Chương 6: Mật vụ mũ xanh

Có sự thực sau đây phải nhìn nhận đã lọt vô cái cơ sở khổng lồ chuyên bắt người đêm, chịu đút đầu vô guồng máy điều tra, thẩm vấn thì tránh sao khỏi tinh thần bị nghiền nát ra tro bụi và xác thịt tơi tử như bị thằng ăn mày. Chịu đựng đau khổ rã rời, chìm đắm trong cơn đau thương của chính mình như vậy thì còn lấy đâu ra sáng suốt tỉnh táo để nhận diện cho rõ ràng để viết về những tên đao phủ mặt trắng nhợt nhạt từng xuống tay hành hạ mình? Niềm đau khổ nội tâm đủ dâng lên ngâp ngụa, khuất lấp cả mắt bằng không thì còn ai nhận diện những ông Mật vụ chính xác cho bằng chúng tôi? Để các đương sự tự hoạ thì dĩ nhiên phải sai lệch rồi!


Chao ôi, trong cuộc đời tù tội ai mà quên nổi thời gian bị điều tra, thẩm vấn? Nhớ không sót một chi tiết. Nhớ bị nộ nạt, dồn ép như điên chỉ cốt để bật ra một bản tự thú, một chữ ký. Trái lại, ngay tên ông thẩm vấn viên là gì, mấy ai nhớ nổi. Có coi họ là con người bao giờ?


Tôi cũng vậy. Bạn tù biết bao nhiêu đứa, nhưng vẫn nhớ. Có điều gì đặc sắc còn nhớ kỹ. Dĩ nhiên nhớ hơn ông Đại úy Nội An Yezepov, mặc dù từng gặp gỡ, hội diện quá nhiều lần.


Chỉ có một điểm ai cũng nhận thấy và không bao giờ quên nổi là bầu không khí thối tha trong một nơi cực kỳ hôi tanh. Mấy chục năm qua rồi, bao nhiêu giận dữ hờn oán lắng xuống hết cho tâm hồn bình thản, mà mỗi lần gợi nhớ lại vẫn cứ thấy một cảm giác nhơ nhuốc, thấp hèn nơi những con người xấu xa, đồi bại, gần như điên khùng.


Ngày xưa Hoàng đế Alexander Đệ nhị từng nhiều phen bị mưu sát, bọn Cách mạng âm mưu lấy mạng người tới 7 lần kia mà. Một hôm người đi thăm khám tạm Shpalernaya – cha chú của Trung ương khám đường ngày nay và truyền lệnh cho đám quan hộ giá thử nhốt người vào cát-xô số 227 cho biết mùi vị biệt giam như thế nào. Người tình nguyện nằm cát-xô một giờ đồng hồ chỉ cốt để tìm hiểu cảm giác của những kẻ từng bị người tống vô cát-xô. Dù sao cũng không thể chối cãi nhà vua đã tự làm một thí nghiệm, lấy bản thân mình tìm hiểu vấn đề.


Nhưng mấy ông thẩm vấn viên sức mấy dám. Từ cán bộ hạng chót tới các ông lớn cỡ Abakumov, Beria có ông nào dám thử đóng vai thằng tù trong một giờ, chịu thử nằm cát-xô suy ngẫm bao giờ?


available on google playdownload on app store


Nghề của họ là một nghề đặc biệt, không cần giáo dục hay văn hoá. Hai thứ đó không có. Nghề của họ không đòi hỏi lý luận, suy nghĩ sâu xa. Họ không suy nghĩ. Nghề của họ chỉ cần nhắm mắt thi hành chỉ thị và đánh đập, hành hạ không nương tay. Quả thực họ đã làm đúng vậy. Nhân danh những người từng lọt vào tay họ, chúng tôi quả thực đã nghẹt thở mỗi khi nhớ tới đám người vô hồn, không tim chối bỏ hết tình cảm con người.


Người ngoài có thể không hay nhưng dân trong nghề như họ làm gì chẳng biết bộ máy chế tạo, dựng đứng ra hồ sơ? Trừ những phiên khai hội, hiển nhiên họ chẳng thể nghĩ, chẳng thể bảo nhau là công tác của họ nhằm điều tr.a cho ra những thằng trọng phạm! Nhưng nghề nghiệp của họ là ngày này sang ngày khác, hết trang này sang trang khác chế tạo ra những hồ sơ phạm tội. Nghề nghiệp của họ bản chất quả không khác bọn trộm cướp, lưu manh hạng bét là bọn blatnye mà khẩu hiệu ruột là: “Nay anh mai tôi, chúng ta như nhau”.


Họ biết là nghề của họ quanh năm chế tạo, nhưng làm thì họ vẫn làm. Muốn làm thì một là họ tự bắt buộc phải không suy nghĩ (dù làm người mà không suy nghĩ là chối bỏ quyền làm người), hai là chấp nhận như một chuyện bắt buộc phải làm, cấp trên của họ đã cho chỉ thị là phải đúng.


Thì bọn Quốc xã cũng đã từng lý luận như vậy [4] .


Có người làm chỉ vì Đảng, vì lý thuyết Sắt Đá. Chẳng hạn như ông thẩm vấn viên ở Orotukan bị hạ tầng công tác, đổi đi Kolyma năm 1938. Thấy gã phạm nhân tên Lurye, nguyên Giám đốc Khu Kỹ nghệ Krivoi Rog ngoan ngoãn ký cung (dù biết ký là lãnh án đi đày lần nữa) hắn cũng lấy làm xúc động bảo rằng: “Mấy anh tưởng tụi tôi khoái làm công việc thuyết phục này lắm sao? [5] Đảng ra lệnh thì tụi tôi phải chấp hành. Anh cũng từng là đảng viên. Ở địa vị tôi chắc anh cũng chẳng thể làm gì khác!”.


Mặc nhiên Lurye đồng ý với hắn. Nếu không nghĩ như vậy đã không may mắn ký cung nhận tội. Thà rằng vì Đảng!


Đa số các thẩm vấn viên làm việc vì muốn làm công việc dữ dằn đó. Là Mật vụ mũ xanh họ còn lạ gì công việc của guồng máy nghiến thịt người? Họ thích làm. Trong trại Dzhida năm 1944, điều tr.a viên Mironenko hãnh diện giải thích cho phạm nhân Babich:


“Cho anh hay một điều: Có toà xử là phải có điều tra, lấy cung. Hình thức đặt ra là vậy chớ thực sự có ăn nhằm gì? Tất cả đã được quyết định sẵn cả rồi. Nếu cần phải bắn anh thì anh vô tội anh cũng bị bắn như thường. Nếu cần phải miễn tố anh thì dù có bao nhiêu tội họ cũng gạt bỏ cái một để anh trắng án (dĩ nhiên trường hợp sau chỉ áp dụng đối với đảng viên)”.


Kusnharyev, Chánh Sở 1 Điều tr.a Ty Nội An tỉnh Kazakhstan miền Tây cũng đã giải thích in hệt cho phạm nhân Adolf Tsivilko:
“Cho anh hay, giả thử anh thuộc nhóm Leningrad thì chúng tôi chẳng thể cho anh ra, với bất cứ giá nào.” [6]


Khẩu hiệu ruột của cán bộ điều tr.a là: Hãy gởi một thế giới tới, chúng tôi sẽ làm ra tội! Họ nói đùa như vậy nhưng họ tr.a tấn thật vì họ cho rằng làm vậy là được việc. Bằng không bà vợ ông Nicolai Grabishehenko, điều tr.a viên trong Cơ quan Sông đào Volga đã chẳng khoe với hàng xóm láng giềng:


“Nhà tôi làm việc cừ lắm. Có một thằng cứng đầu ghê gớm, ai hỏi cũng không khai. Giao cho nhà tôi chỉ một đêm, một đêm thôi là có bản tự thú liền”.


