà từ các tội nhỏ, lặt vặt trở đi. Trong vụ án Ủy ban Nhiên liệu năm 1921 nữ bị cáo Makhrovskaya cả quyết lúc điều tr.a đã bị chích cocaine. Chưởng lý Krylenko thản nhiên đáp:


“Bị can khai bị ngược đãi. Bị can có khai là bị họ chĩa súng vào người hăm doạ bắt nhận tội thì cũng khó lòng tin nổi!”


Điều đó cho thấy vụ thẩm vấn viên đặt súng lên buya-rô và lâu lâu chĩa doạ vào người nạn nhân là một sự quá thường. Ông thẩm vấn có thể khỏi thèm nghĩ đến tội trạng mà chỉ nạt nộ một cách máy móc: “Nói đi, khai đi Đừng hòng giấu giếm”. Năm 1927 Skripnikova đã bị, năm 1929 Vitkovsky cũng bị tương tự và 25 năm sau cũng chẳng có gì thay đổi.


Năm 1952 Skripnikova bị câu lưu lần thứ năm nhè đụng đồng chí Sivakov, Trưởng ban Điều tr.a Ty Nội An Ordzhonikidze. Ông thẩm vấn viên nói thẳng:


“Theo lời y sĩ của Ty thì mụ bị áp huyết kém. Có 240/120 thì yếu quá! Để tụi này cho lên cỡ 340 gấp mới chịu khai chắc? Cam đoan không có vụ đánh đập, người ngợm còn y nguyên, một khớp xương không gãy. Chỉ không cho mụ ngủ ít bữa là xong chớ gì.”


Hồi đó Skipnikova đã ngoài 50 tuổi bị lấy cung suốt đêm, sáng ra nằm xà lim vừa chợp mắt ngủ là y như rằng sếp khám nhào vô hét lớn dựng dậy:


“Cấm ngủ! Mụ còn nhắm mắt lần nữa sẽ bị lôi đầu khỏi ghế bố, trói đứng lên dựa vách.”


Từ 1921, đã có nạn điều tra, lấy cung ban đêm. Cũng năm đó Ty Nội An Ryazan bắt đầu áp dụng phương pháp chiếu đèn pha vào mắt các bị can. Năm 1927 Lubyanka bắt đầu xài phương pháp nóng lạnh tối tân nghĩa là bơm hơi lạnh vào xà lim cho lạnh cứng người rồi sau đó thổi hơi nóng vô tiếp liền. Theo nhân chứng Berta Gandal thì Lubyanka có một phòng đặc biệt dành riêng cho vụ hấp người thật kín. Ngoài Berta, nạn nhân của phòng hấp còn có nhà thơ Klyuyev, nhà cách mạng Vasily A. Kasyanôv (bị tống giam sau cuộc khởi nghĩa 1918).


Phòng hấp chật hẹp, không có lỗ thông hơi nên thổi hơi nóng vô một lát thì máu trong người sôi lên, ứa ra đầy lỗ chân lông. Phòng điều tr.a cử người xuống nhòm lỗ hổng canh chừng sẵn thấy nạn nhân vừa ngất đi là cho “băng ca” xuống khiêng lên ký vào bản tự thú.


Các phương pháp nóng, lạnh và muối được sử dụng tối đa trong vụ án này. Năm 1926, Nội An Georgia có mục dí đầu thuốc lá đang cháy dở vào mấy đầu ngón tay bị can. Khám đường Metekhi có mục nửa đêm xách cổ can nhân liệng vô hồ nước.


Để lập cho xong bản cung từ buộc tội, với bất cứ giá nào thì làm sao tránh được hăm doạ, bạo hành, tr.a tấn? Tội trạng càng lạ thì tr.a tấn càng dữ, mới có thể bật ra bản tự thú. Xét vì phần đông toàn những tội, “dựng đứng” nên bắt buộc phải tr.a tấn, không riêng gì giai đoạn 1937 mà sau này còn phổ biến lâu dài. Vì vậy mới khó hiểu tại sao những hồi ký của mấy tay Zek lại ghi nhận: Từ mùa Xuân năm 1938 trở đi, các thẩm vấn viên toàn quyền tr.a tấn” [7] . Sau này họ quen tay đến không bỏ nổi, bằng không trong mấy năm vừa dứt chiến những tờ báo học tập chuyên môn của cơ quan như Tuần san Cheka Kiến Đỏ, Hung thần Đỏ đã chẳng đưa lý luận Mát-xít để mổ xẻ có nên tiếp tục tr.a tấn hay không. Đặt câu hỏi này thì đương nhiên câu trả lời phải là có.


Tuy nhiên muốn cho xác thực thì phải nói rằng trước năm 1938, các thẩm vấn viên chỉ được áp dụng tr.a tấn trong một số trường hợp giới hạn, có ấn định trước và phải thỉnh thị ý kiến thượng cấp. Nghĩa là phải xin phép cấp trên, dù được phép chẳng khó khăn gì! Khoảng hai năm 1937-1938 để đối phó với tình thế đặc biệt (hồi đó hàng triệu con người bị tống vô quần đảo còn phải qua ngả điều tra, thẩm vấn cá nhân trong khoảng thời gian giới hạn…thay vì bị quơ từng đợt đưa đi đày miễn điều tr.a như trong các đợt kulak hay chủng tộc) các thẩm vấn viên được toàn quyền và tùy tiện sử dụng kỹ thuật tr.a tấn của họ chiếu theo “quô-ta” tù và thời gian điều tr.a do cấp trên ấn định. Đó là thời kỳ “bộ môn” tr.a tấn nào cũng được sử dụng, tùy “sáng kiến” thẩm vấn viên.


Năm 1939 chế độ “tự do tr.a tấn” chấm dứt và muốn áp dụng phải xin phép trước và chưa chắc là được. Dĩ nhiên “tr.a tấn” ở đây hiểu theo nghĩa nặng chớ những thủ đoạn lặt vặt vẫn mặc nhiên được sử dụng hàng ngày chẳng hạn như doạ dẫm nạt nộ, tạo áp lực, dỗ ngọt đến quay cho mệt, cấm ngủ, biệt giam. Từ hồi Thế chiến chấm dứt và mấy năm sau có vụ phân loại các bị can (bằng Sắc lệnh) để chỉ định rõ những loại tù mà thẩm vấn viên được phép mạnh tay. Trước hết là những thằng tù quốc gia, gốc Ukraine hay Lithuania, nhất là gặp trường hợp hoạt động có tổ chức (hay nghi ngờ có tổ chức) thì bắt được trong nào phải mạnh tay “khai thác” liền để bắt thêm thật nhiều, thanh toán gốc rễ.


Thí dụ điển hình là vụ Romualdas Skyrius, con trai của Pranus Skyrius người Lithuania, nhóm của hắn có cỡ năm mươi người và năm 1945 bị cáo về tội rải truyền đơn chống chính quyền. Hồi đó Lithuania có ít khám đường quá nên tất cả bị đưa về tống vô một trại giam gần Velsk trong tỉnh Archangel. Nơi đây một số bị tr.a tấn, một số vừa làm quần quật vừa bị thẩm vấn đến chịu không nổi nên trên năm mươi người làm bản tự thú hết! Nhưng chỉ ít lâu sau có tin từ Lithuania đưa sang cho hay những thủ phạm đích thực của vụ rải truyền đơn đã tìm ra, trong nhóm đầu tiên không ai dính dấp hết.


Năm 1950 ở khám dọc đường Kuibyshev, tình cờ tôi có dịp gặp một dân miền Ukraine từng bị nếm đủ mục tr.a tấn buộc phải khai ra bằng hết đồng lõa. Mục tr.a tấn kỳ lạ nhất là tống vô một chiếc hộp đứng, không thể cục cựa mà phải đứng sững suốt ngày đêm. Hắn ta được cấp một cây gậy để chống lên ngũ đỡ, một ngày đúng 4 giờ đồng hồ. Sau chiến tranh, một nhân viên Viện Hàn lâm Khoa học là nữ Bác học Levina cũng bị câu lưu, tr.a tấn chỉ vì có mấy người bạn giao thiệp với bà con họ hàng của bà vợ thứ hai Stalin.


Không phải chờ đến 1937 giá trị bản tự thú mới được công nhận là đích đáng nhất trong các thứ tang vật, bằng cớ. Ngay từ những năm 1920, giá trị của nó đã được đề cao rồi bất quá 1937 chỉ là năm Chưởng lý Vyshinsky cho ra đời bản Huấn từ đặc biệt cho các thẩm vấn viên, ủy viên Công tố. Chúng ta chỉ được biết đến tư tưởng đặc sắc của ông Chưởng lý 20 năm sau, khi Vyshinsky đã xuống chân. Lại chỉ được biết những khoản trích đăng ở các báo, làm như họ mổ xẻ một vấn đề mà ai ai cũng biết cả rồi vậy!


Cái năm rùng rợn đó, Andrei Yanuaryevich Vyshinsky đã sử dụng đến ngôn từ biện chứng mềm dẻo nhất (mềm dẻo đến độ một công dân Xô Viết thời buổi này hay một bộ máy tính điện tử đều không thể chấp nhận một khi không phải là không có phải ra có) để nhấn mạnh trong một bản thuyết trình rất phổ biến trong một vài giới là những kẻ ch.ết rồi chẳng bao giờ nắm được toàn bộ sự thực mà chỉ là sự thực tương đối. Lý luận tiếp theo đó của Vyshinsky thì 2 ngàn năm nay chẳng một luật gia nào dám mạo phạm. Ông ta cho rằng đừng đặt vấn đề sự thực tuyệt đối ở một biên bản điều tr.a hay một bản án không thể có. Chỉ tương đối thực mà thôi!


Đại khái nếu ta ký vào bản án xử bắn một người nào đó thì không thể tin tuyệt đối mà chỉ có thể căn cứ trên một số giả thuyết, hiểu theo một ý nghĩa nào đó để cho rằng ta đã trừng trị một kẻ phạm pháp [8] . Từ đó rút ra kết luận thực tế là tìm tang chứng tuyệt đối làm chi cho vô ích vì bằng cớ, tang chứng bao giờ chẳng tương đối? Mà nhân chứng cũng vậy, họ có thể nay nói thế này mai nói khác như không.


Theo quan điểm Vyshinsky thì chính những yếu tố phạm pháp cũng chỉ là tương đối mà thẩm vấn viên chẳng cần tìm đâu xa, ở ngay văn phòng mình. Khỏi cần bằng cớ, tang chứng, thẩm vấn viên cũng có thể kết thúc hồ sơ không những bằng khả năng chuyên môn mà còn nhờ Đảng tính, nhờ sức mạnh tinh thần, nhờ uy lực cá nhân của mình. Nói rõ ra là sử dụng ưu thế, sức mạnh của một thằng được ăn ngon, ngủ kỹ, không bị tr.a tấn để “đè” bị can. Nếu cần thì sử dụng luôn cả uy lực của một thằng lấy đánh đập, hành hạ người làm sở thích.


Nội dung in như nhau nhưng phải nhìn nhận Huấn từ Vyshinsky dù sao cũng bóng bẩy hơn những chỉ thị của Latsis nhiều. Có điều bóng bẩy và “núp sau lưng biện chứng pháp” đến bao nhiêu chăng nửa thì ông Chưởng lý cũng chẳng thể cãi lại được một sự thực. Đó là viên đạn mà ông Chưởng lý cho lệnh bắn vào người nạn nhân không tương đối chút nào mà vô cùng tuyệt đối!


Cũng như giải thích vòng vo thế nào thì nền tư pháp tiến bộ của Liên Xô cũng đã đi ngược chiều, trở lại thời kỳ trung cổ. In hệt như các tr.a tấn viên thời đó, các thẩm vấn viên, công tố viên và các quan toà của chúng ta đã nghiễm nhiên chấp nhận bản tự thú của bị can, coi như bằng cớ chính yếu của sự phạm pháp [9] .


Thời Trung cổ con người đầu óc còn dã man thô sơ mới nghĩ ra những phương pháp tr.a tấn nặng phần trình diễn: nào căng da, nào cho vào bánh xe quay, nào cho nằm bàn chông, cùm kẹp, dí kềm nung đỏ vào người. Con người thế kỷ XX văn minh hơn nhiều, bao nhiêu hiểu biết rành rẽ về y khoa cũng như những kinh nghiệm ngục tù dày dạn đều được mang ra ứng dụng nhằm giản-dị-hoá tối đa những dụng cụ tr.a tấn lủng củng, cồng kềnh, không thích hợp với lề lối làm việc cả loạt, đại quy mô. Đừng quên rằng có người còn đệ trình cả một luận án tiến sĩ về ứng dụng y khoa và rút kinh nghiệm ngục tù vào công tác tr.a tấn.


Vả lại cũng đừng quên là Stalin vốn là con người biết hết nhưng không bao giờ nói ra hết, buộc bọn đàn em Cộng sự viên phải đoán hiểu coi Lãnh tụ muốn gì. Như một con cáo già, Stalin bao giờ cũng để dành riêng cho mình một lối thoát để nếu cần còn có chỗ rút lui an toàn, để lý luận về “cơn say thành công choáng váng”. Dù sao đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử loài người mới sáng chế ra kế hoạch tr.a tấn tập thể cả triệu con người một lúc nên dù có sức mạnh vạn năng Stalin cũng chưa chắc đã thành công hẳn. Cả triệu con người đâu giống một vài trường hợp lẻ tẻ, lỡ sơ sót để lại một khe hở khiến một luồng phẫn nộ không dự liệu trước bùng nổ rồi cả thế giới cùng hay biết thì sao? Nhất định phải có sẵn một kẻ nào đó lãnh trách nhiệm, hình ảnh Lãnh tụ không thể để lu mờ được.


Cũng như ta chẳng thể ngây thơ đòi hỏi tài liệu cụ thể, một bản danh hiệu liệt kê những cách thức tr.a tấn để các thẩm vấn viên căn cứ vào đó hành sự. Muốn làm sao thì làm. Phòng Điều tr.a Thẩm vấn phải có bổn phận cung cấp đúng hạn, một số bị can đã thú nhận tội xong xuôi. Sử dụng phương pháp nào cũng tốt cả, người thẩm vấn có toàn quyền hành động, miễn trả lời về cái ch.ết của nạn nhân, y sĩ của Cơ quan chớ nên xía vô công tác điều tra. Trái lại giữa các thẩm vấn viên và các y sĩ còn có một sự trao đổi học tập, kinh nghiệm – những kinh nghiệm của những người thành công nhất trên phương diện nghề nghiệp.


Đối lại với cán bộ Cơ quan được đãi ngộ xứng đáng về vật chất: làm đêm, làm mau chóng là có giờ phụ trội, lương lãnh nhiều thêm. Làm dưới năng suất tất nhiên có cảnh cáo, trừng phạt. Ngay mấy ông trưởng Cơ quan cấp tỉnh cũng phải sẵn sàng: có chuyện gì xảy ra là phải chìa tay cho Lãnh tụ coi. Chỗ khó khăn là Lãnh tụ chẳng bao giờ trực tiếp ra lệnh tr.a tấn, cái vụ đó phải mặc nhiên hiểu lấy.


Dĩ nhiên cấp trên biết thủ thế sẵn để có chuyện là phủi tay thì cấp thẩm vấn viên (trừ những ông uống rượu như hũ chìm) hẳn cũng chẳng ngu dại gì để bị “hy sinh”. Họ chỉ khởi sự tà tà, vừa “điều tra” vừa nghe ngóng. Có xuống tay mạnh cũng tránh để lại dấu vết, không thể để những vụ quá hiển nhiên như lòi con mắt, đứt vành tai, gãy vài đốt xương sống hay những vết thâm tím khắp mình mẩy.


Đó là lý do năm 1937 chúng ta không nghe nói đến những phương pháp tr.a tấn áp dụng chung cho tất cả các cơ sở trực thuộc Cơ quan, ngoại trừ phương pháp cấm ngủ. Cùng một Cơ quan mà các thẩm vấn viên có lề lối “làm việc” khác nhau là thường mà [10] .


Lề lối chung của các thẩm vấn viên là hãy cứ nhẹ tay trước đã. Có thể nói là trước nhẹ sau nặng cho chắc ăn. Vả lại sức chịu đựng tr.a tấn của con người khác nhau nhiều quá. Đối với số đông đâu cần phải đưa ra hai món lột da và lò nung kìm kẹp làm chi cho mất công.


Ta thử điểm qua một vài phương pháp giản dị nhất trong các đòn tr.a tấn để “bẻ gãy” nạn nhân mà chắc chắn không lưu lại dấu vết trên thân thể.


Hãy nói những đòn tâm lý trước. Chúng có ảnh hưởng ghê gớm và nhiều khi quyết định đối với những tay-mơ chưa kịp chuẩn bị để nếm mùi tù ngục. Tuy nhiên nhiều tay chỉ vẫn thua chúng ta là thường!


(1) Đòn tâm lý thứ nhất là điều tr.a đêm. Tại sao cần phải dành phần lớn công tác “bẻ gãy” tinh thần một thằng “tội phạm” vào ban đêm? Tại sao từ hồi nào đến giờ Cơ quan chỉ lựa ban đêm để điều tra, thẩm vấn? Giản dị vì dù chưa mất ngủ nhưng nửa đêm bị dựng dậy từ khám lên buya-rô lấy cung là nạn nhân phải ngỡ ngàng, mất tinh thần, đầu óc hết tỉnh táo. Do đó dễ bị hạ hơn.


(2) Đòn thứ hai là dỗ ngọt bằng những lời lẽ, cử chỉ dịu dàng, ve vuốt. Một đòn tối giản dị song vô cùng hiệu nghiệm. Đại khái tội gì giấu giếm, chơi trò “mèo vờn chuột” mãi. Dù có tay-mơ bị can cũng đã được mấy bạn đồng khám rỉ tai cho hay trước để liệu phòng thân. Song ông thẩm vấn viên lý luận nghe được quá: “Bạn biết vô đây thế nào cũng tù rồi, phải không? Cứng đầu chỉ ăn đòn mà ch.ết. Sao bằng biết gì khai hết, kết thúc hồ sơ cho rồi để sớm lãnh án đi đày, bề nào ở Trại Cải tạo cũng còn rộng rãi, khoảng khoát hơn chớ. Sao không ký vô biên bản một cái cho rồi?”.


Hợp lý quá. Thằng nào ký cung mau mau là khôn, nếu hồ sơ không dây dưa đến ai. Ít có lắm.


Nếu nạn nhân có gốc Đảng thì đòn dỗ ngọt sẽ chuyển thành khích tướng. “Cứ cho rằng tình trạng thiếu hụt có thể nói sắp ch.ết đói nữa…nhưng đã người Bôn-xê-vích không lẽ bạn hèn nhát để Đảng và chính phủ phải mang xấu. Đời nào có chuyện đó, phải không? Đúng, vì không muốn có chuyện đó…nên ông quản đốc kho vải gai, sợi gai nhà nước bèn anh hùng gật đầu nhận tội!


(3) Đòn thứ ba là chửi bới văng tục – Dù chẳng hiệu nghiệm mấy nhưng để đối phó với những người trí thức, quen ăn nói lịch sự thì nhất. Tôi biết hai ông tu sĩ bị điều tr.a – và chịu thua cuộc chỉ vì thẩm vấn viên ăn nói tục tĩu, đểu giả quá. Nhất là ông năm 1944 “đụng” một nữ thẩm vấn viên ở Butyrki. Mấy buổi đầu mỗi lần ở phòng Điều tr.a xuống khám ông ta đều hết lời khen: “Ở đây họ thẩm vấn, hỏi cung cũng lịch sự đấy chớ?”. Lần sau cùng ông ta rầu rĩ không buồn nói. Hỏi mãi mới thú nhận đành chịu thua mụ thẩm vấn viên chỉ vì mụ ngồi tréo chân, vắt vẻo và chửi bới nghe tục tĩu thấy ghê quá! Mụ chửi tục tĩu đến nỗi tôi không dám trích một câu ra đây nữa.


(4) Đòn thứ tư là đòn đổi chiến thuật đột ngột. Từ lúc khởi sự hỏi cung, thẩm vấn viên dùng toàn ngôn ngữ, cử chỉ tử tế, thân thiện và hứa hẹn đủ thứ. Đột nhiên hắn thay đổi thái độ, cầm đồ chặn giấy giơ lên hăm doạ, chửi bới: “Đồ khốn kiếp nói láo. Tao cho một phát bể sọ tức thì bây giờ!”. Dứt lời hắn còn xông tới xỉa xói tận mặt, làm như muốn nắm đầu đánh đập tại chỗ vậy. Đòn trở mặt đột ngột rất hiệu nghiệm đối với phụ nữ.


Ngoài ra còn chiến thuật ông Thiện, ông Ác thay phiên nhau lấy cung nạn nhân. Một người ngọt ngào, dịu dàng. Một người thấy mặt là hăm he, nạt nộ… đến độ bị can sắp phải gặp ông Ác đã run rồi! Bèn đợi phiên ông Thiện để thú nhận, ký cung cho xong. Những tội không hề làm cũng nhận luôn!


(5) Đòn thứ năm là hạ nhục làm cho hổ thẹn. Phòng Điều tr.a số 33 của Ty GPU Rostov đặc biệt có dãy hành lang gắn đèn, đặt dưới những khuôn kính. Trước khi được vào phòng, bị can phải nằm đợi ngoài hành lang, mặt úp sấp, đầu không được ngửng lên và tuyệt đối cấm hó hé. Phải đợi như thế năm sáu giờ liền mới được gã lính gác tới vỗ vai, gọi đứng lên vô lấy cung.


Lubyanka còn có chiến thuật đặc biệt là cởi trần truồng nữ bị can, do một nữ giám thị đảm nhận, làm coi như bịnh nhưng sau đó tống vô một xà lim cá nhân chật hẹp. Vách tường có những lỗ nhỏ, bọn lính gác khám đàn ông sẽ ghé mắt coi, cười lên và đua nhau phê bình từng chi tiết đặc sắc trên thân thể bị can. Đòn này khiến nạn nhân hổ thẹn, xuống tinh thần mau lắm.


(6) Đòn thứ sáu cũng nhằm làm bị can hổ thẹn, lúng túng nhưng áp dụng ngược lại như trong trường hợp F.I.V. ở Krasnogorsk từng bị. Một nữ thẩm vấn viên vừa lấy cung hắn vừa thản nhiên thoát y như không có chuyện gì xảy ra. Mụ còn đi tới đi lui, xích lại gần vừa hăm he, vừa dỗ dành “nạn nhân” để khuyến cáo hắn ký cung cho xong. Có thể mụ hứng thú tự ý làm có thể là cả một chiến thuật phô diễn để bị can khó chịu, đành phải nhận bừa. Nếu bị can làm ẩu thì mụ đã sẵn súng, sẵn chuông cấp cứu.


(7) Đòn thứ bảy là hăm doạ kèm theo những hứa hẹn láo. Chẳng hạn như: “Nếu không khai thật sẽ cho đi đảo Solovetsky mất xác. Khai thực là được tự do”. Đó là chiến thuật 1924 nhưng qua năm 1944 phải “văn minh” hơn, chẳng hạn: “Đảo thì nhiều thứ đảo lắm có nơi sướng nơi khổ và đi đâu là do chúng tôi ở đây phân phối. Khai thực ra thì sẽ được tới một chỗ ngon lành. Bướng bỉnh là 25 năm khổ sai, vừa còng tay vừa làm”. Nếu ở Lubyanka sẽ bị doạ đưa đi Lefortovo còn đang ở Lefortovo sẽ bị doạ đưa đi Sukhanovka. “Muốn đưa đi đâu cũng được, dễ quá mà. Dù khổ đến đâu thì khổ, ở đâu cũng quen đấy rồi. Biết đến chỗ lạ…có được như thế này không? Hay lại bị hành hạ một mớ nữa? Thôi thì cái gì cũng nhận đại để được ở lại!


Đòn hăm doạ vô cùng hiệu nghiệm với những người mới được trát mời nhưng chưa có lệnh câu lưu. Chưa vô tù thì còn nhiều thứ mất lắm, cái gì cũng sợ mất. Mất tự do (không biết bữa nay họ có cho về không?). Là mất việc, mất đồ và dám mất cả nhà luôn. Thôi thì họ bảo làm cái gì thì làm lè lẹ cho rồi (kể cả ký giấy chứng nhận) cho khỏi bị đe doạ, mất mát. Chưa vô tù bao giờ đâu biết đến Hình Luật, đâu biết thực giả thế nào khi bị ấn vào mắt mảnh giấy nho nhỏ ghim trước tờ khai. Đại khái… “trước khi lập tờ khai này tôi biết rằng tội làm chứng gian có thể bị Hình Luật phạt đến 5 năm tù”. Sự thực theo điều Hình Luật thì tối đa 2 năm! Hay là “từ chối, không chịu làm chứng có thể bị tới 5 năm” (Điều 92 Hình Luật chỉ dự liệu tối đa 3 tháng tù!). Đó là một trong những mánh lới căn bản của thẩm vấn viên.


(8) Đòn thứ tám là dối láo, gạt gẫm – Bị can nói dối, khai láo là bị trừng trị và Bộ Hình Luật cũng không tha nhưng trái lại thẩm vấn viên thì toàn quyền tha hồ, không ai trách phạt gì hết. Thẩm vấn viên muốn đưa tài liệu nào ra thì đưa, tha hồ giả mạo cả chữ ký của thân nhân, bạn bè bị can mà không hề bị coi như giả mạo mà còn được ca ngợi như một kỹ thuật điều tr.a khéo léo.


Đòn dối láo, gạt gẫm để nạt nộ thân nhân một bị can, buộc họ phải ký tên vô một tờ chứng thì có thể gọi là “đòn ruột của nghề thẩm vấn!”. Chúng tôi biết cả rồi. Tốt hơn hết là mấy người khai thực ra, ký tên đi. Chậm trễ thì hậu quả chỉ một mình hắn lãnh, do chính mấy người tạo nên [11] . Chao ôi, có bà mẹ nào có con bị bắt mà lại nỡ làm cho nó nặng tội thêm chỉ vì một chữ ký của mình bao giờ!


(9) Đòn thứ chín là đòn đánh xéo: Muốn “hạ” một bị can cứng đầu không đánh thẳng vào hắn mà nhè người thương yêu nhất, những người thân thiết nhất của hắn để hướng mũi dùi vô. Hiệu nghiệm tối đa! (Lúc bấy giờ mới thấy tục ngữ xưa không hề sai: “Hại được một người là chính những người thân, trong gia đình hắn!).


Chắc bạn đọc chưa quên mẩu chuyện của nhà lãnh tụ sắc dân Tator. Chính mình chịu đựng đủ mọi hình thức tr.a tấn, bà vợ cũng bị bắt “Điều tra” nhưng nhất định không chịu cung khai. Chừng cô con gái cũng bị “thẩm vấn” thì hết chịu nổi. Năm 1930 có một nữ thẩm vấn viên nổi tiếng đắc lực tên Rimalis. Mụ có một câu “tủ” mà hễ đưa ra doạ là không một nữ phạm nhân nào chịu nổi: “Nhất định không chịu khai hả? Tụi tôi bắt con gái chị, tống nó vô xà lim mấy thằng giang mai ráng chịu nghe?”.


Một người bị bắt rồi người thân yêu nhất của mình cũng bị bắt lây là chuyện rất thường, nhưng Cơ quan còn sử dụng cả máy ghi âm để bịp nạn nhân là khác. Chẳng hạn người chồng bị trước, bà vợ dính theo số phận vợ dĩ nhiên tùy thuộc lời khai của chồng. Khi không chợt nghe có tiếng ai giống tiếng nó ở phòng bên, rú lên kinh khủng thì chịu sao nổi? Có phải tiếng nó thực không thì nhận ra sao nổi? Vừa cách bức vách, đầu óc đang bấn loạn thì chẳng thể làm chuyên viên âm thanh! Đó là lý do Cơ quan tiết kiệm nhân lực, cho ghi âm sẵn những lời khóc than, kể lể của một giọng nữ. Hoặc soprano, hoặc contralto sẽ có người mở máy đúng lúc, đúng điệu cần thiết.


Cũng có thể người vợ bị “mời” đến Cơ quan thật để các thẩm vấn viên cho đi diễn trước mặt chồng, qua lần cửa kính. Khốn nạn, có chồng nào chịu nổi cảnh vợ mình bị điệu đi, mặt cúi gầm ngay trong hành lang Mật vụ? Chỉ vì mình không chịu khai mà liên lụy tới nó. Điệu nầy dám nó cũng bị họ bắt rồi!”. Sự thực có khi người vợ không hề bị câu lưu, chỉ bị mời tới và buộc phải đi biểu diễn vài bước đúng lúc, đúng chỗ và làm theo lời nạt nộ: “Biểu đi là đi. Cúi đầu xuống, đi cho ngay ngắn. Nếu không làm đúng cho ở lại đây luôn!”.


Cũng có thể người chồng được dí vô tận mắt một lá thư, rõ ràng nét chữ vợ mình: “Giờ này không vợ chồng gì nữa. Bộ mặt giả của mày đã lòi ra, tao đã biết hết sự thực và bây giờ đường ai nấy đi”. Coi mấy hàng chữ ghê gớm đó thằng chồng nào chịu nổi? Đất nước này thiếu gì cảnh chồng ở tù vợ bỏ…làm sao không tin cho được.


Năm 1944 có một nữ phạm nhân tên Korneyeva bị thẩm vấn viên Goldman khủng bố xéo bằng câu: “Không chịu khai hả? Tịch thu căn nhà luôn, tống cổ mấy con mẹ già ra ngoài đường gấp”. Vốn người có tín ngưỡng, tính tình cứng cỏi Korneyeva không sợ cho bản thân mình nhưng những lời hăm doạ của ông thẩm vấn viên cụ thể quá, những vụ đuổi nhà tương tự đã thấy nhiều quá nên bị can đâm rét, thương hại cho “mấy con mẹ già sắp bị tống cổ ra đường”. Nàng còn hối hận chỉ vì mình mà cả nhà vạ lây nhưng nội đêm hôm đó bản cung từ làm đi làm lại 3 lần là cả 3 lần phải xé bỏ.


Sáng hôm sau, Goldman làm bản cung từ thứ 4 buộc tội riêng một mình nàng, Korneyeva mới chịu đặt bút ký một cách vui vẻ và với cảm giác chiến thắng lớn.


Đã chịu thẩm vấn thì có oan cũng không cãi được, dù bị oan ức thì bản năng con người xưa nay là phải cãi cho bằng được. Nhưng cãi sao nổi, có được quyền cãi đâu. Chỉ được quyền nhận tội, nhiều khi còn mừng vì được nhận hết tội về mình [12] .


Trong ngành điều tra, thẩm vấn nếu cho là có sự khác biệt giữa những đòn tâm lý và những phương pháp (tr.a tấn) cụ thể thì có thể sắp xếp 9 thủ đoạn nêu trên vào loại “tâm lý” nhưng theo tôi không dễ gì phân biệt, dù những trò chơi sau đây vẫn có thể được liệt vào loại “cụ thể”.


(1) Trò chơi âm thanh. – Nạn nhân phải đứng xa ra 8 mét và bắt buộc phải lặp lại tất cả những tiếng, những câu mà thẩm vấn viên vừa phát ngôn. Bắt buộc phải la lên, càng lúc càng lớn. Mới nghe tưởng dễ nhưng thực sự vô cùng mệt mỏi nhất là đang bị giam điều tr.a gần ngất ngư. Cũng có lúc hai ông thẩm vấn viên bắc loa kề vào hai bên tai nạn nhân đột ngột hét lớn:


“Khai đi. Khai mau, đồ khốn kiếp!”. Chỉ một lát sau là tai ù ù, điếc đặc vô cùng khó chịu. Tuy nhiên trò chơi này coi bộ phí người, phí của nên cán bộ thẩm vấn có “sáng kiến” kinh tế hơn.


(2) Trò chơi “ngoáy mũi.” – Đây rõ ràng là một trò giải trí. Nạn nhân bị trói cứng, bắt đứng dựng lên để một người thò một sợi lông gà vào lỗ mũi ấn sâu vô rồi cứ thế mà ngoáy. Coi nhẹ nhàng vậy mà nạn nhân quằn quại chịu không nổi vì nghe như mũi bị khoan xoáy thẳng vào óc.


(3) Trò chơi lửa. Trò này dễ hiểu và đã nói ở trên.