Tại sao bọn họ lại nhảy vô, sẵn sàng hăng hái tr.a tấn, không phải để phăng ra một sự thực mà chỉ đóng góp thêm vào guồng máy chế tạo ra tội. Vì lợi, vì chủ trương “ai sao ta vậy”, tốt hơn hết là cứ hăng say đóng góp vào việc chế tạo như mọi người thì đời sống no đủ, phụ cấp nhiều, có tiền thưởng và huy chương rồi lên chức. Cơ quan bành trướng, mở mang nhiều mà. Nếu làm được nhiều việc, hăng say đóng góp với mọi người cho guồng máy điều tr.a chạy đều thì óc quyền tự ý đến sở công tác hay đi chơi cũng cứ được. Nhưng không được việc sẽ bị đẩy ra khỏi Cơ quan, bị bể nồi cơm chắc. Cơ quan phải chế tạo đến mức tối đa vì Lãnh tụ vốn đa nghi, nhất định cho rằng chỗ nào cũng phải có kẻ thù. Ở cấp quận, cấp tỉnh hay trong một đơn vị quân đội không bao giờ hết kẻ thù.


Lãnh tụ đã muốn vậy nhè lọt vô tay Mật vụ mũ xanh còn giở trò cứng đầu không chịu cung khai thì những thằng tù bướng bỉnh chỉ có ch.ết với các điều tr.a viên. Bao nhiêu hận thù, bực bội sẽ trút lên đầu những thằng không chịu chấp nhận thân phận như những người khác, những thằng bị biệt giam, nhịn ăn, nhịn ngủ vẫn không chịu đầu hàng. Cứng đầu vậy khác nào đe doạ địa vị, nồi cơm của thẩm vấn viên. Bắt buộc phải hạ cho bằng được nên còn ngần ngại gì không ra đòn? Thằng nào muốn chống cho nó chống. Để coi ai ch.ết! Nó muốn chống thì nhét ống vô mồm, cho nó một bụng nước muối.


*


Khi đã chấp nhận làm công tác chế tạo ra tội bằng mọi thủ đoạn điều tr.a viên đã tự ý tách rời khỏi khối người có tình cảm bên trên để tự hạ xuống khối người thấp kém bên dưới. Nơi đó họ hăm hở, hăng say công tác như được “thuốc”, được thúc đẩy bằng hai bản năng đặc biệt của khối người thấp kém, những người chỉ hai mục bao tử và đàn bà. Đó là thú tính: thèm quyền thèm tiền (khoảng vài chục năm trở lại đây khát vọng quyền thế đã lấn lướt hẳn tiền bạc).


Từ bao nhiêu ngàn năm nay con người đã biết quyền hành là thuốc độc. Chuốc lấy chỉ có ch.ết, có ai đè đầu cưỡi cổ người khác được mãi bao giờ! Con người có ý thức, sớm biết bên trên chúng ta có một thứ quyền chế ngự, chi phối mọi thứ quyền khác để tự giới hạn mình thì có quyền vẫn chưa đến nỗi ch.ết. Những kẻ thấp kém ở khối người bên dưới chỉ biết đến quyền hành thì chỉ có ch.ết. Hết thuốc chữa.


Khát vọng quyền thế đã được văn hào Tolstoy cực tả qua vai trò Ivan Ilyich, con người đã chấp nhận một địa vi có quyền sinh sát bất cứ một ai. Không một ai thoát khỏi quyền thế mà Ivan nắm vững trong tay. Kẻ có quyền nhất đưa đến trước mặt hắn vẫn là có tội.


(Còn ai, ngoài các ông Mật vụ mũ xanh! Đâu cần phải thêm thắt chi tiết gì.)


Với nhân vật Ivan Ilyich thì chính ý thức nắm quyền hành là tha hồ sinh sát, đã quyến rũ hắn nhất, được hắn chú trọng nhất (mấy ông Mũ xanh thì chỉ có sát). Nói quyến rũ không đủ nghĩa. Phải nói là đầu độc mới đúng. Vì con người bị quyền thế đầu độc thực sự.


Chẳng hạn như anh là một thanh niên đầy triển vọng, cha mẹ biết chọn con đường nào lập thân cho thích hợp. Anh không muốn tiến thân bằng học vấn. Anh chọn con đường tắt, chạy theo nghề đó. Có 3 năm thôi, thời gian qua mau và anh “lên” cũng lẹ. Ra nghề là cuộc đời anh thay đổi hẳn: thay đổi nếp sống đã đành mà từ cử chỉ, ánh mắt cho đến cái gật đầu cũng khác hẳn ngày nào!


Có một phiên họp của các nhà khoa học. Thấy mặt anh bước vô, thiên hạ run hết. Có ghế chủ tịch, nhưng anh ngồi vô đó làm chi cho đau đầu? Hãy để ông Viện trưởng lãnh đủ! Anh ngồi né một bên nhưng ai cũng hiểu anh mạnh nhất. Giáo sư đoàn thua xa. Anh là người của Cơ quan mà. Anh chỉ cần tham dự cỡ 5 phút, để mặc họ họp bàn với nhau. Nhưng sau cùng anh vẫn có quyền mím môi, lắc đầu bác bỏ, bằng cách bảo ông Viện trưởng rằng: “Cái vụ này sợ không được. Sau này nhiều chuyện lôi thôi lắm!” Dĩ nhiên người của Cơ quan cho hay có chuyện lôi thôi thì quyết định gì cũng bỏ hết!


Nếu anh ở trường ra vô nhà binh, làm An ninh Quân đội (tức OSO) hay làm Phản gián (tức Smersh) thì sẽ mang lon Trung úy là cùng. Là đại diện của Cơ quan thì ngay cái lon của anh – hai ngôi sao nhỏ tí xíu – có thể kể như đeo chơi. Vì hai ngôi sao đó nặng thiệt, các lon nhà binh khác đâu sánh nổi? Anh muốn đeo lon Thiếu tá cũng dễ như chơi, chiếu nhu cầu công vụ.


Bằng không, ông Đại tá đơn vị trưởng đã chẳng né anh rồi! Đôi khi còn nịnh bợ, xun xoe là khác. Thấy mặt anh là thằng cha già Đại tá luôn luôn đứng dậy, có muốn bao gã Tham mưu trưởng một chầu nhậu cũng phải có mặt ông Trung úy Smersh. Đồng ý anh lon nhỏ, nhưng anh mạnh nhất, thế lực nhất. Ở công xưởng hay ở chi bộ Đảng một quận người của Mật vụ bao giờ chẳng đứng trên quản đốc, bí thư?


Vì chỉ huy trưởng hay giám đốc công xưởng, mấy người đó bất quá chỉ có nhiệm vụ kiểm soát thuộc viên, đề nghị lên lương, lên lon cho nhân viên dưới quyền. Còn anh, anh kiểm soát, anh nắm trong tay sự tự do của đoàn thể nhân dân mà. Hội họp chẳng ai dám nói với anh, viết báo cũng chẳng ai dám đả động tới anh. Bới xấu đã đành không dám nhưng bốc thơm cũng không nữa!


Vì đã có chân trong Cơ quan thì tên anh cũng là một thứ úy kỵ. Chớ ai nhắc tới! Cũng như anh có mặt vẫn phải coi như không. Đã đội chiếc Mũ xanh anh có quyền cao hơn những cấp thẩm quyền nổi: có đứa nào dám xía vô công tác của anh? Còn nói gì tới đám thường dân kể như những khúc củi. Anh có quyền vậy vì anh nằm trong Cơ quan. Người của Cơ quan phải có đặc quyền và do đó, làm cái gì cũng đúng hết!


Tuy nhiên anh chớ quen điều này: thân phận anh cũng sẽ chỉ là một khúc củi như bất cứ thằng nào nếu anh không phải người của Cơ quan, một bộ phận nhỏ nhoi nào đó trong guồng máy vĩ đại bám cứng vào đất nước này, sống trên lưng đất nước này như loài sán đóng đô trong cơ thể con người.


Đã có diễm phúc vậy thì anh sẽ có đủ mọi thứ, cái gì cũng sẽ về anh hết. Miễn anh phải trung thành với Cơ quan.


Nhắm mắt trung thành thì Cơ quan bao giờ chẳng che chở cho anh, san bằng chướng ngại, tiêu diệt kẻ thù giùm anh. Vấn đề là phải trung thành tuyệt đối, chấp hành chỉ thị cũng tuyệt đối. Miễn suy nghĩ vì đã có Cơ quan suy nghĩ giùm anh trong bất cứ công tác nào cắt cử anh đi.


Hôm nay anh nằm Đặc vụ, mai anh có thể ngồi ghế điều tr.a viên. Hay được cử sang công tác tuốt bên hồ Seliger dưới lốt một nhà nghiên cứu phong tục, tập quán, mà cũng có thể chỉ để xả hơi. Đang hoạt động nhẵn mặt ở tỉnh có thể được cử về quê để làm một thứ đại diện thẩm quyền phụ trách Tôn giáo vụ [7] .


Hay cử vào Ban chấp hành Hội Nhà văn Liên Xô để làm Bí thư không chừng [8] . Đừng ngạc nhiên! Chức vụ gì, cấp bực gì mà Cơ quan đã cử đi thì phải đúng người đúng việc. Chỉ Cơ quan biết, còn anh thì cứ thi hành chỉ thị răm rắp, lo đóng cho xong vai trò.


(Đó là lý do có những ông nghệ sĩ vừa được tuyên dương hay một ông vừa lãnh chức Anh hùng Nông dân đã thấy lặn đâu mất).


Đồng ý điều tr.a viên cũng phải làm, cũng phải đến sở làm đêm hay làm ngày, ngồi ít giờ đồng hồ. Nhưng anh đừng mệt trí điều tr.a cho ra sự thực, chớ thắc mắc bị can có tội hay không. Cơ quan chỉ thị sao cứ làm in vậy, làm như mọi người cho khoẻ. Miễn cùng chạy như thường lệ. Lâu lâu đang ngồi giết thì giờ, một sáng kiến chợt lóe lên: Nếu anh sáng chế ra được một kiểu “điều tra” mới để hoan hỉ thông báo cho đồng nghiệp còn hay nữa! Anh sẽ được hoan nghênh nếu đưa ra thí nghiệm có kết quả tốt. Ngày nào cũng biểu diễn đi quanh đi quẩn lại có bằng ấy mục sao không chán ngấy được kia? Bọn tù khốn nạn thằng nào tay cũng run lẩy bẩy, cặp mắt van vỉ, lưng còng hèn hạ. Chán ch.ết đi được! Lâu lâu, mới gặp được một thằng ngang bướng, xứng đáng đối thủ…


Thẩm vấn viên Shitov ở Leningrad bảo thằng phạm nhân tên G.G.: “Tôi khoái những thằng cứng đầu. Gặp những thằng này bẻ gãy lưng nó mới sướng!”.


Nhưng nếu có thằng quá ngang bướng, lì lợm chịu đủ mọi thứ đòn nhất định không chịu khuất phục thì sao? Đồng ý là bực bội. Lâu lâu phải có một dịp hò hét, hung hăng xả hơi hoặc trút mọi uất ức chớ. Đừng nén cơn giận xuống mà cứ để cho nó bùng lên. Đó là lúc anh bắt thằng gan lì đó ngửng mặt lên, coi miệng nó như miệng cống để nhổ vài bãi. Hay có cái thùng phân thùng nước tiểu đâu đó thì dìm đầu vô [9] . Nếu nó là một thằng thầy tu tóc dài thì nắm tóc lôi đi. Bắt nó quỳ gối ngửng mặt rồi đái vào giữa mặt nó cũng được. Phải có những mục đó mới hạ nổi cơn nóng giận để điều tr.a viên trở lại cuộc sống bình thường. Nếu có dịp thẩm vấn một con nhỏ bị kết tội giao thiệp với ngoại nhân thì anh tha hồ. Anh chửi bới tùy thích và hỏi móc họng đại khái:


“Nói thử coi. Bộ mấy thằng Mỹ có thứ đặc biệt hả? Bộ dân Nga hết người rồi hay xài không đã?”


Mấy em bé đã biết thế nào là người ngoại quốc thì phải biết là nhiều kinh nghiệm! Sao không bắt nó tự miệng nói ra, biết thêm được chút gì cũng kể như có dịp đi ngoại quốc. Anh có quyền cật vấn chẳng có gì phải kiêng dè. Thế nào, tụi nó làm ăn có gì lạ? Có những gì lạ kể ra nghe (cái vụ này anh có thể rút kinh nghiệm đợi dịp áp dụng bản thân hay kể lại cho bạn bè nghe không khoái chí sao?). Dĩ nhiên nó sẽ xấu hổ, khóc lóc, năn nỉ: “Những cái đó đâu có ăn nhập gì với hồ sơ?”.


Lúc bấy giờ anh sẽ quát lên: “Sao không? Biểu kể là có cái gì phải kể hết ra!”. Nó phải kể bằng hết chi tiết. Bắt nó vẽ ra hình rõ ràng cho anh coi, bắt nó ra để anh thực tập cũng còn được mà! Nếu không thì cát-xô, thì án lút đầu.


Anh có thể làm hơn nữa. Anh có quyền yêu cầu cho một nữ tốc ký viên lên ghi cung. Nếu con nhỏ ngộ nghĩnh hạp nhãn đố anh không thám hiểm người ngợm coi nó ra thế nào? Nó không dám cưỡng đâu mà thây kệ thằng tù ngồi đó. Anh cứ việc giải trí tùy thích, nó đâu phải là người mà ngượng ngùng? [10]


Vả lại có gì đâu mà ngượng? Đứa nào thích gái, nếu anh thích lại sẵn quyền thế trong tay mà không sử dụng thì có hoạ khùng! Thiếu gì gái chạy theo anh? Hoặc là anh chạy theo làm áp lực thì cuối cùng nó vẫn phải chịu chớ chạy đâu thoát? Gái đẹp cũng là của anh mà kể cả những đứa có chồng rồi. Nếu anh muốn con vợ thì đẩy thằng chồng đi đâu khó. [11]


Đối với anh thì việc đó quá dễ, Mật vụ mũ xanh mà. Nhà cửa hay vợ con người khác cũng là của anh, nếu anh muốn. Thằng nào chống đối gạt phăng qua một bên. Một khi đã là người của Cơ quan thì anh có quyền chân đạp đất đầu đội trời. Của anh hết. Trời xanh ngăn ngắt trên cao thì dưới này anh cũng Mũ xanh vậy!


*
Cũng như mọi người Mật vụ mũ xanh cũng ham tiền, dĩ nhiên để làm giàu riêng. Con người mà, đâu phải thần thánh mà chê của.


Nếu phân tích kỹ nguyên do thầm kín núp sau những vụ bắt người (những vụ bắt bớ cá nhân chớ không phải bắt từng đợt) thì dù có luật lệ đàng hoàng ít nhất cũng tới 75 phần trăm do thù oán cá nhân, ganh ghét mà trong số đó hết phân nửa do cán bộ địa phương NKVD gây ra. Có thể một phần là nạn nhân của những ông công tố nhưng theo tôi thì họ cũng là một thứ như nhau hết.