(4) Trò chơi ánh sáng. – Nạn nhân bị bắt đứng hay ngồi trong một cái hộp sơn trắng toát để “chịu” một ngọn đèn pha cực sáng chiếu thẳng vô mắt, không ngừng một giây (trong khi gia đình nào cũng được khuyến cáo phải tiết kiệm điện). Mở mắt chịu không nổi, nhắm mắt lại cũng đau sưng vù hai mí mắt đành phải mở ra chịu ánh đèn rọi.


(5) Trò chơi xách tới xách lui. – Đây đúng là một trò chơi mới lạ. Nửa đêm sáng ngày Lễ Lao động 1.5 năm 1933 ở Ty GPU Khabarovak, bị can Chabotarayev là nạn nhân của trò “xách tới xách lui” không làm gì cả trong 12 giờ đồng hồ liền! Đang nằm dưới khám bị lính gác vô nắm đầu, hét lớn: “Chabotarayev, đứng dậy, đi lên lấy cung mau. Tay đưa sau lưng”. Bị đẩy đi hối hả, leo thang bước vô phòng Điều tra. Ông thẩm vấn viên không thèm hỏi tới một câu, không cho ngồi mà kêu lính gác vô, vắn tắt ra lệnh: “Đưa thằng này về xà lim 107. Trở về khám chưa kịp nằm đã lại “Chabotarayev đâu? Lên lấy cung mau”. Gã lính gác vừa ra thì thẩm vấn viên lại: “Đưa về xà lim 107”.


Cứ vậy nạn nhân bị “hành” xách tới xách lui cho đến lúc mệt đừ mới được vô lấy cung thực sự.


(6) Trò chơi nén cứng. – Đúng vậy, nạn nhân của trò chơi này quả bị nén cứng, kể cả về thân thể lẫn tinh thần. Đang tự do bị tống giam bất ngờ con người ai chẳng giao động, sẵn sàng vùng vẫy lên tiếng cãi, giải thích? Nhưng hắn bị “đóng hộp” ngay tức khắc trong một xà lim cá nhân có khi có đèn sáng và còn có một chỗ ngồi. Nhưng phần đông bị nén cứng trong một “cát-xô” tối mò, đặc biệt xây theo cách buộc bị can phải đứng, chỉ có thể đứng ép sát vào cửa. Bị nén vài giờ, nửa ngày hay một ngày không chừng… đầu óc dĩ nhiên hoang mang, chẳng biết chứa cái gì trong đầu… đâm sợ phải đứng mãi trong chiếc “quan tài xi măng” đến mãn đời. Từ hồi nào đã bị cảnh “dồn nén” thế này đâu? Tinh thần cực kỳ giao động, “dồn nén” thực sự nên không đoán hiểu nổi chuyện gì sắp xảy ra. Có thể nói nạn nhân bị dồn ép tinh thần dồn dập đến phát ngẩn ngơ. Như vậy là vừa “chín mùi” để kêu lên điều tra. Người nóng tính thì bị “dồn nén” quá đâm uất ức, cáu kỉnh sẵn sàng gây gổ, gắt gỏng với cả thẩm vấn viên. Càng tốt! Càng nóng nảy càng dễ hố và “thua trí”.


(7) Trò chơi ngồi ngất ngưởng.- Thiếu “hộp”, thiếu cát-xô cá nhân thì NKVD ở Novocherkassk sáng chế ra trò ngồi ngất ngưởng. Bị can Yelena Strutinskaya bị buộc ngồi trên một chiếc ghế đầu thấp đặt chính giữa hành lang không thể tựa hay chống đỡ chỗ nào được hết. Không được ngủ, không té nổi nhưng đứng dậy là cấm. Phải ngồi 6 ngày liền. Bạn ráng thử ngồi 6 giờ coi!


Nếu ngồi ghế cao lênh khênh như ở mấy ba rượu, chân tuyệt đối không chấm đất thì thời gian được rút ngắn. Còn từ 8 giờ tới 10 giờ liên tiếp. Nhưng ngồi một chỗ, không được cử động máu tê chồn ê ẩm người, không dễ gì chịu đựng!


Trò chơi ngồi thứ 3 chỉ được sử dụng lúc thẩm vấn. Bị can bắt buộc phải ngồi mép ghế, ngồi mím một chút không có chỗ tựa tay, trước mặt thẩm vấn viên. Hắn luôn mồm hối: “Xích tới, tới nữa. Gần sát lại đây. Cấm cục cựa!”. Trò ngồi mép ghế cung khai kéo năm bảy ngày liên sức nặng dồn ép xuống bàn toạ nạn nhân chịu sao thấu?


(8) Trò chơi đào giếng. – Một đơn vị đi hành quân đâu phải lúc nào cũng mang sẵn theo “đồ nghề” để trang trị nạn nhân? Do đó, trò chơi “đào giếng” rất thịnh hành ở trại quân Gorokhovets hồi Thế chiến II. Một cái giếng sâu 2 mét, rộng cỡ mét rưỡi đào giữa trời để tống nạn nhân xuống: ngày đêm ở dưới đó, ăn uống ỉa đái cũng một chỗ. Mỗi ngày có sợi dây thòng xuống 300 gam bánh mì, một ca nước. Cứ thế mà chịu đựng ít lâu thử coi.


Vì nhu cầu chiến trường giống nhau và cũng có lệnh cho các Phòng An ninh, Tình báo đơn vị nên chỗ nào cũng thấy trò “đào giếng”. Năm 1941, Sư đoàn 36 BB cơ giới hoá dự trận Khalkhin Gol hạ trại giữa sa mạc Mông Cổ. Một tù binh vừa bị bắt, ông Trưởng phòng An ninh SĐ tên Samulyev không nói không rằng, thản nhiên liệng cho hắn một cái xẻng bắt đào một cái hố ngang dọc in hệt một huyệt chôn người (vừa hành hạ thể xác vừa gây xúc động tâm lý tối đa). Chừng đào huyệt sâu gần đến cổ được lệnh nhảy vô hố và ngồi thụp xuống là khỏi nhìn thấy gì hết. Một gã lính gác như vậy có thể canh được nhiều huyệt nhờ khoảng trống an toàn [13] .


Tù nhân bị giam dưới huyệt giữa khoảng trống sa mạc mênh mông, mưa nắng không che, đêm không có áo ấm nên cần gì phải hành hạ, tr.a tấn cho phí sức, tốn công? Thiên nhiên “hành hạ” không đủ ch.ết sao? Huống hồ khẩu phần hàng ngày ăn chỉ có 100 gam bánh mì và uống chỉ độc nhất một ly nước? Trung úy Chulpenyev là một võ sĩ, người đồ sộ từng bị nhốt huyệt trọn một tháng. Mới được 10 ngày đã đầy chấy và rận. Mãi 15 ngày sau mới được gọi lên thẩm vấn lần thứ nhất.


(9) Trò chơi quỳ gối. – Quỳ gối để thẩm vấn khác quỳ gối cầu nguyện ở chỗ không được phép quỳ “chiếu lệ” mà cấm ngồi lên gót chân, lưng thẳng đứng. Quỳ ngoài hành lang hay trong phòng còn tùy cũng như thời gian quỳ có thể là 12 giờ, 24 giờ hay 48 giờ liên tiếp. Bị can cứ quỳ gối đúng chỗ, đúng giờ trong khi thẩm vấn viên có quyền về nhà ăn ngủ, du hí. Thay phiên nhau mà! Cộng tác canh chừng còn thiếu gì lính gác đảm nhận, chia ca nhau.


Thiếu gì tay vô nghề Thẩm vấn viên bằng công tác rất khiêm nhượng là canh chừng bọn quỳ gối? Nhiều ông lên chức rất cao, con cái nuôi nấng đàng hoàng!


Để đầu hàng trò chơi quỳ gối này nhất là những ông gần quỵ, chỉ nhấn một chút xíu thêm cũng đủ và giới phụ nữ. Một trường hợp do Ivanov – Razumnik kể lại: một thiếu niên tên Lordkipanidze còn bị ông thẩm vấn viên thình lình “tố” thêm một mục ngoại chương trình là thản nhiên đái vô mặt. Bị quỳ gối lãnh một sỉ nhục nặng như vậy nên dù có gan góc cùng độ. Lordkipanidze cũng đành chịu đầu hàng luôn, đành cung khai cho xong.


(10) Trò chơi đứng. – Trò chơi này nhàm chán ở chỗ bị can bắt buộc phải đứng ngay, đứng nguyên một chỗ. Bị đứng giữa lúc khai cung hay xen vào giữa những lần thẩm vấn đều mệt như nhau cả, dễ gục cả. Thời gian đứng kéo dài tùy tiện: lính gác chia phiên nhau canh chừng, đứng không ngay hay dựa vô vách hoặc buồn ngủ quá Gulag các ngài té tha hồ đấm đá trừng trị. Một trò chơi thật tầm thường nhưng nhiều khi chỉ đứng chưa trọn một ngày đã mất hết tinh thần, thẩm vấn viên bảo ký nhận bất cứ cái gì cũng mau mau ký cho rồi. Chỉ để khỏi phải đứng!


Tuy nhiên có nhiều người chống cự trò chơi đứng rất hay, đứng vài ba ngày liền như không. Do đó phải kèm thêm một mục trợ lực nữa, chẳng hạn như cúp nước. Còn thẩm cung là còn chịu khát!


Tình trạng đó cho thấy một điều: muốn đạt hậu quả tối đa chỉ việc tổng hợp những đòn tâm lý và những phương pháp cụ thể. Dưới đây là liệt kê một số mánh lới thẩm vấn tổng hợp.


(1) Căn bản là cấm ngủ. Chuyên viên tr.a tấn thời xưa quả chưa biết đến phương pháp này mà họ cũng không ngờ chỉ cấm ngủ mà tinh thần con người suy sụp mau và tàn tệ tới vậy. Cấm ngủ đã không thể chịu nổi, huống hồ còn tùy trường hợp cộng thêm vô những mục bổ túc như bắt đứng, chiếu đèn, khủng bố tinh thần v.v…


Con người mất ngủ hết còn là con người vì hết sáng suốt, nửa tỉnh nửa mê, bao nhiêu tinh thần và sáng suốt bay đi đâu mất hết.


Nhân vật nữ trong vở “Tôi Muốn Ngủ” của Chekov cũng đã đau khổ vì mất ngủ nhưng dù sao còn ráng cầm cự nổi vì còn được chợp mắt chút đỉnh. Đầu óc con người chỉ cần một phút cũng đủ lấy lại sự tỉnh táo, quân bình!


Đang thiếu ngủ muốn gục bất cứ lúc nào thì đầu óc mù mịt, còn sáng suốt đâu để mà nhìn vào bản cung từ để biết được nó nói gì [14] .


Thông thường thẩm vấn viên sẽ khởi sự bằng câu: “Anh đâu chịu khai thực? Chưa khai thực thì chưa được ngủ. Có vậy thôi!”. Để hành hạ cho nạn nhân đau khổ nữa thì thay vì bắt đứng, nạn nhân bị bắt buộc phải ngồi thẳng thắn trên một tấm nệm thật êm cho thèm ngủ nữa. Gã lính canh sẽ đứng một bên, vừa thấy nạn nhân buồn ngủ quá díu mắt lại là bung một đá cho tỉnh táo!


Dưới đây là cảm giác của một nạn nhân từng nằm vài ngày trong một cái “hộp” đầy rệp kể lại sau khi chịu đựng màn nói trên:


“Mất máu quá nhiều nên người tôi lạnh toát. Hai con mắt khô rang muốn bật ra ngoài như bị ai kê chiếc bàn ủi nung đỏ tận mắt. Khát nước quá độ lưỡi sưng phồng lên và cứ khẽ đụng đến là đau nhói như bị lông nhím cắm vô. Ôi chao, cổ họng vừa toan nuốt lập tức đau quằn quại [15] .”


Cấm ngủ là đòn tr.a tấn thần sầu nhất ở chỗ nó không lưu lại một dấu tích gì, chẳng thể căn cứ vào đâu để đưa ra trình, khiếu nại với Ủy ban Thanh tr.a Khám đường [16] . Ngay ngày mai nhân viên Ủy ban tới khám xét cũng tuyệt đối chẳng sợ! Giả thử có kêu nài sẽ được trả lời gọn gàng: “Ủa, họ cấm anh ngủ hả? Ồ, có gì lạ nào? Đây đâu phải trại nghỉ hè. Anh không ngủ thì người canh gác anh cũng vậy chớ?”. Dĩ nhiên họ không ngủ đêm nay thì mai họ ngủ bù tha hồ!


Đó là lý do phương pháp cấm ngủ được kể là đòn ruột của Cơ quan, từ một phương pháp tr.a tấn trở thành một trong những lề lối làm ăn của Bộ Nội An, bất cứ một khám câu lưu điều tr.a nào cũng phải áp dụng và đã áp dụng là bị can khỏi mong chợp mắt đến một phút. (Xét cho cùng phương pháp này đỡ tốn tiền, đỡ tốn nhân lực vào bậc nhất!).


Ở khám đường Sukhanovka cũng như nhiều khám chuyên giam cứu, bao nhiêu ghế bố đều xếp dựa tường để ban ngày gấp lên còn ở những nơi khác thì tuyệt đối cấm nằm đến ngồi nhắm mắt cũng bị cấm triệt để. Vả lại con người ta quen ngủ đêm rồi mà đêm phải thẩm vấn, ngày cấm ngủ thì chịu sao nổi 5 ngày 5 đêm liền? Cũng may thẩm vấn viên cũng là công chức, không lẽ làm luôn cả đêm thứ bảy, Chúa nhật, do đó còn đỡ được 2 đêm.


(2) Có lẽ nhận ra chỗ “sơ sót” đó, Cơ quan bèn sửa chữa bằng phương pháp thẩm vấn dây chuyền, ba bốn ê-kíp thẩm vấn viên thay phiên nhau điều tr.a liên tục không ngừng nghỉ.


(3) Đừng để lung lạc tinh thần bị can, yếu tố rệp rất đáng kể. Vách xà lim bằng cây, ẩm thấp tối tăm dơ dáy họ nhà rệp tự do sinh sôi nảy nở ở thứ ván hàng trăm hàng ngàn con. Bị can đã vô xà lim chỉ được mặc áo thun quần sà lỏn nên rệp đánh hơi thấy cấp kỳ, từ vách chui ra từ trên trần thả xuống. Thường thường bị rệp đốt đau quá bị can mới đầu còn phản ứng, chà xát, đè ép tiêu diệt được ít con nhưng chỉ ít giờ sau mệt mỏi quá đành nằm thiếp đi để cho chúng mặc tình hút máu.


(4) Đã vào tù thằng nào không sợ nằm “cát-xô”? Nằm cát-xô là ở tù thêm một tăng nữa, là bị tống xuống địa ngục so với thiên đường là phòng giam chung. Con người bị trừng trị trong cát-xô thì chỉ đói và rét cũng đủ ch.ết. Ở khám Lefortovo hành lang có lò sưởi ấm, nhưng cát-xô dĩ nhiên không: tù nằm co ro với áo thun và quần xà lỏn trong xà lim tê cóng, lính canh đi lại ngoài hành lang ấm áp mà còn phải vớ lên, giày cao cổ và áo nhồi bông.


Nằm “cát-xô” đã có luật: ít nhất cũng khỏi đi lại (cấm cố) trơ trọi một mình (biệt giam) áo quần cởi bỏ hết và nhịn ăn. Ít nhất cũng cấm cố từ hai đến năm ngày và kể từ ngày thứ ba trở đi mới được cung cấp chút cháo nóng. Tưởng cực khổ, đói rét cỡ đó thì con người ta không thể chống cự nổi, nhất là trong những giờ đầu tiên nằm cát-xô. Nào ngờ cầm cự dai dẳng cũng qua được ngày thứ năm nhưng rất có thể dính một chứng bệnh gì đeo đẳng cả đời người.


Gọi là “cát-xô” trừng trị nên ngoài vụ bỏ đói, bỏ lạnh Cơ quan còn bổ túc thêm bằng một mục xối nước lạnh, bắt ngâm chân vô chậu nước đá. Nạn nhân Marsha G. bị ngâm nước đá hai giờ trong khám Chebotaryev ở khám tạm GPU Khabarovsk năm 1933. Nạn nhân bị cởi trần truồng, nhét vô bồn xi măng chật cứng, nửa nằm nửa ngồi co quắp như con tôm, không còn chỗ để cựa quậy. Sau đó thẩm vấn viên mở vòi nước cho chảy từ từ xuống người làm nạn nhân chịu được 24 giờ là ch.ết ngất. Chở băng ca vô nhà thương, chích đủ thứ thuốc hồi sinh, thoa bóp mãi mới cứu tỉnh nhưng Chebotaryev một tháng sau vẫn còn ngơ ngẩn thất thần, muốn lấy cung cũng không được. Mười sáu năm sau vào năm 1949 một người quen của tôi ở Dnepropetrovsk cũng bị nhét vô bồn tương tự, chỉ trừ mục vặn vòi nước.


(6) Cũng như đòn cấm ngủ. Cơ quan còn một phương pháp “tủ” là bỏ đói bị can nghĩa là “áp lực bao tử” cho đến khi nạn nhân phải cung khai. Thông thường khẩu phần hàng ngày của tù nhân có thể thay đổi nhiều ít tùy từng nơi, tùy từng lúc. Năm 1933 chỉ có 300 gam bánh mì nhưng Lubyanka năm 1945 được 450 gam. Ngoài ra còn có đồ thăm nuôi gia đình gởi vô hay mua ở Câu lạc bộ nhưng chế độ này bị gạt bỏ ngay nếu cần phải bỏ đói để điều tra. Như bị can Chulpenyev trọn một tháng mỗi ngày chỉ được 80 gam bánh khẩu phần, tống xuống giếng cạn rồi cho lên để thẩm vấn viên Sokol điều tr.a bằng cách bày ra trước mắt một hũ phó-mát thơm lừng và nửa ổ bánh mì thật ngon, xắt xéo quyến rũ. Giản dị, cổ điển thế đó nhưng vô cùng độc ác. Không ngờ đòn tâm lý dã man này từng xài dưới thời trung cổ nay sống lại dưới chế độ xã hội chủ nghĩa!


Chebotaryev từng bị nhiều đòn một lúc. Đại khái 72 giờ đồng hồ lên khai cung không được làm gì ngoài việc đi tiêu đi tiểu. Nhịn đói nhịn khát dù kế bên sờ sờ một bình nước thật ngon. Dĩ nhiên nhịn ngủ vì 3 ông thẩm vấn viên thay phiên nhau làm việc: một ông cắm cúi viết không thèm nhìn bị can, một ông nằm ngủ trên đi-văng, một ông đi lại quanh phòng, thấy ngủ gục là đập. Vai trò cứ thế là đổi. Làm như cả 3 ông cũng ngán, không lấy cung xong thì chính họ cũng bị trừng phạt vậy.


Chịu không nổi Chebotaryev đành nhận khai. Lúc bấy giờ được mang tận miệng cả một khay thức ăn: 1 hũ phó-mát, 1 miếng sườn ram, dĩa khoai tây chiên, một bình rượu chát đỏ. Cả đời hắn không uống một giọt rượu mà thẩm vấn viên cũng không ép, sợ hư việc. Chừng ăn xong được chìa ra một bản cung từ. “Ăn uống xong rồi, ký cung đi. Bản cung tôi lập, rõ ràng có hai nhân chứng kia”. Đúng, một ông thẩm vấn viên tự ý viết cung, một nhân chứng lại đi quanh phòng canh ngủ gục, nhân chứng kia nằm ngủ trên đi-văng.


Ngay ở trang đầu bản cung từ, Chebotaryev mới hay là mình “có liên lạc chặt chẽ với tất cả các tướng lãnh đang cầm quyền bên Nhựt và đã được họ mướn làm gián điệp”. Đọc tiếp mấy trang sau hắn lấy viết gạch tuốt, không chịu ký. Hắn đâu có uống rượu mà say. Lập tức lại ăn đòn như mưa!


Dù sao cũng còn hơn trường hợp của Blaginin, bạn đồng sự với hắn ở Công ty Thiết lộ Viễn Đông – Trung Quốc. Cũng bị bắt chung vụ, cũng được đãi ngộ tương tự nhưng Blaginin không nhịn được đã nhậu hết bình rượu chát. Có rượu vô hắn say mèm ký cung tức khắc và bị xử bắn cũng cấp kỳ. (Khốn nạn, một ly rượu nhỏ cũng đủ ch.ết người huống hồ trọn một bình của Cơ quan!).


(6) Tuy nhiên để tr.a tấn vẫn không gì hiệu nghiệm bằng đánh đập. Dĩ nhiên vấn đề quan trọng là không để lại một chút dấu vết nên Cơ quan sáng chế nhiều món đồ nghề thích hợp: gậy cao su, thước mỏng, bao cát. Hay là gót giày của ông thẩm vấn viên lâu lâu giộng vào ống quyển đau điếng để bao nhiêu năm sau còn nhớ. Như Lữ đoàn trưởng Karpunich Braven bị ăn đòn 21 ngày liền mà “ba mươi năm sau xương cốt vẫn còn đau rần và đầu còn nhức nhối”.


Theo kinh nghiệm của Braven thì nội mục đánh người NKVD cũng có tới 52 kiểu khác nhau. Riêng kiểu đặt hai bàn tay lên bàn để lấy thước gõ công cốc vào những đốt xương cũng đủ để nạn nhân rú lên kinh khủng. (Dĩ nhiên phải để ra ngoài đòn nhổ răng [17] mà Braven từng phải chịu đựng mất 8 chiếc!).


Trong thân thể con người có chỗ nào dễ thấm đòn lại tìm không ra dấu vết cho bằng chỗ ức, nhất là giộng một cú đấm giữa hai hơi thở. Ông đại tá Sidorov ở khám Lefotovo hồi hậu chiến nổi danh về cú đá phạt, mũi giày không bao giờ hụt bộ phận sinh dục của thằng bị can! Cầu thủ đá banh bị một trái vô dạ dưới cũng đã ngất xỉu huống hồ lãnh trái phạt đúng boong! Trong mọi ngón đòn, cú đá của ông Đại tá đau nhất! [18]


(7) Ty NKVD Novorossisk nổi tiếng có dấu vết lưu niệm mà tù Trại Cải tạo nhìn vô biết ngay. Họ đặc biệt sáng chế ra một bộ máy chuyên môn chỉ để bóc móng tay nạn nhân vô cùng hữu hiệu lúc lấy cung.


(8) Nếu cần, còn đòn bó giò cho cả người nạn nhân cứng ngắc như một cây gỗ. Và nếu xài đòn uốn ván thì xương sống lưng bị can có thể bẻ cong đến gãy như ở Ty GPU Khabarovsk năm 1933.


(9) Khó chịu hơn cả phải kể đòn bó ngược, sáng chế độc đáo của khám Sukhanovka mà thẩm vấn viên Ivkov mang phổ biến ở trại Archengel năm 1940. Nạn nhân được đặt nằm sấp, một đoạn cây dài bằng vải bện cột “hàm thiếc” vắt ngược qua vai cột cứng với gót chân. Sợi dây được ngắn dần xương sống nạn nhân cong ngược lên. Cứ nằm thế, hai ngày hai đêm nhịn đói nhịn khát.


Kể sơ ra cũng có bằng ấy đòn. Có cần kể thêm nữa, mà có còn để mà kể không? Có còn đòn nào mà những con người thẩm vấn viên nhàn hạ, ăn ngon mặc tốt và không tim đó không nghĩ ra không?


Hỡi ôi, xin bạn đừng trách móc, oán hờn những người đã lọt vào vòng điều tra, thẩm vấn và chịu không nổi đành phải phun ra nhiều hơn sự thực. Xin bạn đừng là người đầu tiên lăng nhục lên án họ.


Nhưng thôi. Nói cho cùng để hành hạ mấy con cừu non ngất ngư vừa rời ổ, chỉ mong sao trở về nguyên vẹn thì đâu cần đến kìm kẹp sắt thép! Đại đa số khỏi cần đến một đòn nhẹ nhất. Đã lọt vô Cơ quan, vào phòng Điều tr.a là hết hồn, là phập phồng như lạc sang rừng già Phi châu với muôn ngàn nỗi hiểm nguy. Có ngờ đâu ghê gớm vậy.


Hãy cứ nói trường anh có thằng bạn thân tên A., tin nhau lắm và lâu lâu gặp nhau một lần có quyền tha hồ mổ xẻ các vấn đề chính trị lớn nhỏ không ai nghe lọt, chẳng ai đoán biết và chính các anh đâu có hành hạ tố cáo nhau bao giờ.


Bỗng nhiên, một hôm vì một lý do nào đó anh bị xách cổ đi và bị câu lưu. Chẳng có người cáo giác, chẳng phải anh lo cho gia đình hay sợ bị cấm ngủ hoặc nhốt cát-xô, tự nhiên anh cảm thấy trước sau thế nào cũng phải khai cung nhưng nhất quyết không làm cho một ai vạ lây, với bất cứ giá nào.


Anh lập cung từ lấy, đủ 4 mẫu tờ khai nghĩa là 4 tờ tự thú có ký tên đàng hoàng, tự gán cho mình tội chống đối nhà nước Xô Viết mà chứng cớ đại khái là ưa nhạo báng Lãnh tụ, chê bầu cử thiếu tự do, đi bầu phá hoại ngầm bằng cách gạch bỏ tên ông ứng cử viên duy nhất trên lá phiếu (dù trong phòng phiếu lọ mực vẫn còn đủ để viết)…hoặc có chiếc rađiô tình cờ có làn sóng ngắn 16 mét có thể bắt được vài mẩu tin của các đài Tây phương xen kẽ những làn sóng phá đài.


Vậy kể như anh có chắc bản án 10 năm mà xương sườn còn nguyên vẹn, chưa bị sưng phổi, chưa đến nỗi khai bậy cho ai. Thế là anh có quyền nghĩ mình khai khôn ngoan chán, anh còn dám chắc với mấy người bạn cùng xà lim là hồ sơ của anh sắp kết thúc đến nơi. Coi, nếu anh tưởng vậy thì hố đấy!


Vì còn tờ khai thứ 5 mà. Tờ khai thứ 5 ông thẩm vấn viên tự tay nắn nót điền vô bản mẫu vừa ngắm nghía tuồng chữ của mình. Hắn lơ là hỏi: “Anh thân với thằng A. không?. (Tên gã bạn thân của anh đó?)”. Anh trả lời: “Có”. Nhưng “Anh có thảo luận chính trị với nó không?”. Thì dĩ nhiên phải: “Không, chưa đủ tin tưởng”. “Hai người gặp nhau thường chớ?”. “Đâu có. Thỉnh thoảng”. “Thỉnh thoảng là thế nào? Có phải như hàng xóm anh báo cáo nó đến nhà anh chơi ngày ấy… ngày ấy… tháng rồi không? Có đúng những ngày ấy không?”. “Dạ, có thể đúng!”.


Ông thẩm vấn viên gục đầu cho ra thêm một số sự kiện: “Có thể thôi. Chớ không phải những lần gặp gỡ ấy các anh không bao giờ uống rượu, không nghe nhạc ồn ào, các anh chỉ nói nho nhỏ đủ nghe, đứng ngoài hành lang không thể biết bàn bạc chuyện gì hả?”. Ôi chao, biết có ngày bị hỏi thế này thà ăn nhậu tưng bừng, đập phá tùm lum, la hét ầm ĩ lại đỡ bị nghi ngờ! Ủa, như vậy có sao không ạ?”. “Khoan… Anh cũng nhiều lần đến nhà nó phải không? Hai người hôm trước còn điện thoại cho nhau mà. Hai người nói gì chúng tôi biết cả. Các anh nhắc lại buổi gặp gỡ chiều tối hôm trước chớ gì? Các anh đứng ở ngã tư nói chuyện tới nửa giờ, mặt hai người cùng rầu rĩ, bất mãn, rõ. Anh có cần coi tấm hình chụp đúng lúc ấy không? Người cứ khai thực hai người thảo luận những gì?”.


Thì ra, thảo luận những gì mới là căn bản của vấn đề! Anh có gì để thảo luận đâu nên phản ứng đầu tiên của anh chắc chắn sẽ là: “Tôi không nhớ. Tôi quên. Tôi nghĩ là có gì đâu mà phải nhớ.” Quên lần 1 cùng 2 chớ ai cho phép anh quên một lúc tất cả mọi cuộc thảo luật? Còn những vụ gặp gỡ thằng B, thằng C, thằng D nữa. Anh không thể tiếp tục mãi: “Quên, tôi quên hết cả”. Chính anh cũng thừa biết chẳng ai chịu tin một sự “đãng trí” ghê gớm vậy.


Anh vừa bị bắt tinh thần hốt hoảng lại nơm nớp ngán những mục tr.a tấn, nên là người có học dĩ nhiên trong đầu óc anh sẽ nảy ra một giải pháp chống đỡ. Thôi thì nghĩ đai ra một số câu trả lời có thể tin được, có thể đấu trí lại thẩm vấn viên là xong chớ gì.


Biết cung khai thảo luận những gì đây? Hai người bàn chuyện đá banh thì hay nhất. Chuyện đàn bà, con gái cũng được. Hoặc chuyện khoa học cũng còn được. Dễ nhớ dễ khai và nhất là dễ tin dù nói chuyện khoa học sơ hở một chút là buột miệng cho ra những “tin tức cấm phổ biến” mà đụng tới là vướng Sắc luật Tiết lộ Bí mật Nhà nước dễ như chơi.


À, phải tỉnh táo nhớ tránh trước những chỗ gai góc, mà hôm nào đó anh có thể đã thảo luận thật sự. Chẳng hạn báo tin cho nhau hay: “Hồi này bắt dữ quá” hoặc than “Mậu dịch càng ngày càng thu mua rẻ” hoặc bàn tán chuyện nông trường tập thể (dĩ nhiên “bàn tán” là phải công kích vì nông trường tập thể có cái gì tốt đẹp bao giờ?). Phải đặc biệt để ý tài liệu mà giải thích khoản “nửa giờ hai người đứng nói chuyện ở ngã tư” và thảo luận những gì mà “hai người cùng rầu rĩ, bất mãn”.


Đừng quên là thằng A. bạn anh có thể bị vồ thật rồi, dù trăm lần như một thẩm vấn viên bao giờ cũng cả quyết chắc chắn A. còn bị trước anh, nó đã khai đầy đủ cho anh và nếu muốn sẽ cho 2 đứa đối chất tức khắc. Anh đâm hoảng: “Không hiểu A đã bị vồ thật, nó đã khai thật ra chưa? Nó đang nằm phây phây ở nhà hay lát nữa đây sẽ bị kêu vô đối chất và té ra nó cung khai khác hẳn anh về cái vụ thảo luận nửa giờ ở ngã tư rầu rĩ, bất mãn?”.


Chao ôi, ai dè sự đời biến chuyển thế này: Không lẽ mỗi lần gặp gỡ một thằng bạn chuyện trò lại phải rắp tâm nhớ mình đã nói những gì và trước khi từ biệt lại phải dặn dò nhau sẵn có ai hỏi đến thì phải trả lời như thế này, thế này? Nếu chuẩn bị kỹ vậy đó thì chẳng sợ gì thẩm vấn, cung khai và đối chất! Bằng không thì có hai người thảo luận mà mỗi người khai một cách khác hẳn nhau thì chỉ gây rắc rối, thay vì gỡ ra lại thắt chặt thêm. Một câu trả lời sai, sẽ kéo theo mười lần ngờ vực vô cùng nguy hiểm


Hay là mình sử dụng trí thông minh, khai gần cận, tương tự với sự thực và khai cóc nhảy, tránh né trước những điểm khúc khuỷu, nguy hiểm. Tục ngữ chẳng có câu: “Thằng nói dóc cừ nhất là nói dóc sát sự thực để người nghe tưởng là sự thực” đó sao? May ra có đối chất thằng A. sẽ đoán ra được mình muốn nó khai như thế nào để đạt tới một trùng hợp tối đa và do đó, cả 2 thằng có thể thoát nạn!


Mấy năm sau mới biết mình dại, tin ở sự sáng suốt của một thằng ngốc. Cứ tưởng nó như mình nào ngờ nó quên phứt, không nhớ nổi ngày hôm đó làm gì, dù quên là có thể ăn đòn đau! Nhưng thời gian nằm điều tr.a đêm đâu có cho phép suy nghĩ. Cả ba ngày chịu đựng là tinh thần mất hết, nhất là đang lấy cung lại bị một hai ông thẩm vấn viên ở phòng bên chạy sang nồ góp, không biết trời trăng gì cũng sủa chõ vô: “Xạo, khai thực ra. Bữa đó thảo luận những gì? Mấy người bàn tán với nhau những gì?”.