Thù oán cá nhân mà sinh sự thì điển hình là 19 năm tù ngục của V.G. Vlasov. Nguyên hắn là Chủ tịch Hợp tác xã Tiêu thụ cấp quận, phải lo cung cấp một số hàng vải cho đảng viên chi bộ địa phương, những thứ vải mà bấy giờ không ai thèm sờ tới. Phải đảng viên mới được mua chớ Hợp tác xã đâu có bán ra cho quần chúng. Bà vợ của ông Công tố Rusov không mua được thước nào vì lúc bán không tới mua. Ông chồng quen hách, không thèm tới quầy hỏi mà Vlasov lại chẳng phải người có thể rỉ tai: “Yên chí, em đã có phần cho ông Công tố rồi!”.


Thế rồi ông Công tố lại mời một người bạn tới ăn cơm trưa ở Câu lạc bộ Hợp tác xã nhưng kẹt ông bạn lại chưa đủ tư cách được vô ăn giá rẻ. Quản lý Câu lạc bộ từ chối thẳng mà Vlasov lại không cảnh cáo hắn cho Rusov hài lòng. Lại còn mạt sát người của NKVD ở địa phương. Đó là lý do Vlasov bỗng có tên trong danh sách các phần tử hữu khuynh, phải đưa đi đày. Có vậy mà 19 năm trại Cải tạo!


Những ông Mũ xanh nhiều khi tham lam thật nhỏ mọn, ưa chớp đồ vặt chẳng ai dám ngờ. Sĩ quan An ninh Senchenko không ngần ngại tịch thu bao la đựng bản đồ, tịch thu luôn cạc táp của một sĩ quan vừa bị hắn vồ để xài ngay tại chỗ. Để lần giở hồ sơ tài liệu phải mang găng da vô mới hách. Hắn bèn quơ luôn đôi găng tay của một người khác. (Thông thường tiến quân mà phải đi sau quân đội là các ông Mũ xanh buồn lắm vì chậm chân thì còn ăn cái gì?).


Ông sĩ quan An ninh Quân đoàn 49, người bắt tôi hồi đó đã “bắt” luôn cả cái hộp đựng thuốc lá. Nó có ra gì đâu, chỉ là cái hộp nho nhỏ màu đỏ lính Đức thường xài. Có thể thôi mà ông An ninh phải tính toán trước: không cho nó vào biên bản những món đồ gởi kho. Cho phép giữ xài nhưng mắt trước mắt sau thọc tay vào túi tôi tịch thu. “À, còn sót cái gì đây? Đâu có phép xài thứ này? Cứng đầu hả, tụi bây xách cổ thằng này liệng xuống cát-xô coi”.


(Cung cách đối xử với chiến sĩ tiền tuyến như thế đó thì Hiến binh thời Nga hoàng cũng chưa hề dám!).


Thông lệ của Cơ quan là trong ngăn kéo buya-rô điều tr.a viên lúc nào cũng có sẵn mớ thuốc lá nhà nước để tưởng thưởng cho những thằng cung khai ngoan ngoãn, những thằng điểm chỉ. Nhiều ông chẳng cho ai mà tự mình đốt hết! Đừng tưởng thế đã là bần tiện. Ngay giờ phụ trội làm đêm còn được nhiều ông khai trội hẳn lên, trước mặt thằng tù, để hốt thêm chút nào hay chút ấy.


Mấy ông Mũ xanh còn nhám tay thật hạ cấp. Như ông Fyodorov ở Ty Reshety (hộp thư Bưu điện số 235) đến xét nhà Korzukhin thấy cái đồng hồ tay cũng dám bỏ túi. Hồi Leningrad bị khủng bố nặng, bà Strakhovich có chồng bị câu lưu và hồ sơ nằm trong tay ông điều tr.a viên Nicolai F. Kruzhkov. Ông điều tr.a tìm đến tận nhà yêu sách vợ nạn nhân ít quần áo lạnh. Được trả lời: “Bao nhiêu chăn mền, đồ lạnh bị Cơ quan chất vô phòng trong, khoá cửa niêm phong hết rồi”, thì ông Nicolai cười hề hề: “Niêm phong hả? Cứ chỉ đi, tụi này có cách mở. Tụi này nhà nghề mà!”.


Dứt lời ông điều tr.a viên lẹ làng lách mở chỗ bản lề, không đụng gì tới niêm phong thiệt! Vô phòng là quơ những món đồ lạnh bằng hai tay, lượm thêm cả mấy món bằng thủy tinh đút túi. Bà chủ nhà lợi dụng cơ hội cũng lấy luôn ít món đồ ra xài thì bị ông điều tr.a viên tốp lại: “Bấy nhiêu đó đủ rồi”, nhưng ông Kruzhkov vẫn tiếp tục làm thêm vì chưa đủ! [12]


Nếu kể cho hết những vụ chiếm đoạt tài vật của những ông Mũ xanh sợ phải mất đến một ngàn cuốn Bạch thư mất. Chỉ cần hỏi những người từng bị tù, vợ con là ra ngay. Có thể có những ông không nhám tay nhưng quả thực khó tin. Đã vô nghề này mà đã thích món gì thì có ai, có cái gì cản nổi? Còn nhớ những năm đầu thập niên 1930, bọn chúng tôi mặc đồ Thanh niên Tiền phong thi đua nhau trong Kế hoạch Ngũ niên đầu tiên thì mấy ông Mũ xanh đã có lệ tối tối tụ họp giải trí trong các thính phòng sang trọng như của mụ Konkordiya Iosse, ăn chơi theo mốt trưởng giả Tây phương. Mấy cô bạn gái thì xúng xính toàn y phục ngoại quốc đắt giá. Thử hỏi những thứ đó lấy đâu ra?


Hãy chú ý đến điểm nhiều ông Mũ xanh được thiên hạ đặt tên: Phải hiểu là có thế nào mới “tên sao người vậy” kiếm được một biệt danh chớ. Nội một Ty Nội An tỉnh Kemerovo đã có cả một ê-kíp với tên hiệu thật đích đáng. Có ông Công tố “ch.ết” tên Trutnev tức Người Chăn Thú, ông Trưởng phòng Điều tr.a cấp Thiếu tá tên Shkurkin tức ông Vồ, ông Trung tá phụ tá Balandin tức Ăn Đớp… và ông điều tr.a viên Skorokhvatov tức Vơ Vét. Chỉ bằng ấy tên cũng đã diễn tả đủ bản chất của ê-kíp và họ hành nghề như thế nào. Ấy là chưa kể thêm ông Volkopyalov tức Lột Da Sói, ông Grabischenko tức Tướng Cướp. Ngần ấy biệt danh dồn vô một Cơ quan thì phải biết!


Theo hồi ký của Korneyev thì hồi còn ở lao xá Vladimir hắn có hân hạnh được biết một ông bạn tù thật đặc biệt mà hắn lỡ quên mất tên, chỉ nhớ là người bạn thân của mụ Konkordiya Iosse (mà chính Korneyev cũng có giao thiệp một thời). Người từng mang quân hàm Đại tá và là điển hình đúng mức của týp cán bộ cung cấp trong Cơ quan chỉ ham quyền thế và khoái vơ vét. Năm 1945 là năm làm ăn dữ nhất, lẹ nhất để ông đại tá xoay sở, chui được vô một ban béo bổ nhất trong Cơ quan – do đích thân sếp lớn Abakumov đứng đầu “chuyên phụ trách công tác “tịch thu, sung công tài sản”. Còn chỗ nào ngon bằng, tha hồ sung công của địch về làm của riêng!


Ông Đại tá “sung công” vài vật, chất đầy từng chuyến xe lửa, xây mấy vi-la nghỉ mát, một ở Klin. Chiến tranh vừa chấm dứt, người vơ vét được quá nhiều, ăn chơi hủ hoá bằng thích: đại khái trưng dụng trọn chuyến xe lửa để bạn bè du lịch giải trí. Tới nhà ga Novosibirsk, ông Đại tá ra lệnh đuổi hết thực khách trong phòng ăn nhà ga ra ngoài. Đàn bà đẹp được giữ lại, bắt buộc phải đứng lên bàn nhảy thoát y cho cả bọn chiêm ngưỡng chơi.


Nếu chỉ ăn chơi cỡ đó cũng chưa sao. Chớ có đụng đến tài vật của Cơ quan (như điều tr.a viên Kruzkiov). Người vi phạm nặng vụ này mà còn thêm một tội trầm trọng là đụng đến anh em cùng Cơ quan. Vợ con người ngoài thì tha hồ nhưng vợ con anh em đồng sở ông Đại tá cũng không tha. Vả lại còn dám quăng cá, chịu bà nào là nhất định làm bằng được! Đốn mạt cỡ đó thì Cơ quan không thể tha thứ. Bèn trừng trị bằng một bản án chính trị, cũng bị khép vô điều 58. Điểm đặc biệt là nằm khám rồi người còn uất ức, chửi bớI, không ngờ chúng dám bắt láo! Người tin là trước sau thế nào chúng cũng phải suy nghĩ, trả lại tự do (không chừng như vậy thiệt cũng nên!).


Đối với dân Mũ xanh thì lâu lâu cũng có kẻ bị tống vô khám chớ. Tránh sao khỏI, nhưng thấy rõ vết xe trước mà bị vẫn cứ bị. Đã nói cái nghề này đâu có đòi hỏi thông minh, lý trí. Dễ gì đổ bể mà lo. Biết đâu chừng tụi nó bị mà mình thoát. Đời nào anh em nỡ bỏ.


Sự kiện sau quả có đúng. Đời nào anh em bỏ nhau thiệt! Giữa đám Mũ xanh vẫn có một quy ước mặc nhiên là nếu không cứu được nhau thì cũng ráng thu xếp cho, có ở tù cũng sung sướng hơn người. Như ông Đại tá Vorobyev nằm khám đặc biệt Marfino, như chuyên viên Ilin nằm Lubyanka đúng 8 năm. Thực tế là có ở tù vì tội cá nhân gây ra, người của Cơ quan vẫn được đãi ngộ tốt.


Vì lẽ đó đám cán bộ Mũ xanh hầu như có đảm bảo: Làm gì cứ làm, lỡ sơ sẩy ở tù vẫn còn hơn người.


Dĩ nhiên phải trừ vài ca ngoại lệ. Cũng có những Sĩ quan An ninh trại Cải tạo phạm lỗi nặng bị tống vô trại giam thường, ở chung với đám thường phạm hoặc đụng đầu với những thằng Zek ngày nào từng hành hạ nên ăn đòn bằng thích. Như ông Mushin từng hét ra lửa, trừng trị đích đáng bọn tù vi phạm điều 58: chừng người vô trại sợ đòn thù phải nhờ cậy đến đám côn đồ blatnye nhưng rốt cuộc vẫn cứ bị chúng nắm đầu lôi đi dưới gầm giường nhục nhã.


Có trường hợp nhân viên Cơ quan bị vô khám mà có vì tình anh em cũng đành bó tay: đó là những ca bị từng nhóm , từng đợt. (An ninh, Mật vụ cũng vô khám từng đợt vậy chớ). Lỡ kẹt hoàn cảnh này chẳng ai nâng đỡ được ai! Biết vậy nên có máu An ninh, Mật vụ trong người là phải biết đánh hơi để “nhảy” kịp thời, vào phút chót là buông lập tức để khỏi bị dính ch.ết chùm. Phải trở cờ chớ.


Điển hình là vụ ông Đại úy Sayenko [13] người vì tình yêu lấy nàng Kokhanskaya, cựu nhân viên Sở Hoả xa Trung Quốc Viễn Đông. Với tài đốn gió đánh hơi, ông Đại úy biết sắp bùng nổ một đợt tập thể: bao nhiêu người làm Hoả xa sẽ bị hết. Lúc đó Sayenko là Trưởng ban Hành động của GPU địa phương. Ông Đại úy bèn cấp tốc có ngay biện pháp nghĩa là hy sinh con vợ. Không phải ly dị nhau để vợ bị bắt theo đợt tập thể… mà tự mình chế tạo ra một hồ sơ để tự mình bắt. Vì sự “trở cờ tình cảm” kịp thời đó, Đại úy Sayenko không bị mất chức Trưởng ban mà còn nhảy lên chức Ty trưởng NKVD tỉnh Tomska [14] .


Cán bộ Cơ quan bị bắt cả loạt còn vì một định luật tàn nhẫn là đổi týp người cũ để có bộ mặt mới (vả lại phải lọc bỏ một mớ thì những kẻ còn sót lại mới có cảm giác cán bộ tốt). Nghề Mật vụ phải thay người mau để những lớp sóng sau dồn lên thay những lớp sóng trước. Một người rớt phải kéo theo một mớ đàn em, đúng lúc là phải có một lớp hy sinh, không kể cấp bậc địa vị.


Cá gộc Yagoda đi phải kéo theo mớ cá con trong số thiếu gì những tay từng lưu danh trong công trình đào kênh Bạch Hải. Rồi Yezhov lên … và xuống ngay cùng với đám cận thần. Những anh hùng chiến dịch thanh trừng 1937. Đừng quên là Yerzhov lọt vô phòng Điều tr.a cũng ăn đòn như ai, cũng đáng thương vậy! Tù Cải tạo kỳ cựu còn nhớ hồi Yerzhov “xuống” hắn đã kéo theo vô khám cả lô to đầu đang nắm quyền sinh sát trọn quần đảo, sơ sơ cũng có Giám đốc Sở Tài chánh, Giám đốc Sở Y tế, Giám đốc Sở Phòng vệ và luôn cả Chánh Sở An ninh. Bằng ấy cán bộ cao cấp vô tù, Nha Tổng Quản trị các trại Lao động Cải tạo như rắn mất đầu.


Sau này đến lượt Beria và đệ tử.


Trước đó có sếp mập Abakumov rớt một mình. Nếu hồ sơ lưu trữ không bị thủ tiêu thì các sử gia của Cơ quan chắc chắn sẽ có thừa tài liệu để vẽ lại rõ ràng từng đợt lên xuống, xuống lên của những tên tuổi sáng chói.


Xin nhường lại cho các nhà chép sử của Cơ quan làm việc đó. Tôi chỉ nhắc sơ lại mẩu chuyện của ê-kíp Abakumo Ryumin nhưng không nhắc lại những gì đã viết trong tập Tầng đầu địa ngục.


Ai chẳng biết Ryumin là “gà” của Abukumov, được sếp mập cất nhắc lên, đặt vào địa vị quan trọng trong Cơ quan? Cuối năm 1952 bỗng đâu trò đệ trình một hồ sơ tối mật mà chính ông thầy tin không nổi. Ryumin báo cáo đã nắm trong tay vụ giáo sư Etinger âm mưu đầu độc Zhdanov và Schherbakov. Nếu muốn giết thực thì quá dễ vì Etinger đang là y sĩ điều trị tín nhiệm của Điện Cẩm Linh nhưng là bậc thầy của Ryumin sếp mập còn lạ gì “kỹ thuật chế tạo” của trò ruột? Chớ có đùa với lửa. (Thực sự Ryumin đã nắm chắc được tín nhiệm của Lãnh tụ!).