Bàn tán? Nhớ ra rồi, tụi tôi hôm đó có than thở với nhau về sinh hoạt nông trường, hồi này Mậu dịch giá thu mua thấp quá. Vì vậy tụi tôi rầu rĩ, bất mãn. (Chớ không lẽ bán giá quá rẻ lại hoan nghênh?).


Có vậy thôi, nhưng ở bên cung từ ông thẩm vấn viên thản nhiên “chuyển ngữ” thành: “Trong buổi thảo luận, chúng tôi đã đả kích chính sách lương bổng của Đảng và nhà nước”.


Tội trạng đả kích Đảng và nhà nước nghe ghê quá. Nhưng trớ trêu ở chỗ ít lâu sau có dịp gặp thằng A. trong tù là bi nó đả kích: “Tại sao mày nói nhăng nói càn kỳ cục vậy? Tao khai bữa đó mình bàn nh ân sủng đi câu cá nhè mày khai thảo luận” Cái mới đau!


Thực tế cho thấy rõ rằng mấy ông trí thức vô phòng Điều tr.a là thua thằng thất học, thua đau. Thân danh có học thì có cung khai phải cung khai cho gãy gọn, đi từ đầu đến đuôi có mạch lạc đàng hoàng chớ đâu thể ấp úng như thằng điếm vô học trong kịch Chekov? Vẫn biết những tội trạng cung khai ra hoàn toàn bị cưỡng ép chấp nhận cả một sự bịa đặt nhưng cũng phân phối sắp xếp sao đó cho hiểu lý chớ? Trong khi đó thẩm vấn viên – đồ tể chẳng cói lý ra gì. Chỉ cần “bắt” một hai câu để căn cứ vào đó buộc tội là đủ rồi!


Trong xã hội này người có học là người từng được huấn luyện, được tập dượt trước để thích ứng với hoàn cảnh xã hội, nghề nghiệp. Đi quân dịch phải thế nào, những nhu cầu xác thịt giải quyết thế nào cho đúng. Cư xử thế nào cho chững chạc, nghệ thuật thế nào là hay là đẹp. Nhưng chừng kẹt vô một hoàn cảnh sống ch.ết, gay go nhất đời là bị câu lưu thẩm vấn thì học lực, giáo dục, kinh nghiệm chẳng giúp ích được quái gì hết. Không gì trớ trêu bằng phải coi kịch, coi phim, đọc sách để cho vai trò nhân đạo của quý ông “Cố vấn pháp luật” biện hộ cho nạn nhân trong lúc lấy cung. Biết bao nhiêu lý thuyết cao siêu được viện dẫn ra, sắp xếp rất đẹp, nhưng có ông Cố vấn nào giải thích được cho ta hiểu ý nghĩa đích thực, co giãn của chính Bộ Hình Luật? (Mấy đấng tác giả phim kịch hay sách nói trên cứ tống vô Trại Cải tạo là có dịp mở mắt biết liền! Chao ôi, có phải lúc nào cũng chìa ra một cuốn sách Luật được đâu? Luật sư lại càng là một sự xa vời quá!


Xét ra chẳng có gì vô hiệu bằng nói chuyện luật pháp, điều này điều nọ ở buya-rô ông thẩm vấn viên. Với họ chỉ có ký tên vô bản cung hay là ký vô đây – Ký đâu được, tôi đâu có tội gì. – Cứ ký đi, tội gì rồi biết. – Phải cho tôi biết tội trạng đã chớ. – Muốn biết hả? Nghe đây – anh bị khép vào mục 2 của khoản 10 điều 58 và khoản 11 điều 58 của Bộ Hình Luật Cộng Hoà Liên Xô. Chịu chưa? – Ký đi”.


Bị can còn đòi hỏi đọc rõ các điều khoản thì ông thẩm vấn viên sẽ nạt nộ, kiếm đủ mọi cách để gạt phắt và sau cùng sẽ kết thúc bằng một “bài học” bất hủ:


“Muốn coi luật? Hà hà. Luật pháp làm ra là để cho tụi tôi áp dụng trên đầu mấy người coi làm gì kìa? Mấy người khỏi cần. Điều ấy khoản ấy dĩ nhiên nhằm để trừng phạt chính cái tội của mấy người, còn hỏi nữa thôi? Biểu ký là ký cho mau cho lẹ.


Nên nhớ chữ kỹ của mấy người ở dưới bản cung từ đâu có nghĩa là mấy người đã đồng ý về tội trạng như đã nêu. Nó chỉ có giá trị minh chánh là cung từ đã được đọc, đã đưa cho mấy người coi. Vậy đủ chưa?”


Giữa lúc ông thẩm vấn viên vung vẩy chìa khoá cung khai vào tận mặt thì nếu tinh mắt bị can chắc chắn sẽ nhận ra những hàng chữ tắt xuất hiện nhiều lần trong bản cung từ. Ít nhất cũng có UK và UPK tên tắt của hai thứ luật. Một là Bộ Hình Luật (UK) và hai là Bộ Hình sự Tố tụng (UPK) để nhà nước tùy tiện áp dụng mà người nhà nước không có bổn phận giải thích luật pháp, chỉ cần đọc lên mấy chữ tắt.


Mười năm trôi qua rồi thấm thoát mười lăm năm cỏ đã mọc xanh rì trên nấm mộ của thời hoa niên của tôi. Hết án đi đày, tôi trở về nơi cư trú không hơn đi đày bao nhiêu để thấu hiểu sự thực này: ở bao nhiêu “khu giáo dục văn hoá” trong trại, trong bao nhiêu thư viện lớn nhỏ có bao giờ tôi được dịp ngó thấy, sờ tay vô một Bộ Hình Luật của Cộng hoà Liên Xô? Mua không ra, mượn không được, hỏi cũng không thấy luôn [19] .


Bạn tù của tôi kể đến mấy trăm người. Ai chẳng từng nếm mùi điều tra, ra toà nhiều người còn hơn một lần bị tống vô Trại Cải tạo hay đưa đi đày nữa nhưng có một ai được hân hạnh nhìn mặt hay sờ vào Bộ Hình Luật bao giờ. Chao ôi, mãi đến 35 năm sau khi chúng ra đời, đang sửa soạn bị thay thế tình cờ tôi mới vớ được nguyên cặp Hình luật và Hình sự Tố tụng nằm bên nhau như hai anh em song sinh ở một sạp báo nhà ga xe điện hầm Mạc Tư Khoa. Phải chăng chúng lạc hậu, sắp sửa thành phế thải rồi mới được phổ biến?


Lần giở lại mấy trang sách Luật, tôi không khỏi ngao ngán. Chẳng hạn Bộ Hình sự Tố tụng có điều 136 ghi rõ ràng: “Thẩm vấn viên không có quyền bắt nghi can cung khai hay thú nhận bằng những phương pháp áp lực, đe doạ”. Làm như Hình luật cũng tiên liệu sẵn những mánh lới đe doạ của các ông thẩm vấn viên.


Điều 111 Hình sự Tố tụng buộc thẩm vấn viên phải “giúp đỡ” các nghi can, thấy điểm nào có thể gỡ tội, làm nhẹ tội được cho họ là phải làm liền. Nhưng thực tế thì có công với chế độ, làm cách mạng cướp chính quyền, tự tay bắn Kolchak, truất hữu bọn kulak… là tôi cũng còn kể bỏ. Chưa kể đến tiết kiệm cho nhà nước 10 triệu rúp, cộng thêm 2 chiến thương, 3 huy chương ông thẩm vấn viên hét vào tai tôi: “Tất cả những cái đó vô nghĩa!”.


Điều 139 Hình sự Tố tụng nói rõ nghi can có quyền tự tay viết lấy cung, nếu thẩm vấn viên làm thì có quyền buộc cho coi lại và yêu cầu sửa nếu thấy sai lầm. Ai đã từng bị điều tra, thẩm vấn đều không lạ gì năn nỉ gãy lưỡi cũng cứ là “cố tình phát ngôn xuyên tạc” thay vì “nói bậy”. Một con dao rỉ sét cũng có thể là “tang vật thuộc kho vũ khí bí mật”!


Phải chi có chút kinh nghiệm tù ngục thì nạn nhân không bao giờ dám ỉ i, coi nhẹ bản cung. Chừng biết ra thì hối hết kịp! Vì vậy đợt tù bị bắt lại năm 1948 có đứa nào được hỏi cung? Làm sao “gài” nổi những thằng quá nhiều kinh nghiệm?


Còn gì hài hước bằng trông chờ sự giúp đỡ của thẩm vấn viên khi chủ trương ngầm của Cơ quan là phải cô lập tối đa các nghi can để gieo hết sức nặng, đè bẹp họ trong thời kỳ để triệt hạ, nhất là vừa lại bắt vô. Không cho gặp bất cứ ai, dù trong xà lim, ngoài hành lang, trên thang lầu hoặc ngay trong phòng điều tra, không thể có cơ hội thông tin có người quen chia sớt chút cảm tình, bằng một cái liếc mắt?


Chiến thuật ruột của Cơ quan còn nhằm gieo cho nạn nhân cảm giác “vô đây là hết hy vọng, hết đường sống”. Nếu có thể còn bịp nạn nhân, làm như cả nhà hắn cũng bị bắt lây và họ đã cung khai hết rồi, có đầy đủ tang chứng…không còn gì để giấu giếm nữa. Thẩm vấn viên sẽ làm như đầy đủ thẩm quyền, làm án hay dung tha để nạn nhân tưởng cung khai ngoan ngoãn có thể được Cơ quan can thiệp giảm án hoặc cho đi đày những chỗ sung sướng, không thể có!


Với Cơ quan thì chỉ cần một hai ngày đầu: bao nhiêu thủ đoạn đều được sử dụng gấp rút, buộc nạn nhân phun càng nhiều bằng cớ càng tốt, khai càng nhiều tên càng hay. Nạn nhân xúc động, tuyệt vọng đến độ nhiều người yêu cầu thẩm vấn viên miễn cho việc đọc lại tờ khai! Không muốn nghe, đọc hết nổi mà chỉ xin được ký, ký cái gì cũng được cho xong. Chừng làm xong cung từ nạn nhân mới hết bị biệt giam, được ra phòng để rầu rĩ nghe các bạn tù kể chuyện và càng thấm thía những sơ hở, khốn nạn, ở hoàn cảnh đó thì có ai khôn ngoan sáng suốt.


Chiến thuật biệt giam người vừa bị bắt bao giờ cũng được Cơ quan sử dụng, trừ trường hợp phòng giam chung thật cứng người, không đủ chỗ. Nhốt riêng sao nổi? Như 2 năm 1937 và 1945 bao nhiêu phòng giam chứa cho đã tù? Tuy nhiên tống vô phòng giam cá hộp cũng có cái lợi là nạn nhân cũng mau mất tinh thần kinh khủng. Nhiều người còn ngán xà lim cá hộp hơn bị tr.a tấn, bởi lẽ bao nhiêu con người chen chúc đã cực khổ, thẩm vấn viên còn kéo dài thời kỳ lấy cung để tù hành hạ tù cũng đủ gần ch.ết. Còn gì khổ cho bằng nạn chen chúc trong những xà lim chỉ đủ chỗ đứng, ngồi là ngồi lên đầu lên cẳng nhau và đi một bước cũng đụng người?


Năm 1945 ở khám giam cứu Kishinev (tên tắt những khám câu lưu điều tr.a này là khám KPZ) có những cát-xô cá nhân bị nhét tới 18 người. Năm 1937 KPZ Lugansk chỉ nhốt có 15 mạng [20] . Theo lời Ivanov-Razumnik thì khám tạm Lubyanka năm 1938 có những xà lim vẫn nhốt 25 người phải nhét tới 140 mạng. Đi tiêu đi tiểu chỉ được đi 1 lần, hoặc đêm hoặc ngày, phải chia ca. Tù đông đến nằm tràn cả lối đi ngoài sân. Tính trung bình 1 mét vuông xà lim phải chứa đủ 3 người, trong mấy tuần lễ liền [21] .


Dân Byturki hoặc Lubyanka quen gọi những xà lim đó là chuồng chó. Gọi xà lim đông mà nhiệt độ trong chuồng từ 40 độ tới 45 độ chỉ vì hơi người. Có thằng nào dám mặc quần áo? Cởi trần mặc xì líp hay xà lỏn còn nóng hầm đổ mồ hôi. Bao nhiêu quần áo lạnh phải cuộn tròn lại ôm khư khư vào bụng. Người đông quá, đứng ngồi “dính” cứng nhau, chỉ vì mồ hôi cọ sát mà thằng nào cũng bị hắc lào (ghẻ lác). Ngồi “đóng hộp” cả vài tuần như vậy, thiếu không khí mà nước uống cũng thiếu, ngoài chén cháo và chút nước trà mỗi sáng.


Nội vấn đề đi cầu cũng là cực hình. Chỉ có một hình thức là ngồi lên thùng, để trong phòng giam cũng khổ mà để ở ngoài chia ca cũng không hơn. Ăn thì bốn người chung nhau một chén, người nọ ngồi trên đầu gối người kia. Giữa cảnh địa ngục đó đêm nào chẳng có vài người bị kêu lên lấy cung và lúc trở về phòng, phải khiêng, người ngợm tơi tả bầm dập. Những người chưa được lấy cung chỉ thấy vậy cũng đủ ớn xương sống. Lúc nào cũng nơm nớp sợ đến phiên mình mà tình trạng chờ đợi lại kéo dài đến vài tháng thì còn tinh thần đâu mà chịu đây? ch.ết ngay còn đỡ khổ huống hồ lãnh bản án đi đày.


Có lẽ vì vậy mà Cơ quan đi đến quyết định chuồng chó trên thực tế có thể hiệu nghiệm hơn biệt giam có khi. Vấn đề hỏi thăm, trao đổi kinh nghiệm giữa bọn tù không đáng kể về người ngồi xếp lớp như vậy biết tin ai ngờ ai, mà dám ngỏ lời tâm sự? Trong khi đó, những thân hình rách nát từ phòng Điều tr.a khiêng xuống lại là bằng chứng cụ thể nhất để những thằng vừa bị bắt phải hiểu là thẩm vấn viên chẳng hăm doạ suông bao giờ!


Vả lại những thằng tù mới còn được những bạn tù cũng trước kể cho nghe những đòn đặc biệt chớ. Bơm nước vô họng rồi để nằm nhịn khát đúng một ngày trời như Karpunich không đáng sợ sao? Lấy lưỡi bào lột da cho rướm máu, rồi xát chất nhựa thông vô như ông Lữ đoàn trưởng Rudolf Pintsov từng nếm mùi liệu chịu nổi không? Nên nhấn mạnh là ông sĩ quan cao cấp này cũng từng nếm qua nước muối và sau đó còn bị kim đâm kẽ móng tay, dội nước lạnh vô người để buộc phải thú nhận có âm mưu đưa cả Lữ đoàn về thủ đô làm loạn thay vì đi diễn binh tháng Mười một.


Đừng tưởng nhân viên cao cấp được nể nang, nhẹ tay [22] . Nặng hơn nhiều! Bằng cớ là Alexandrov nguyên Vụ trưởng Nghệ thuật trong Ủy ban Liên lạc Trao đổi Văn hoá từng ăn đòn Cơ quan tới gãy xương sống, đi lệch một bên người. Hạch nước mắt hư luôn, lúc nào nước mắt cũng có thể trào ra như khóc. Ông nguyên Vụ trưởng được đích thân sếp lớn nhất Bộ Nội An Abakumov lấy cung mà. Có ai ngờ một ông Bộ trưởng thèm làm những công viên “chân tay” như vậy?


Thực ra đồng chí Ủy viên Abavkamov chỉ đích thân “công tác” ở ngay Văn phòng cho thuộc cấp soi gương nhưng người không ngần ngại vác dùi cui cao su khện các nạn nhân. Phần “công tác” còn lại đã có công Phụ tá số một lo nốt.


Phụ tá Nội An Ryumin đặt trụ sở ở khám tạm Sukhanovka, trong căn phòng thẩm vấn đặc biệt mệnh danh Phòng Tướng Lãnh. Phòng trang trí bốn vách bắt chước lối lát cây giẻ, cửa lớn, cửa sổ đều có màn lụa che, sàn trải thảm Ba Tư dày lên mỗi khi có “công tác” sợ dơ dáy phải phủi tấm nệm “làm việc” vấy máu sẵn lên trên! Để tiếp tay, đứng bên ông Phụ tá canh chừng không phải lính gác thứ thường mà là một ông Đại tá.


Theo Alexander D. thì Ryumin có lối vung vẩy cây dùi cui cao su 4 phân đường kính, ăn nói thật lịch sự đàng hoàng:


“Ông bạn đã vô đến đây là từng tốt nghiệp ‘cua’ nhịn ngủ một cách vinh dự [23] . Vậy qua ‘cua’ dùi cui thứ coi. Xin cho hay trước là chưa ai chịu nổi 3 suất. Chỉ 2 là cùng! Bây giờ mời ông bạn cởi quần ra giùm và nằm ngoan ngoãn ở chỗ kia.”


Nạn nhân không ngoan ngoãn nằm sấp không xong vì ông Đại tá đã lẹ làng cưỡi trên lưng để ông Phụ tá vác dùi cui khện đúng huyệt. Cây dùi cui giơ lên hạ ngay tróc hai sợi gân ở bàn toạ phía ngang hông. Alexander D. chưa nếm mùi “dập gân” bao giờ nên cứ tưởng chỉ đau ê ẩm ở đít là cùng. Nào ngờ nằm khám ít lâu, đói ăn khát uống và thiếu ngủ nên bắp thịt bàn toạ biến đâu mất, gân nổi lên và dùi cui giáng xuống là đau thấu, đau tàn nhẫn trên đầu, tưởng muốn bể sọ. Ngay cú đầu tiên đã điên lên được, mười móng tay cắm xuống thảm gãy hết. Phụ tá Ryumin đập đã quen tay, lại được một ông “ba sao” ngồi trên lưng ghìm cứng thì hết sẩy.


Vì vậy ông Phụ tá làm xong công việc thì tội nhân A.D. đi đứng hết nổi. Dĩ nhiên chẳng ai buồn khiêng đi mà nắm chân lôi xềnh xệch. Chỗ mông đít sưng vù đến mặc quần vô không nổi nhưng hoàn toàn không có một vết sẹo. Về đến cát-xô, A.D. lập tức đi cầu như suối, ngồi trên thùng phân thiếp luôn.


Vậy mà hắn qua được xuất dùi cui thứ hai rồi thứ ba luôn, dù mông đít bể nát. Ông Phụ tá tức như điên bèn nọc ngửa ra “mưa” dùi cui lên bụng, bất kể dập bụng bể ruột mà kết quả tức khắc là hắn mặc chứng ruột sa. Đến nước này đành phải ngưng thẩm vấn dùi cui. Đó là một bó buộc vì A.D. được đưa vô bệnh xá khám đường Butyrki để chữa gấp chứng bể ruột làm mủ trong bụng.


Cũng đừng tưởng người tu hành, già cả được nương tay. Linh mục Viktor Shipovanikov bị thẩm vấn viên Danilov ở KPZ Kisninev lấy cây gậy quất vô gáy té ngất. Ông linh mục để tóc dài thì túm tóc kéo đi quả thật gọn gàng! Nếu tóc ngắn nắm không tiện thì kéo râu. Nếu không râu, không tóc thì kéo ria cũng được vậy. Đó là trường hợp của Richard Ohola, một Hồng Vệ binh gốc Phần Lan, nổi tiếng có bộ ria rậm đẹp. Hắn bị thẩm vấn viên lấy kìm kẹp cứng một bên ria nhấc thử, rồi kẹp luôn bên kia, nhấc hổng chân lên khỏi đất nghĩa là bị treo ria trong 10 phút đúng. Xin đừng quên Richard Ohola từng nắm một đại đội xung kích dẹp phản loạn trại Kronstadt và được coi là có công đầu trong vụ bắt điệp viên Ăng lê Sidney Reilly.


Tất cả những mục dùi cui, nắm tóc, treo ria đã dữ nhưng theo những tù già kinh nghiệm thì chưa ăn thua gì so với đòn quần đả ác liệt dưới đây mà Cơ quan phải triệu tập khá đông nhân viên tham dự. Hạ sĩ quan phụ tá thì thiếu gì?


Nạn nhân bị cởi quần, lật ngửa người, hai chân giang ra thật rộng. Đám hạ sĩ quan chia nhau kẻ lên đùi, người nắm chặt tay để ông thẩm vấn viên lừ lừ bước tới. Lâu lâu có bà thẩm vấn viên đích thân điều khiển mới ghê! Đang nằm ngửa mặt, chàng hảng bỗng nạn nhân kêu thét thật hãi hùng vì bộ phận sinh dục của hắn bị đầu mũi giày đè lên rồi nhấn xuống từ từ. Bộ phận dễ hư hại nhất trong cơ thể con người bị nghiến giữa mũi giày và sàn gạch, nhịp điệu nặng nhẹ tùy ý thẩm vấn viên. Mắt hắn nhìn chừng vào mắt nạn nhân, không ngừng cật vấn: “Phải vậy không? Có nhận không?”.


Bổn phận thẩm vấn viên là phải “theo dõi” nạn nhân bằng mắt để canh nhấn mũi giày: không nhanh quá mà cũng không nặng quá để 15 giây đồng hồ trước khi đau ngất người, nạn nhân còn kịp la lên: “Tôi chịu rồi. Để tôi khai”. Dĩ nhiên là hắn cũng khai, thú nhận bất kỳ cái gì mà thẩm vấn viên muốn, kể cả 20 tòng phạm tên tuổi được viết sẵn hay ký tên đăng báo chửi lại tất cả những gì hắn từng cho là thiêng liêng nhất.


“Chỉ có Thượng Đế phán xét người không có quyền xét xử người.”


Nhưng thẩm cung, điều tr.a thì con người đã làm như thế đó. Họ đã làm đến mức mà nạn nhân chẳng thể làm gì hơn là nhận tội và than thở cùng nhau, đại khái:


Không khai, không nhận thì không xong. Đành nhận hết cho rồi!
Thôi thì đành chịu (hèn) để giữ lấy thân vậy.
Không ký cung thì răng đâu mà mọc lại nữa? Họ dám lần lượt nhổ hết mà.


Không khai,không nhận thì cũng có tội. Cũng ra toà, cũng đi tù.
Thằng nào không khai chắc chắn bị xử bắn. Đòn thù mà! Đời nào Cơ quan chịu thua và chịu để lộ những mục tr.a tấn cho mọi người hay.


Không ký cung dám ch.ết ngay trong phòng điều tra. Thân nhân chỉ được trả lời: “Đã đi đày. Không có quyền liên lạc thư từ, thăm nuôi. Hết khiếu nại! »


Nếu anh là Đảng viên chính cống thì sẽ có thằng cũng đảng viên chính cống nhưng vô tù trước anh Xán tới bên rĩ tai làm như sợ có thằng không Đảng nghe hóng mất:


“Chúng ta có Đảng. Chúng ta có bổn phận phải chấp nhận và bênh vực điều tra, thẩm vấn. Giai đoạn đấu tranh mà chính chúng ta phải nhận lỗi, chính là chúng ta mềm yếu nên đất nước mới lâm cảnh trạng này. Đồng chí đừng quên là chiến tranh ngấm ngầm mới nguy hiểm, kẻ thù đã xâm nhập tận nơi. Làm sao Đảng có thể xét thấu từng trường hợp cá nhân của chúng ta để giải thích thế này thế nọ? Bổn phận chúng ta phải ký.”


Một đảng viên chính cống khác thú nhận:


“Tôi từng cung khai cho 35 người cả thảy, quen người nào là khai bằng hết. Nên tôi có ý kiến này: Họ bảo khai thì cứ khai tuốt tuốt, khai rõ nhiều tên vào. Nhiều đến mức độ ai cũng thấy là vô lý thì may ra họ cũng cho là vô lý. May ra họ sẽ cho về hết!”


Thực ra Cơ quan chỉ cần có vậy. Quả nhiên lập trường đảng viên và NKVD chỉ là một! Khai càng nhiều người thì cả thẩm vấn viên lẫn Cơ quan cùng có điểm đắc lực, tích cực. “Tổ chức còn những ai khai ra, khai hết ra!”. Khai bọn đồng chí, khai luôn những thằng đồng quan điểm nữa!”. Đừng quên một thằng khai là mười lăm, vài chục thằng bị lây. Từ vài chục nhảy lên vài trăm rồi vài ngàn, vài chục ngàn chỉ là một con toán nhân vô cùng là lẹ làng! Nếu dứt dây thế nào cũng động rừng thì rõ ràng Cơ quan đã tạo được tình trạng đe dọa, khủng bố thường xuyên.


Nhưng cũng vì vậy mà trong số những tòng phạm, bị can R. Ralov dám khai cho cả Hồng Y Giáo chủ Richelieu. Đó là chuyện thường. Điều đáng ngạc nhiên là không ai ngạc nhiên khi thấy ông Hồng Y Giáo chủ nằm trong bản cung. Mãi cho đến năm 1959, sau khi công dân R. Ralov được Toà xử lại để cho khôi phục quyền thì vấn đề mới được đặt ra.


Đối với người cộng sản chính thống thì Stalin là Lãnh tụ lớn cần phải có cũng như phải có Đảng và có Đảng là phải có thanh trừng. Tối đại đa số cán bộ Đảng cao cấp cho đến khi bản thân bị bắt đều không ngần ngại, bắt chính những đồng chí một thời từng sát cánh tranh đấu bên nhau. Có thể nói tất cả những lãnh tụ Bôn-sê-vích to đầu, nạn nhân của thanh toán, ít ra cũng chẳng muốn dung tha mấy người anh em Bôn-sê-vích khác và sẵn sàng quên mới ngày nào đây bọn họ cùng chung lưng đấu cật để tiêu diệt những thành phần không cộng. Có lẽ cần phải có một đợt thanh trừng 1937 để cho thấy mớ ý thức hệ mà họ từng quảng cáo ầm ĩ thực sự chẳng ra gì, nếu chẳng phải phá nát từ nền móng nước Nga lật ngược cả nếp sống của người Nga và chà đạp lên tất cả những gì người Nga thiêng liêng nhất. Họ đã làm hỏng cả một nước Nga hơn chính những người mà họ triệt hạ suốt từ 1918 đến 1946. Những người Bôn-sê-vích “lâm nạn” còn bỉ ổi, hèn hạ quá nhiều so với những người từng là nạn nhân của họ.


Giờ đây giở lại chồng hồ sơ những vụ câu lưu, những phiên toà từ 1936 tới 1938 nghiên cứu kỹ từng chi tiết thì những nhân vật mà chúng ta kinh tởm nhất chẳng phải Stalin và bè lũ bộ hạ mà chính là những kẻ bị thanh trừng nhục nhã. Chúng ta buồn mửa vì sự sa đoạ hèn hạ của họ và không ngờ những con người có một quá khứ hào hùng, oanh liệt mà chừng “xuống chân” có thể khuất tất tới mức đó.


Nhưng còn biết nói gì khi con người đánh vẫn biết đau, còn cả gia đình vợ con để quyến luyến và bị “chiếu cố” đúng vào lúc bất ngờ nhất? Để đối phó với cả một bộ máy được dựng lên để đè bẹp con người thì làm cách nào để kiên định lập trường?


Con người vững nhất ở Phòng Thẩm vấn là con người hết thắc mắc, thẳng tay gạt bỏ hẳn quá khứ để chân vừa đặt lên ngưỡng cửa ngục tù là lòng phải nhủ lòng: “Đời ta vậy là hết, ch.ết có hơi non thật nhưng có làm gì được đâu? Tự do mất hẳn, trước sau cũng đến ch.ết mà càng kéo dài càng đau khổ thì thà ch.ết sớm ch.ết ngay. Tài sản liệng đi, gia đình coi như ch.ết hết cũng như đối với họ, ta là kẻ ch.ết rồi. Xác thân này vô dụng, chẳng phải của ta nữa rồi. Có còn chăng chút đỉnh tinh thần và lương tâm con người, có vậy thôi”.


Đụng týp người dứt khoát này điều tr.a thẩm vấn chẳng có nghĩa gì. Chỉ có người dám vứt hết mới thắng nổi. Có điều dễ dầu gì tự biến mình thành gỗ, thành đá?


Hãy nhìn lại gương Berdyayev. Cơ quan vồ hết bọn người thân cận, nhất định bắt họ làm bù nhìn để sửa soạn xách cổ Berdyayev ra toà xử công khai, câu lưu 2 lần và năm 1922 bị đích thân Dzerzhinsky thẩm cung đêm, có sự hiện diện của Kamenev nữa. Nhưng Berdyayev vẫn trơ như đá vững như đồng. Không xin xỏ, không kể lể. Rất điềm tĩnh, vững vàng như ông ta đã vạch rõ những nguyên tắc tinh thần và tôn giáo mà căn cứ vào đó không thể chấp nhận chế độ chính trị vừa thành lập ở Nga. Vì lập trường sắt đá đó, Cơ quan đành phải nhìn nhận sự thực: con người này không thể mang ra Toà xử nổi. Do đó trả lại sự tự do.


Còn tấm gương khiêm nhượng của bà già “hàng xóm” của Stolyarova trong lao Byturki năm 1937. Đêm nào bà ta chẳng bị xách lên lấy cung? Hai năm trước có một tên trước là linh mục dòng Chính thống giáo vượt ngục Cải tạo đi trốn lánh, ghé ngang Mạc Tư Khoa mụ có chấp chứa một đêm phải không?


“Đúng vậy. Không phải trước mà là bây giờ vẫn còn là linh mục. Tiếp đón người là một vinh dự, dù chỉ một đêm.”
“Được. Rời Mạc Tư Khoa hắn đi đâu, mụ biết không?”


“Biết chớ. Nhưng đừng hỏi mất công. Tôi không chỉ (vị chức sắc Chính thống giáo này được một số tín đồ tiếp tay nhau đưa vượt biên giới sang Phần Lan)”.


Mới đầu các thẩm vấn viên thay phiên nhau lấy cung bà già. Sau đó từng nhóm bu lại “quay”. Dậm doạ, nồ nạt, giơ tay toan đấm bể mặt, nhưng bà già vẫn tỉnh táo:


“Đừng mất công giở trò vô ích ấy với tôi. Cứ thử xắt tôi ra từng mảnh nhỏ coi nào. Tôi biết mấy người làm bộ hung hăng vậy chỉ vì sợ: Mấy người sợ cấp trên, sợ lẫn nhau và sợ cả giết tôi nữa. (Theo lập trường thẩm vấn viên thì giết ch.ết bà già này còn gì là manh mối để dò ra hệ thống đưa người vượt biên). Nhưng nói thực có cái gì làm tôi sợ đâu. Tôi lấy làm sung sướng được ch.ết, được Chúa phán xét ngay từ giây phút này mà”.


Năm 1937 không thiếu gì những người gan lì, vững vàng như trên. Đó là những người gọi lấy cung như không trở về xà lim để nhận lại mấy manh quần áo rách. Đó là những người quyết định chọn cái ch.ết, nhất định ch.ết chớ không chịu khai để bất cứ ai bị vạ lây.


Trong lịch sử Cách mạng Nga không có mấy những tấm gương kiên định lập trường như trên. Tuy nhiên vấn đề so sánh hơn kém chẳng thể đặt ra xét vì thời đó những nhà Cách mạng của chúng ta đâu được biết điều tra, thẩm vấn hiệu nghiệm cỡ nào. Ít ra cũng 52 đòn.


Vả lại thời đó Radischhev có bị câu lưu nhưng Sheshkovsky đâu có tr.a tấn “kẻ phản nghịch”. Dù bố có làm gì chăng nữa thì với nếp nhà, đám con trai của Radischhev cũng cứ được huấn luyện để trở thành sĩ quan Ngự lâm quân, chớ đâu phải chiến đấu. Tài sản cơ nghiệp của ông ta cũng chẳng bị ai tịch thu. Nhưng chỉ sau 2 tuần giam cứu, Radischhev cũng đã chối bỏ hết tư tưởng, sách vở.