Ngay đêm đó, Abakumov phải đích thân “thẩm vấn” lại Etinger cùng ông học trò ruột nhưng hai thầy trò vẫn bất đồng ý kiến: trò nhất định tin có âm mưu đầu độc, thầy cho là bịa đặt quá lố! Đành phải ấn định một cuộc kiểm chứng chót vào sáng hôm sau, nhưng chịu không nổi thẩm vấn ngay đêm hôm ấy giáo sư Etinger đã ra ma. Sáng hôm sau Ryumin bí mật qua mặt Abakumov, điện Trung ương Đảng xin Lãnh tụ cho gặp gấp, có chuyện tối mật cần diện trình [15] .


Stalin cho gặp ngay, bật đèn xanh cho Ryumin tiến hành hồ sơ đầu độc, qua mặt cả Bộ trưởng Nội An Beria. Dĩ nhiên Abakumov phải vô cát-xô gấp. Ngay từ hồi đó Beria đã có dấu hiệu lâm nguy và không chừng chính người cũng đang chuẩn bị hạ Lãnh tụ.


Chừng Stalin nằm xuống, chế độ mới lên cầm quyền thì một trong những quyết định đầu tiên là triệt bỏ hồ sơ đầu độc, Beria còn quyền hành nhưng trái lại Ryumin bị tống giam tức khắc trong khi Abakumov vẫn nằm Lubyanka.


Chế độ mới thì Lubyanka cũng có lề lối làm việc mới. Lần đầu tiên mới thấy bóng ông Công tố vô tận phòng giam “thanh tra”. Đang nằm cát-xô thấy Công tố viên Terekhov bước vô, phạm nhân Ryumin lấy làm hả dạ và khép nép trình: “Thưa tôi vô tội. Họ tống giam tôi vô cớ…”. Hắn xun xoe xin được thẩm cung lại và đang lúng túng ngậm cục kẹo trong miệng – đó là thói quen xưa nay của ông Phụ tá – ông bị Công tố sửa lưng, Ryumin vội ấp úng “xin lỗi” và ngoan ngoãn nhả ra lòng bàn tay.


Nhưng Abakunov lại khác. Thấy ông Terekho vô thanh tra, hắn cười ầm lên: “Bịp bợm!”. Ông Công tố chìa ra cho coi văn thư chính thức của nhà nước cử vô thanh tr.a nhà lao Bộ Nội An thì hắn gạt đi: “Văn thư này thì làm 500 cái cũng có liền!”.


Lập trường đã rõ ràng, Abakumov cho hay hắn không bất mãn vì bản thân bị tống vô cát-xô mà vì thói quen của Cơ quan bị xúc phạm. Trên đời này có cái gì hơn được Cơ quan?


Tháng 7 năm 1955 Ryumin bị đưa ra toà xử ở Mạc Tư Khoa và bị xử bắn nhưng Abakumov vẫn kẹt trong lao Lubyanka. Trong một buổi lấy cung hắn còn bảo Terekhov:


“Anh có cặp mắt đẹp quá! Phải bắn anh tôi không thấy nỡ [16] . Vậy tôi bảo thực chớ dây dưa vào hồ sơ của tôi. Còn kịp thời giờ bỏ đi!”


Một bữa Terekhov chấp cung Abakumov và đưa cho hắn coi tờ báo đăng tin Beria bị thanh trừng. Hồi đó vụ Beria là cả một đảo lộn động trời. Nhưng Abakumov thản nhiên cầm tờ báo coi như coi tin thời sự và lật qua trang sau coi tin Thể thao! Lần khác có mặt một nhân viên cao cấp trong Cơ quan hồi trước làm dưới quyền hắn, Abakumov có ý kiến:


“Tại sao anh chấp nhận cho bên Công tố lãnh điều tr.a vụ Beria kìa? Phải cho qua KGB chớ”. [17]
Dù nằm khám rồi nhưng sếp mập vẫn có ý thắc mắc những vấn đề liên quan đến nghề nghiệp Cơ quan mà. Sau đó Abakumov hỏi:


“Anh có tin rằng họ dám đưa tôi, một Bộ trưởng Nội an, ra Toà xử đàng hoàng không?”
Nghe thuộc cấp cũ trả lời: “Tôi tin cậy” thì ông cựu sếp sòng Mật vụ cay đắng kết luận:


“Vậy hả? Nếu vậy thì anh chuẩn bị đi. Cơ quan hết thời rồi. Dẹp bỏ là vừa!”


Chưa hẳn Abakumov luyến tiếc Cơ quan nhưng sự thực thì nằm trong lao Lubyanka hắn không hề sợ bị đưa ra Toà xử. Chỉ sợ bị thủ tiêu ngầm, bằng cách đầu độc chẳng hạn. (Vậy mới là sếp Mật vụ đúng truyền thống!). Do đó cơm nhà lao là Abakumov không đụng đến. Hắn chỉ chịu một món: đó là mấy hột gà tự tay mua ở câu lạc bộ (dù sao hắn cũng còn lạc hậu, cho rằng không thể “hạ độc” vào trứng).


Abakumov còn ngược đời ở chỗ thư viện nhà lao Lubyanka đầy nhóc sách nhưng hắn chỉ mượn đọc tác phẩm của Stalin là người ra lệnh tống giam hắn vô tù! Khoái trình diễn vậy thôi chớ hắn đâu chịu tư tưởng của Lãnh tụ, cũng như đâu có tin bọn đàn em, đệ tử ruột của Stalin sẽ lên cầm quyền [18] .


Có dạo người ta hỏi nhau: “Abakumov bị câu lưu nằm Lubyanka cả hai năm rồi, tại sao chưa được phóng thích? Đồng ý là nếu xét về tội ác thì hắn tội cao lút đầu, đẫm máu tanh hôi thật. Nhưng đâu phải một mình hắn nhúng tay vào tội ác. Còn bao nhiêu kẻ khác và họ cũng được trả tự do, an thân rồi mà.


Nói vậy cũng đúng. Nhưng một hồi có tin đồn Abakumov nặng nợ vì một món “ân oán giang hồ”. Hồi còn là điều tr.a viên chính hắn đã “thẩm vấn” nàng Lyuba Sedykh người bị gửi tới Tiểu đoàn trừng giới. Có lẽ Abakumov xuống tay hơi nặng nên Lyuba thành bệnh bỏ mạng luôn, khiến con trai lớn của Khruschhev đâm goá vợ. Đó là lý do bị Stalin tống giam mà Abakumov không được chế độ mới phóng thích. Lại bị truy tố ra Toà Leningrad, phiên toà đặt dưới quyền của ông Chánh thẩm Kruschhev nên bị tuyên án tử hình và bị xử bắn ngày 18 tháng 12 năm 1954. Thế là rồi đời Abakumov nhưng ít nhất hắn cũng không phải thất vọng. Cơ quan không hết thời, dẹp bỏ mà vẫn tồn tại.


*


“Họ từ đâu ra, họ có cùng gốc rễ, máu huyết với chúng ta chăng mà họ ghê gớm thế? Dĩ nhiên là cùng vì tục ngữ chẳng có câu “Ăn mày là ai? Ăn mày là ta” sao? Biết đâu chừng hoàn cảnh đẩy đưa chính anh cũng có thể là một Mật vụ mũ xanh, làm đúng những công việc họ làm vậy chớ.


Riêng tôi thì đang theo học năm thứ ba Đại học – và mùa thu năm 1938 – có chân trong Đoàn Thanh niên Cộng sản, tôi đã được kêu lên trụ sở Quận đoàn hai lần cùng với mấy thằng bạn. Chẳng cần hỏi ý kiến trước, người ta đưa cho tụi tôi một lá đơn, chỉ việc điền vô chỗ trống. Đại khái mấy chú khá Toán, Lý, Hoá, tại sao không làm đơn vô trường Huấn luyện NKVD sau này ra trường có phải hữu dụng cho tổ quốc không?


(Bao giờ chẳng… Tổ quốc cần đến anh. Sẽ có người nhân danh Tổ quốc yêu cầu anh làm, đúng nhu cầu của Tổ quốc!)


Năm trước Quận đoàn cũng đã hô hào chúng tôi đăng vô Không quân. Có ai đang học muốn bỏ dở, chúng tôi đâu đã muốn khoác áo lính. Nhưng lần này chúng tôi né kỹ. Hai mươi lăm năm sau dĩ nhiên chúng tôi có thể nói hồi đó đã thừa biết nghề Mật vụ bắt người, đánh người nên chê không thèm vô. Nhưng không phải vậy. Họ bắt người toàn ban đêm, ban ngày bọn trẻ chúng tôi vẫn sắp hàng đi ca hát vô tư mà. Làm sao biết nổi, mà biết để làm gì? Trọn Ủy ban Tỉnh bị đẩy đi thật nhưng vụ đó có liên quan gì tới chúng tôi? Hai ba giáo sư bị bắt thật nhưng chúng tôi xót thương gì? Không chừng cuối năm thi còn dễ hơn! Lớp tuổi chúng tôi ra đời cùng với Cách mạng, là con đẻ của Cách mạng… tương lai tràn trề quá mà!


Sự thực là ngay từ hồi đó, chẳng lý luận mổ xẻ chúng tôi cũng tự nhiên không chịu vô trường đào tạo Mật vụ mũ xanh.


Mặc dù học xong Đại học ra ngon nhất cũng chỉ vớ được một chân giáo học trường quê ăn lương ch.ết đói, mà vô trường NKVD là lương gấp ba, có phụ cấp khẩu phần đặc biệt. Vậy mà chúng tôi nhất định chê. Tại sao chê chưa biết hẳn và có biết cũng chẳng dám nói ra. Cảm giác ghê sợ, kinh tởm nghề Mật vụ không xuất phát từ óc mà từ con tim. Ai muốn nói gì chúng tôi cũng gật đầu nhận chịu hết nhưng trong lòng là cả một sự chối bỏ, thù ghét. Không có chúng chúng tôi không tham dự.


Nếp sống xã hội Nga vốn vậy. Bao nhiêu năm rồi có thể nói thẳng rằng người tử tế làm công chức ngành nào cũng được trừ ngành Mật thám là chẳng ai ham. Cả trăm năm, cả mấy trăm năm ý thức đó vẫn tiềm ẩn. Ngay từ thời luân lý, đạo đức còn có giá và thiện hay ác lương tâm còn phân biệt được.


Lớp tuổi chúng tôi cũng có vài thằng chịu vô trường NVKD. Giả thử ban Tuyển mộ ép phải vô thì có lẽ chúng tôi chẳng ai dám chê. Tôi cứ tưởng tượng nếu chiến tranh bùng nổ mà tôi đã đeo huy hiệu sĩ quan NKVD thì đời tôi rồi sẽ ra sao? Có thể tôi sẽ tự an ủi hồi đó quá mềm yếu, không đủ sức cưỡng lại đành phải theo nghề Mật vụ. Sau này bị tống vô khám, có dịp nằm nghiệm lại chính cuộc đời binh nghiệp của mình, tôi đâm kinh hoàng.


Hồi đó tôi đang mê Toán nặng. Sinh viên đại học nhưng đi lính đâu có được Sinh viên Sĩ quan. Sáu tháng lính quèn, bụng đói mà lúc nào cũng phải nhắm mắt tuân theo mệnh lệnh của những kẻ không đáng cho mình tuân lệnh. Rồi nửa năm liền bị hành hạ quần quật trong lớp Dự bị Sĩ quan. Không chịu nổi thì suốt đời làm lính chiến mới nghĩ tới đã rùng mình, nhưng rồi cũng được gắn lon, hai ngôi sao tí hon trên cầu vai. Rồi ba sao, bốn sao. Bao nhiêu gian nan, khổ cực quên phứt hết. Còn chút lòng ham mê tự do thuở sinh viên cũng mất luôn. Nhưng khốn nỗi đã nhà binh thì còn gì tự do? Đến đi cũng thích đi chung một đám diễn hành tập hợp quen quá mất rồi!


Tôi nhớ như in hồi mới ở trường Sĩ quan ra, tâm tánh biến đổi kỳ dị, chịu cuộc đời nhà binh ở chỗ cực kỳ giản dị, chẳng cần phải suy nghĩ. Thấy khoái cuộc đời trà trộn với tập thể, sống in như mọi người, nghĩa là sống ào ào với niềm sung sướng quên được nếp sống tế nhị của thời thơ ấu.


Thời gian ở quân trường lúc nào cũng đói, lúc nào cũng chỉ nhìn quanh để rình ăn và thằng nào xoay sở ăn đớp được nhiều là thằng ấy bảnh. Nhưng sợ nhất là rớt giữa chừng, không được ra trường là có chầu ra mặt trận Stalingrad. Có thể nói là chúng tôi bị hành hạ ở quân trường tới khốn khổ tối đa để sau này ra trường hành hạ lại những thằng khác. Chẳng bao giờ ngủ đẫy giấc vì đang ngủ rất có thể bị dựng dậy đi phạt, chạy phạt. Một thằng chùi giấy không sạch là cả tiểu đội chạy phạt đến ngất ngư. Còn phải tập hợp đứng nghiêm, chờ cho đến lúc nó đánh giày láng bóng.


Trong khi chờ đợi cái lon sĩ quan thì đi chúng tôi cũng phải tập đi như cọp, hô phải hô cho rõ to, rõ hách. Mới có lon sĩ quan trên cầu vai, vừa được một tháng điều động một pháo đội ở hậu phương tôi đã hành hạ lính dưới quyền một cách thản nhiên, ông Đại tá thanh tr.a gọi vô khiển trách còn dựa vào “kỷ luật nhà binh” để tự bào chữa. Xét cho cùng trong quân đội thì sự kiêu hãnh cũng tích lũy như lớp mỡ trong cơ thể con heo vậy.


Bằng không tôi đâu dám hò hét ra lệnh cho thuộc cấp, cấm hỏi đi hỏi lại. Lúc nào cũng tự đặt mình vào cấp trên, có quyền đè đầu người khác ở ngoài mặt trận là nơi thằng nào cũng có thể ch.ết như nhau! Mình ngồi nhưng bắt lính đứng nghiêm, bắt bẻ chặn họng và… với những người đáng tuổi cha tuổi ông cũng cứ xưng hô láo xược, xách mé. Bằng không tôi đâu dám giữa lúc pháo kích ầm ầm bắt lính ra sửa hàng rào kẽm gai để thượng cấp khỏi khiển trách (để đến nỗi Binh nhì Andreyashin phải trúng miểng đạn ch.ết). Tôi vẫn thản nhiên ăn bánh mì xăng-uých phết bơ, coi khẩu phần sĩ quan phải vậy còn lính ăn uống những gì thây kệ. Lại còn chiếm riêng một thằng lính đầy tớ (gọi là “cần vụ” cho sang!) để trăm việc sai phái trút lên đầu nó, kể cả việc bắt nấu ăn riêng cho khác đồ ăn của lính. Vậy là hơn cán bộ NKVD rồi. Thẩm vấn viên ở Lubyanka đâu có cần vụ hầu hạ.