Tháng 12 năm 1825 nhóm sĩ quan đảo chánh toan truất phế Hoàng đế Nicolas đệ nhất thiệt. Họ thất bại vì bị tống giam hết nhưng họ đâu có bị tr.a tấn trả thù cho đến ch.ết và vợ con họ đâu có bị đánh đập ở phòng kế bên để những tiếng thét kinh hoàng phải lọt đến tai những ông chồng phản loạn. Thời đó không cần phải vậy, vì theo sử liệu ngay Ryleyev cũng “trả lời đầy đủ, thành thực, không giấu giếm tí gì”. Chính người soạn thảo ra tuyên ngôn chung của nhóm mệnh danh bản Sự thực của nước Nga (Russkaya Pravda) là Pestel cũng còn mất tinh thần, khai hết số đồng chí (còn trốn tránh) phụ trách đi chôn giấu, thủ tiêu những bản tuyên ngôn cũng như chỗ chôn kia mà [1] .


Thời đó có mấy người ngang tàng như Lunin, dám coi thường và chống đối Ủy ban Điều tra? Phần đông có phản ứng vụng về, tự trói buộc mình thêm, trong khi nhiều ông chỉ xin được Hoàng đế tha tội. Đồng chí với nhau mà Zavalishin còn trút hết đủ mọi thứ tội lên đầu Ryleyev kia mà. Trong khi đó Griboyedov còn bị 2 ông bạn Obolensky và Trubetskoi đua nhau vẻ vạch, tố cáo quá nhiều thứ tội mà ngay chính Hoàng đế Nicolas cũng tin không nổi!


Cũng theo sử liệu mà lại do đích thân đương sự tự thú thì Bakunin đã quỳ trước mặt Hoàng đế xin tha tội, do đó khỏi phải rụng đầu. Như thế đó thì gọi là tinh thần đốn mạt hay chiến thuật cách mạng?


Còn vụ nào quan trọng, do những liệt sĩ chủ trương cho bằng vụ ám sát Hoàng đế Alexander Đệ nhị? Họ phải biết dính vào vụ này là đời phải kể bỏ chớ? Cùng “đi” một lúc với ông vua nước Nga là liệt sĩ Grinyevitsky nhưng Rysakov còn sống nhăn. Bị bắt thì phải thẩm cung nhưng ngay trong ngày đầu tiên ông “liệt sĩ” này đã không ngần ngại phun bằng hết số người tham dự và còn cẩn thận chỉ tận nơi trú ẩn bí mật của họ. Sợ ch.ết quá trẻ, Rysakov đã tự thú và tự lãnh nhiều sứ mạng mà chính nhà nước cũng không ngờ đến. Người tự nhận nhiều lúc muốn nghẹt thở vì hối hận và để chuộc lỗi “cam đoan vạch rõ từng chi tiết tất cả bí mật của phe Vô quân Vô pháp” (Anarchists).


Có chi tiết này đáng chú ý: hồi cuối thế kỷ XIX sang thế kỷ XX dưới chế độ Nga hoàng, các thẩm vấn viên còn có lệ rút lại câu hỏi ngay tức khắc nếu bị can cho là không liên quan với hiện vụ hoặc quá tò mò, đi sâu vào đời tư. Nhân danh một người từng nếm mùi điều tr.a của Mật vụ Bảo hoàng và đến năm 1938 lại bị giam cứu ở lao Kresty, nhà lão thành Zelensky phải la trời: “Ối trời, họ làm ghê quá! Hồi Mật vụ Bảo hoàng bắt tôi, các thẩm vấn viên đâu nỡ nặng lời. Thế mà bây giờ”.


Bây giờ thẩm vấn viên NKVD trừng trị ông già tóc bạc bằng cách lột quần lấy roi đét đít như một đứa con nít nhỏ làm Zelensky phải ôm mặt khóc thầm trong xà lim.


Theo sử liệu của Peresvetov đăng trên Novy Mir số 4 năm 1962 thì có lần Mật vụ của Nga hoàng bắt giữ một sinh viên tên Vaneyev mang trong người một bản viết tay của Lênin tựa đề Mấy ông Bộ trưởng của chúng ta nghĩ sao. Đương sự nhìn nhận có người mang tới nhà thờ giữ giùm nhưng không muốn tiết lộ người đó là ai. Mật vụ không còn cách nào hơn là nhờ các chuyên viên so tự dạng để truy ra thủ phạm… nhưng rồi cũng vô hiệu.


(Không còn cách nào hơn thì phải hiểu là khỏi có những mục ngâm chân nước đá, đổ nước muối vô họng hay dùi cui đập gân bàn toạ mốt Ryumin.)


Chính Peresvetov cũng từng ở Trại Cải tạo, từng nếm mùi thẩm vấn thì hắn phải hiểu nếu Vaneyev lọt tay NKVD thì chắc chắn cậu sinh viên sẽ có dịp nếm nhiều ngón đòn để không còn cách nào hơn là cung khai ngay tất cả tài liệu Mấy ông Bộ trưởng của chúng ta nghĩ sao là ai!


Nhưng thôi, đặt vấn đề so sánh làm chi khi mỗi thời mỗi khác. Nếu một bác phu xe bò của thời Gogol không thể tưởng tượng nổi tốc lực siêu thanh của phản lực cơ thì dĩ nhiên những kẻ chưa từng húc đầu vào bộ máy nghiền thịt của các Trại Cải tạo làm sao hiểu nổi ý nghĩa đích thực của 2 chữ điều tr.a cũng như khả năng vô tận của kỹ thuật thẩm vấn!


Tờ Izvestiya ngày 24 tháng 4 năm 1959 có nêu gương anh dũng của nữ đồng chí Yulipa Rumyantseva, hai vợ chồng cùng nằm cát-xô trong trại giam Quốc xã. Chồng vượt ngục, vợ bị lôi ra điều tr.a để phăng ra manh mối, Yulipa biết nhưng nhất định không cung khai. Đó là tấm gương can đảm chói lọi, nhưng với những người không hiểu chuyện mà thôi! Với những người từng nếm đòn thẩm vấn NKVD, đấy chỉ là biểu hiện của một kỹ thuật điều tr.a chưa tới, Yulipa đâu có ch.ết vì đòn tr.a tấn. Đâu có phát điên. Cỡ một tháng sau còn được trả tự do, mạnh khoẻ là khác!


*


Xin thú nhận ngay là cho đến tháng 2 năm 1945 tôi vẫn chưa có ý niệm gì về vụ bị điều tra, thẩm vấn cứ lì lợm, kiên quyết là chắc ăn. Không những còn lưu luyến dứt không ra với cuộc đời tự do vừa mất, tôi còn ngây ngô đến độ cứ bực bội mãi vì đã bị bắt mà còn lại “bắt” luôn khoảng một trăm cây viết chì Faber! Nằm trong trại Cải tạo nhớ lại hồi bị thẩm vấn tôi đâm ngượng cho mình quá mềm lòng quá vụng về dại dột. Đáng lẽ tôi phải chì hơn, nếu trong mấy tuần lễ đầu óc tôi không xáo trộn kịch liệt và tinh thần sa sút nặng. Điểm duy nhất mà tôi không lấy làm kiêu hãnh thì cũng không đến nỗi phải hối hận vì nhờ ơn Trời tôi không khai bậy để đến nỗi một người khác bị bắt oan. Chỉ chút xíu nữa thôi!


Số là mang tiếng sĩ quan chiến đấu ở tuyến đầu thật nhưng Nicolai V. và tôi quả thực bị vô tù chỉ vì một nguyên do tối ngu ngốc và trẻ con. Mỗi đứa đóng một nơi, thư từ viết qua lại đều đều chúng tôi còn lạ gì thời chiến chế độ kiểm duyệt thư từ vô cùng ngặt nghèo. Ấy vậy mà có uất ức, bực bội gì cứ xổ bừa ra giấy, khỏi che đậy quanh co. Phê bình, chỉ trích là thường. Dám đả động đến cả Lãnh tụ Vĩ đại dĩ nhiên bằng những ám chỉ, móc mói… Nào ông lớn muôn năm, nào tổ sư ăn cướp!


Trong các trại Cải tạo mỗi lần mang chuyện cũ ra kể anh em đều ngạc nhiên cười rũ. Nhiều người cả quyết ngu ngốc một cách ngây thơ như vậy quả là có một không hai. Chính tôi cũng tin nữa chớ. Nào ngờ có dịp đọc qua mớ tài liệu về vụ Alekxandr Ulyanov, anh ruột của Lênin mới hay chính người và các bạn đồng chí cũng bị vồ trong trường hợp in hệt. Nghĩa là cũng trao đổi thư từ khơi khơi và ngu ngốc như chúng tôi. Trớ trêu nhất là chỉ có thể vì vậy mà Hoàng đế Alexender Đệ tam thoát ch.ết ngày 1 tháng 3 năm 1887! [2]


Người phụ trách lấy cung tôi là thẩm vấn viên Yezepov. Văn phòng trần cao, rộng rãi sáng sủa và khung cửa sổ đồ sộ (trụ sở cửa Công ty Bảo kê mà). Phải có một căn phòng cỡ đó mới chứa nổi tấm hình vĩ đại của Lãnh tụ vĩ đại, một tấm hình chiều cao không dưới 5 mét, chiều ngang cỡ 4 mét. Đứng bên cạnh chân dung người tôi chỉ là một hạt cát, vậy mà dám phạm thượng! Lâu lâu thẩm vấn viên Yezepov còn đứng trước chân dung Lãnh tụ hét lên rằng: “Chúng ta sẵn sàng vì người mà hy sinh. Chúng tôi sẵn sàng vì người mà nằm ra chặn đường xe tăng giặc”. Tấm chân dung người đồ sộ đến nỗi thốt nhiên tôi có cảm giác những giáo điều Lênin chân chính mà tôi vẫn nhai nhải lâu nay là cả một sự đáng thương và dám xúc phạm tới người thì tội tôi đành phải là tội ch.ết.


Đúng tiêu chuẩn đang áp dụng thì chỉ cần đưa mấy lá thư ra buộc tội là chúng tôi đi tù chắc. Ông thẩm vấn viên không cần điều đó khăng khăng “nhận diện” những ai viết thư cho tôi và tôi gởi thư cho ai [3] . Bọn trẻ chúng tôi viết thư cho nhau là thường quá và không mấy khi không bất mãn, chửi đời. Biết thư từ bị kiểm duyệt cũng thiếu gì cách xiên xỏ. Đó là lý do ông thẩm vấn viên cứ thế vặn hỏi: nếu gặp gỡ nhau thì tụi tôi thảo luận những gì, bộc lộ những gì và bộc lộ tư tưởng còn phản động tới đâu?


Dĩ nhiên bọn trẻ chúng tôi chỉ “thảo luận” bằng thơ với nhau cũng quá đủ, có cần gì phải hội họp? Phải thuyết phục, tránh né và chịu nhận một số lỗi lầm của tuổi trẻ thì ông thẩm vấn viên mới chịu buông tha để xoay qua câu hỏi khác.


Chiến thuật ruột của tôi đối diện ông thẩm vấn viên Yezepov là bắt buộc phải thòi ra một phần sự thực, nhìn nhận có thảo luận chính trị gay cấn lắm nhưng phải lo né tránh, chớ có đụng tới Hình luật. Tất cả phải tuôn ra một hơi đều đặn, không ấp úng cho phù hợp với tội trạng ngây thơ, ngờ nghệch và cốt yếu nhất là để ông thẩm vấn viên đầy kinh nghiệm và làm biếng chớ có sục sạo, chúi mũi vào đống tài liệu trong chiếc cạc-táp mà tôi xách kè kè từ mặt trận miền Tây về.


Đáng kể nhất là tập Nhật ký Chiến trường viết bút chì, nét nhỏ li ti chữ còn chữ mất. Tôi tập tọng vô nghề viết văn mà. Biết bao nhiêu chuyện xảy ra, gặp gỡ hàng ngày, đầu óc nào nhớ cho hết nên tôi ghi đại vô sổ tay! Có những chuyện rất tầm thường, không nghĩa lý gì ở ngoài chiến trường nhưng ở hậu phương lại là những đề tài phản động, đáng tống vô tù hết. Kẹt nhất là những mẩu chuyện tôi viết nhưng do đám bạn bè kể lạI, nếu ông Yezepov cứ thắc mắc đào bới mãi ắt sẽ không thiếu gì những thằng từ mặt trận miền Tây được đưa gấp vô trại Cải tạo! Mình tôi đành phải nhận hết, nhận tư tưởng lệch lạc, nhờ ông thẩm vấn chỉ điểm mới thấy và giác ngộ. Công việc đóng kịch vô cùng mệt mỏi, tôi cứ như người “đi trên lưỡi dao cạo” vậy.


Cho đến lúc không thấy thằng nào bị xách cổ vô đối chứng tôi mới yên chí mình không gây hoạ cho ai và như vậy là hồ sơ sắp kết thúc đến nơi. Đó là tháng Tư nằm trong Lubyanka và tôi vô cùng đau khổ khi được biết bao nhiêu giấy tờ, bản thảo – cả một công trình sáng tác và ghi chép của tôi – đều bị thảy vô lò thiêu hồ sơ của nhà lao. Tập Nhật ký Chiến trường lại đóng góp thêm một mồi lửa, một thiên chuyện mới của văn học Nga hiện đại được hoả thiêu để mớ tro tàn theo ống khói cao nghệu bay lên, nhả ra khắp bốn phương những đàn bươm bướm đen phất phới.


Bọn chúng tôi không lạ gì chiếc ống khói sừng sững trên lầu 6 mỗi lần được đi men theo vách tường cao đúng 3 đầu người vây quanh Lubyanka. Tai chúng tôi nghe lọt từng tiếng còi xe ngoài đời vọng vô nhưng tầm mắt bị giới hạn bởi ống khói lò thiêu, bởi vọng gác lầu 7 và bởi một mảnh trời đầy đoạ lãng đãng trôi ngang nhà lao.


Tàn tro than đâu mà nhiều thế? Chúng bay đen ngòm suốt một tháng Năm, tháng Năm đầu tiên của những ngày hoà bình trở lại. Điệu này bao nhiêu hồ sơ lưu trữ đã bao nhiêu năm của Lubyanka được hoả thiêu bằng hết chắc? Tập Nhật ký Chiến trường của tôi bất quá chỉ là hạt tro, hạt bụi! Tôi chợt nhớ lại vào một buổi sáng giá lạnh, buổi sáng tháng Ba ngồi trong văn phòng thẩm vấn để cung khai cho ông Yezepov lập hồ sơ, nghĩa là khai một đằng chép một nẻo. Ánh nắng vàng hắt vô, rọi tan lớp sương bám ngoài ô cửa sổ. Khuôn cửa sổ rộng thênh thang mà nhiều lúc tôi đã tính đâm đầu ra để thân xác được dịp “du hành chớp nhoáng” Mạc Tư Khoa, rớt từ lầu 5 xuống lề đường. Như hồi còn thơ ấu ở Rostov thấy ông phạm nhân nhảy từ lầu nhà lao 33 vậy.


Qua những “lổ hổng” của lớp sương đang tan trên khuôn cửa kính, những mái nhà Mạc Tư Khoa hiện ra mái thấp mái cao, bên trên lững lờ mấy cụm khói ấm. Tôi hướng về phía đó thật nhưng những hình ảnh hiện ra trong đầu óc lại là lớp lớp tài liệu, giấy tờ nằm chất đống cao như núi. Đúng, một núi giấy tờ nằm lù lù giữa căn phòng trơ trọi 36 mét vuông, giấy cũ giấy mới lẫn lộn chất bừa vào đó, chưa xem xét vội. Nào sổ tay, nào tập vở kẹp giấy vụng về, nào từng xấp có buộc dây, không buộc dây và những tờ rời la liệt. Đó “tinh hoa tư tưởng con người” dồn lại, đánh đống vùi sâu trong đó! Cao hơn buya-rô, che khuất ông thẩm vấn viên luôn.


Trong tôi bỗng nảy sinh một lòng thương kỳ lạ, thương cho một thằng nào đó đồng cảnh ngộ. Vừa bị đêm qua, bao nhiêu “tác phẩm” tịch thu hết mang về đây chất đống trong phòng Thẩm vấn, đặt dưới chân dung khổng lồ của Lãnh tụ vĩ đại. Nó là ai, những đứa con tinh thần của nó nói lên điều gì mà đến nỗi phải vô đây chịu tr.a tấn, chặt chân chặt tay rồi rốt cuộc cũng đến hoả thiêu hết.


Chao ôi, bao nhiêu tư tưởng, công trình cả một thời đại văn hoá có khi đành chịu đoạ đày trong lò lửa Lubyanka. Tàn than bay lên, bay cao lên… Niềm đau đớn nhất trong tôi là chắc chắn rồi đây bọn đàn em, con cháu chúng tôi lớn lên đâu chịu hiểu cho mà cứ tưởng cha anh chúng là một bầy ngu ngốc, câm nín đến không nói lên được một điều gì.


*


Năm 1920 Ilya Eheenburg được Cheka mời tới để nghe một câu: “Bây giờ anh làm sao chúng tôi tin là anh không chạy theo Wrangel đi”. Ba mươi năm sau, năm 1950 đại tá Zheleznov (một trong những ông đại tá cừ khôi nhất của KGB) bảo thẳng những thằng bị bắt vô An ninh Quân đội: “Chúng tôi đâu cần mất công chứng minh cho can phạm thấy họ có tội? Chính họ phải làm sao cho chúng tôi tin họ không nuôi dưỡng tư tưởng phản động”.


Ba mươi năm, hai điểm trùng hợp. Chỉ cần vạch một cái là có ngay một đường thẳng. Vô cùng giản dị nhưng cũng là con đường máu của bao nhiêu triệu con người.


Điều tra, thẩm vấn mà không cần chứng minh, lại buộc nạn nhân phải làm sao cho tin được thì quả là tối giản dị, tối cấp tốc xưa nay nhân loại chưa hề có! Khỏi cần bằng cớ mất công. Cơ quan còn tước bỏ của một thằng vừa bị mất tự do nhiều thứ quá. Không được mang theo người chút gì, cấm thư từ điện thoại nhắn tin. Cấm ngủ, cấm ăn, giấy bút không được xài, khuy nút không được cài, nạn nhân chỉ được quyền run rẩy, chơ vơ ngồi một mình trên chiếc ghế đẩu, đối diện ông thẩm vấn để cố đào bới óc chứng minh cho vị đại diện Cơ quan tin được là không hề nuôi dưỡng tư tưởng phản động. Nếu không tự tìm được bằng cớ (mà biết tìm ở đâu ra?) thì đành phải tưởng tượng đại ra một cái gì có thể làm bằng cớ được để tự buộc tội vậy).


Có ông già lụm cụm mỏi miệng chứng minh “Tôi vô tội” có bị quân Đức tống vô trại giam thật, nhưng nhất định không phản bội Tổ quốc. Không hề nuôi dưỡng ý tưởng đó! Ông thẩm vấn viên khổng lồ đâu chịu tin. Đành chịu tù vậy! Không tội cũng tù, bằng không tôi đâu có hân hạnh gặp ông cụ trong lao Byturky. Vấn đề là phải tìm ra một bằng cớ buộc tội nên thêm một ông thẩm vấn viên nữa tới tiếp sức. Hai ông bèn “quay” cụ già suốt một đêm bằng cách cả ba cùng ngồi lì! Nhưng sau đó hồ sơ được kết thúc bởi một ông thứ ba xuất hiện trên ghế thẩm vấn để hai ông trước biến thành hai nhân chứng đồng thanh xác nhận trong cuộc đàm đạo đêm vừa qua (đừng quên cụ già nhịn đói và bị cấm ngủ) chính ông già đã có những tư tưởng, luận điệu rặt mùi phản động. Vậy là 10 năm đi đày về tội tuyên truyền xách động chống nhà nước Xô Viết.


“Công tác” giản dị vậy, nên thẩm vấn viên đâu cần vận dụng kỹ thuật thẩm cung để phăng ra sự thực. Gặp ca rắc rối, cứng đầu thì họ kể như tập luyện làm đao phủ thủ mà gặp ca dễ dàng thì hiển nhiên ngồi chơi không lãnh lương nhà nước. Thiếu gì ca điều tr.a vô cùng dễ dàng, dù trong năm dữ 1937.


Như Boredko bị cáo tội 16 năm về trước lén sang Balan thăm bố mẹ không giấy thông hành. Khốn nạn, gọi là hai nước chớ cách nhau có 10 cây số, mà mãi năm 1921 Nga mới trích một phần đất cho sáp nhập vào Balan, vụ đó chỉ mấy ông ngoại giao biết với nhau chớ dân hai nước vẫn cứ tưởng một, đi lại lu bù mà. Những vi phạm luật lệ thì Borodko phải bị truy tố. Có điều cuộc thẩm cung quá dễ:


“Có vượt biên giới lậu sang Balan không?”
“Có.”
“Bằng cái gì?”
“Đi ngựa. Như mọi người…”
“Vậy hả? Vậy thì 10 năm, chiếu Sắc luật KRD (tức tội có hoạt động phản cách mạng).”


Điều đau khổ là có phải những cuộc thẩm vấn cứ tiến hành mau lẹ, giản dị vậy đâu. Thẩm vấn viên NKVD đâu phải nông dân làm tập thể. Người có thẩm quyền kéo dài, dù Bộ Hình sự Tố tụng đã ấn định thời gian điều tr.a là 2 tháng. Nếu cần thì cứ xin triển hạn 1 tháng, bao nhiêu lần không được. Do đó tội gì phí sức, hao tổn tinh thần và tư cách, hiểu theo nghĩa Vyshinsky? Tuần lễ đầu sử dụng miệng và chân tay tối đa cũng thấm mệt lắm! Rút cuộc thông lệ của thẩm vấn viên Cơ quan là chớ có kết thúc hồ sơ trước hai tháng, nhất là những hồ sơ chính trị. Càng kéo dài càng đỡ phải nhận đồ mới, càng làm ra vẻ công tác khó khăn, đòi hỏi nhiều kiên nhẫn.


Dĩ nhiên Cơ quan biết điều đó. Đồng ý muốn làm thẩm vấn viên phải qua một thử thách chọc lọc gay go nhưng vẫn chẳng thể tin nổi. Đi về vẫn bắt buộc phải ký phiếu công tác, tất cả các phiên thẩm vấn đều phải vô sổ rõ ràng, điều tr.a từ mấy giờ tới mấy giờ. Nhưng thực tế ai cấm nổi ông thẩm vấn cho lệnh xách cổ thằng tù từ xà lim lên, nạt nộ phủ đầu rồi chỉ cho một chỗ bắt ngồi im để đọc sách báo, chép tài liệu học tập hay viết thư riêng. Thẩm vấn viên còn có quyền sang phòng bên tán gẫu với bồ bịch, giao tù lại cho lính canh hay ngồi bật ngửa trên đi-văng tiếp chuyện đồng nghiệp, nhưng không quên lâu lâu quay sang nạn nhân trợn mắt la lối!


“Mày đúng phản động. Mày sặc sụa mùi phản động. Không khai cho mau là có chầu lãnh 9 gam chì!”


Riêng ông thẩm vấn viên của tôi còn khoái xài điện thoại. Có lần hắn nhấc điện thoại gọi về nhà, dặn vợ bữa nay kẹt làm đêm sáng mai xong công tác mới được về, đừng chờ. Rõ ràng mắt hắn nhìn tôi sáng rỡ. Dĩ nhiên tim tôi nhảy loạn và đã lo ngại tối nay bị “công tác” là khổ với ông thẩm vấn viên. Bị hành hạ suốt đêm chắc! Bỗng nhiên ông thẩm vấn viên quay số mới và giọng nghe ngọt ngào quá: thì ra người có hẹn với mèo đêm nay. Tôi thở phào, đỡ khổ. Ít ra cũng được ngủ đêm nay!


Nguyên tắc thì cứng rắn nhưng thực tế một cuộc điều tr.a có thể hủ hoá như vậy đó. Tôi được biết có nhiều ông trong những phiên lấy cung bình thường (nghĩa là kéo dài ra cho có) đã thản nhiên nếu nhiều câu hỏi chẳng liên quan gì đến hồ sơ mà rõ ràng nhằm mở rộng tầm hiểu biết. Chẳng hạn như có thằng vừa ở tiền tuyến về thì hỏi dò tin chiến sự hoặc đặc điểm chiến xa giặc như thế nào (thẩm vấn viên đâu có thì giờ đi đánh xe tăng Đức!). Kẻ nào vừa ở hải ngoại về sẽ được chất vấn kỹ về phong tục, tập quán nước người mà đặc biệt có 2 địa hạt được săn đón nhất. Một là bên đó cửa tiệm thế nào, hàng hoá có những món gì lạ, giá cả thế nào. Hai là đàn bà, từ cách tổ chức làm ăn của các động chị em ta đến những mục ái tình với phụ nữ nước họ dễ hay khó.


Vậy mà theo bộ Hình luật Tố tụng thì các ông Ủy viên Công tố có nhiệm vụ phải theo dõi những cuộc thẩm vấn coi có hợp lệ hay vi luật! Sự thực thì suốt thời gian giam cứu chỉ được thấy mặt ông Tùy viên đúng một lần. Đó là lúc hồ sơ gần xong, đợi ông Tùy viên hỏi một vài câu lấy lệ.


Hồ sơ của tôi “lên” ông Trung tá Kotov. Dù gặp một lần làm sao tôi quên nổi ông sĩ quan béo tốt lạnh lùng không dữ mà cũng không lành nhưng bộ dạng vô cùng máy móc đó. Người ngồi sau buya-rô vừa ngáp vừa lần giở hồ sơ của tôi, theo dõi vấn đề trong mười lăm phút. Không lẽ chưa từng ghé mắt bao giờ nên người coi kỹ vậy. Sau khi duyệt xong, Trung tá Kotov mới ngó lên vách, lạnh lùng hỏi tôi… có cần khai thêm gì nữa không?


Theo pháp lý thì câu hỏi đó có nghĩa là khẩu cung có bị ép buộc, tôi có bị tr.a tấn gì không, nhưng quả thực một câu hỏi vô vị và cũ mèm! Thử hỏi cả mấy ngàn căn phòng của Bộ Nội An còn để làm gì nếu chẳng phải để thẩm vấn (và tr.a tấn) và trên toàn quốc ít nhất cũng có thêm năm ngàn phòng nữa đặc biệt chỉ để ép buộc hay ký cung. Không lẽ vì một mình tôi và một mình ông Trung tá Kotov mà lật ngược nổi tình hình. Bộ Nội An quả thực quá nhiều cấp tá như vậy, sẵn sàng cho ra những câu tương tự như vậy.


Tuy nhiên biết vậy mà được hỏi “có thắc mắc” gì không tôi vội vồ ngay lấy cơ hội để thưa là có. Tôi bị bắt cùng một vụ với một thằng bạn, mỗi thằng bị lấy cung một nơi, tôi ở Lubyanka và nó ở tiền tuyến. Như vậy trường hợp của tôi rõ ràng cá nhân chớ không thể quy tội phạm pháp có tổ chức, đồng lõa. Vậy xin ông Trung tá chớ ghép tôi vào khoản 10, điều 58.


Trung tá Kotov liếc lại hồ sơ cỡ 5 phút rồi ngó tôi, đưa cả hai tay ra phân bua:
“Có gì lạ? Một người là một. Hồ sơ này có 2 người vậy có tổ chức là đúng quá còn gì?”


Cứ như thái độ của Kotov thì tôi phải hiểu rằng một người rưỡi cũng rõ ràng là phe nhóm. Còn dám nói gì khi người lạnh lùng đưa tay nhận chuông, ngoắc lính gác áp tải tôi trở xuống xà lim?


Thế rồi mãi cho đến cuối tháng Năm, một buổi chiều tối tôi mới được kêu lên văn phòng có chiếc đồng hồ vỏ đồng đặt trên mặt lò sưởi đá hoa cương để cùng ông thẩm vấn làm cho xong thủ tục 206. Cũng theo Hình sự Tố tụng đây là thủ tục cuối cùng trước khi ký tên lần chót. Dĩ nhiên thẩm vấn viên phải tin chắc là thế nào tội cũng ký nên đã ngồi sẵn sau buya-rô, nắn nót viết cho xong mấy hàng sau cùng.


Tôi tự tay lật hồ sơ, chồng hồ sơ dày cộm mà ngay ở bìa trong rành rành mấy hàng chữ in, đại khái xác nhận người khai cung có quyền viết ra khiếu nại về một điểm cho là không đúng ở trong bản cung mà thẩm vấn viên phải ghim theo trong hồ sơ. Ngay lúc lấy cung chớ không phải khi lập xong.


(Cả ngàn bạn tù của tôi có người nào biết được vụ này!)


Coi tiếp vô trong tôi thấy nhiều bản chụp những bức thư của tôi, kèm theo có lời giải thích hoàn toàn xuyên tạc của những ông nào đó. Thẩm vấn viên Yezepov cũng “gói ghém” bản cung bằng cả một sự dối láo. Tôi vẫn cứ bị kết án cùng cả tổ chức, phe nhóm!


“Tôi không ký…”
Tôi nói rõ vậy nhưng sau đó ấp úng thêm, không lấy gì làm mạnh dạn lắm:
“… Ông tiến hành và lập cung này không đúng cách!”


“Vậy hả? Vậy thì làm lại đúng cách… Làm lại từ đầu…”
Cặp môi đại úy Yezepov mím lại một cách ma mãnh:
“Được, để tôi cho anh xuống ở chung chỗ với bọn mật thám Đức là xong.”


Vừa nói hắn còn chìa tay ra như muốn lấy lại hồ sơ lập tức. Làm tôi phải giữ lại…


Ngoài kia, ngoài cửa sổ lầu 5 nhà lao Lubyanka đang hấp hối những tia nắng chiều. Trời tháng Năm rồi. Nhưng cửa sổ kín như bưng, làm như muốn khép kín hẳn thế giới bên ngoài đối với những thằng đang nằm khám. Không cho phép hưởng tí hương vị mùa xuân. Chỉ nghe tiếng đồng hồ gõ, không đủ ánh sáng nhìn giờ.


“Làm lại từ đầu.” Ôi chao, làm lại thì ch.ết sướng hơn. Thà muốn tới đâu thì tới. Mà ở chung chỗ với bọn mật thám Đức coi bộ nguy. Bấy giờ lên tiếng hỏi lạng quạng chắc chắn Yezepov chỉ bực mình, hắn đang viết đoạn chót của cung từ thì khổ mình lắm.


Vậy là tôi ký cung. Ký nguyên vẹn bản cung, kể cả khoản 11 mà hồi đó tôi chẳng biết gì. Chỉ nghe họ biểu: “Có sao đâu? Chẳng vì vậy mà nặng thêm!”. Chao ôi là khoản 11, té ra chỉ vì nó mà tôi bị tống vô một trại Cải tạo khổ sai. Chỉ vì nó mà ở hết án được trả tự do, không bị kết án thêm mà tôi đành phải an trí chung thân!


Nhưng biết đâu chừng vì vậy hoá hay. Không lãnh đủ hai vụ trên thì làm gì có cuốn truyện này.
*


Xét vì tôi được “điều tra” bằng những phương pháp hoàn toàn hợp lệ – chẳng có gì ngoài mục cấm ngủ, nạt nộ, gạt gẫm nên trong lúc làm thủ tục 206 tôi không cần phải ký thêm tờ cam kết giữ bí mật. Trường hợp có những chuyện “rắc rối” thẩm vấn viên bao giờ cũng phải lo thủ trước bằng cách bắt bị can phải ký vào tờ cam kết không tiết lộ với ai những phương pháp thẩm vấn của Cơ quan, bằng không sẽ can tội đại hình.


Không hiểu tờ cam kết này nằm trong khoản nào, điều nào của Bộ Hình Luật?


Tờ “cam kết không tiết lộ” thường được NKVD chìa vào mặt bị can trong lúc ký cung lần chót đã đành. Sau này ra khỏi trại Cải tạo lại phải cam kết lần nữa, tiết lộ những chuyện trong trại cũng lãnh án Đại hình. Như vậy đó!


Như vậy là sử dụng luật “găng-tơ”, buộc con người phải câm họng còn gì? Như vậy mà chúng tôi không được phép chống lại, không được phép oán hờn. Mà cũng chịu được. Chỉ vì quen gật đầu tuân lệnh, xương sống mềm oặt rồi.


Chúng tôi đã mất ý niệm tự do, không có cách nào để thể hiện tự do. Như thế nào, tới mức nào… chúng tôi không có máu Á Đông. Bị chèn ép, đòi hỏi cam kết giữ bí mật mãi cũng nhắm mắt chấp nhận cho xong. E rằng mình giờ này cũng vẫn bị ràng buộc, không được quyền kể lại chính cuộc đời mình cũng nên.






Truyện liên quan