Bằng không tôi đâu dám bắt lính trần lưng đào hố cá nhân cho mình mỗi lần hạ trại. Hầm núp sĩ quan phải rộng rãi, nóc hầm phải thật kiên cố! Khốn nạn, có một pháo đội mà cũng bắt lính đào một hầm phạt ngay cả lúc đóng quân giữa rừng. Không đến nỗi tàn tệ như những giếng cạn nhốt người ở trại Gorokhovets vì dầu sao thằng lính thọ phạt còn có một cái áo che đỡ và còn một khẩu phần ăn của lính. Binh nhì Vyushkov đã bị phạt hầm chỉ vì tội để lạc mất con ngựa, Binh nhì Popkov vì tôi xài súng các-bin ẩu. Làm sao quên nổi?


Tôi còn bắt lính khâu cho mình chiếc bao da (tịch thu xe giặc, lấy bao ghế làm thì quá dễ!) để đựng bản đồ, nhưng vẫn lấy làm đau khổ chỉ vì còn thiếu quai đeo: Tiện có chú Ủy viên Du kích Ủy ban Quận đi ngang có đúng cái quai da tôi đang cần, lính của tôi bèn tịch thu liền. Nhà binh phải có quyền ưu tiên chớ. (Đại khái cũng giống như ông Sĩ quan An ninh Senchenko vậy!). Hắn còn cái hộp thuốc màu đỏ, lính của tôi cũng “mượn” cho ông Sĩ quan chỉ huy xài).


Có cái lon trên vai là có quyền hơn người vậy đó! Những lời khuyên “chớ tham của người” của mẹ già ngày nào cũng như lý tưởng bình quyền của chú Thanh niên Tiền Phong không còn nữa. Đúng vào lúc đó thì xảy ra vụ lột lon, giật huy chương. Thắt lưng cũng tịch thu. Chừng bị hộ tống lên xe hơi nhét vô phòng giam Quân đoàn thì tôi là hiện thân của chán chường, tả tơi. Binh sĩ dưới quyền thấy cảnh tượng này thì tôi chịu sao nổi?


*
Nhắc lại hồi tôi bị bắt thì theo thông lệ phạm nhân phải được áp giải từ Ban Phản gián Quân đoàn lên Phòng Phản gián Mặt trận, nghĩa là chúng tôi phải đi chân từ Osterode tới Brodnica.


Lúc ở xà lim chui ra tôi đã thấy có 7 mạng chia làm 3 cặp rưỡi đứng quay lưng lại. Sáu đứa mặc áo lạnh cũ mèm của Bộ binh, phía lưng mờ mờ hai chữ S.U lớn – có nghĩa quốc tịch Nga. Tôi từng thấy nhiều binh sĩ mặc áo này, những đứa gốc Hồng quân bị Đức bắt làm tù binh và được quân ta “giải phóng”. Chao ôi được giải phóng mà mặt đứa nào đứa nấy buồn so vì “quân ta” đối xử lạnh nhạt còn hơn địch. Qua khỏi chiến tuyến là tù binh lại vô trại giam lần nữa!


Đứng lẻ loi ở hàng dưới là một gã Đức thường dân cỡ 50 tuổi, mặt trắng trẻo dáng dấp sang trọng. Đi tù mà hắn còn đóng nguyên bộ com-lê đen, áo khoác ngoài đen, mũ cũng đen. Dĩ nhiên tôi phải tới bên một thằng để ráp vào thành cặp thứ tư. Trưởng ban áp giải là gã trung sĩ người Tatar đưa tay ra hiệu cho tôi xách va-li lên, chiếc va-li đựng đủ thứ đồ và đầy giấy tờ bản thảo.


Tôi nhăn mặt. Sĩ quan mà phải tự vác lấy va-li, do một thằng Trung sĩ chỉ định, vượt mọi nguyên tắc thủ tục. Sĩ quan mà vác đồ nặng để 6 thằng lính quèn kia đi tay không? Lại còn thằng Đức, thằng tù của một nước chiến bại cũng đi tay không nữa? Tôi xét thấy chẳng cần giải thích nhiều nên chỉ nói vắn tắt với Trung sĩ tưởng toán:


“Tôi là sĩ quan. Va-li biểu thằng Đức này mang…”


Nghe tôi nói cả đám vẫn lặng thinh. Sự thực họ đâu có quay cổ lại. Chỉ có thằng S.U. lẻ đi cạnh tôi trợn mắt ngạc nhiên nhưng gã Trung sĩ hiểu liền. Tôi không phải sĩ quan của hắn nhưng vẫn là sĩ quan mà thủ tục nhà binh hắn thấm nhuần cũng như tôi nên hắn gọi ngay thằng Đức bắt vác va-li cho tôi.


Cả bọn lên đường, tay chắp sau lưng. Sáu thằng S.U đều đi tay không. Lúc ra trận thế nào thì khi trở về cũng chỉ có vậy. Tám thằng chia ra bốn cặp nối đuôi nhau lầm lũi đi, triệt để cấm nói chuyện… dù đang đi, nghỉ chân hay ở qua đêm. Đi đường cũng không được đi dính vào nhau, tiếng đi cùng một toán nhưng vẫn không phải riêng rẽ từng thằng, làm như phải vác theo luôn một cát-xô vô hình vậy.


Thời tiết đầu mùa xuân thay đổi bất tử. Lúc thì sương sa nặng hạt, đi trên đường cái sình lầy phát bực bội. Lúc thì mặt trời hé ra được một khoảng tuy nắng chiếu yếu ớt cũng đủ đánh tan lớp sương, soi rõ cảnh vật bên đường mà chúng tôi sắp phải giã từ. Có lúc mây đen kéo tới, những cơn gió lạnh ướt thổi tạt từng mảnh tuyết vào mặt vào lưng chúng tôi rát rạt, mặc áo lạnh giày bốt mà cũng ướt sũng nước.


Trước mặt tôi là sáu cái lưng, lúc nào cũng chỉ thấy lưng. Khoảng cách đều đặn, vừa đi vừa tha hồ ngắm nghía những chữ S.U. vụng về loang lổ khác hẳn cái lưng đen bóng của thằng tù Đức. Nhịp đi chầm chậm, tôi thừa thì giờ suy ngẫm chuyện quá khứ, hiện tại. Nhưng đầu óc tôi mù mờ sau cú búa bổ đột ngột. Có nghĩ ngợi được gì.


Sáu cái lưng vẫn âm thầm, nhẫn nhục tiến tới. Thằng tù Đức xách va-li nãy giờ coi bộ thấm mệt. Đổi tay hoài, hắn còn ôm ngực, lắc đầu ra điều nặng quá, mang không nổi nữa. Gã S.U. đi bên cạnh vội tình nguyện đưa tay ra vác giùm một lúc (dù mới đây chính hắn còn là tù binh của Đức). Sau đó chiếc va-li được âm thầm chuyền tay mấy thằng S.U. kia, mỗi thằng vác một khoảng. Rồi đến lượt thằng Đức trở lại. Tất cả tình nguyện vác, trừ tôi. Chẳng ai buồn nói với tôi một tiếng!


Giữa đường gặp một đoàn xe bò, toàn xe không. Thấy cảnh áp giải tù, mấy thằng đánh xe bèn đứng lên nhìn cho rõ. Tôi bỗng khó chịu vì bao nhiêu cặp mắt bỗng hướng về phía tôi, ngạo nghễ và trêu chọc cái điệu: “Ô hay, sĩ quan mà cũng tù hả? Vậy cho đáng đời!”. Gốc sĩ quan của tôi thì rành rành ở bộ quân phục mới, quần áo cắt vừa vặn, cầu vai cũng còn y nguyên, mấy hàng nút mạ vàng rẻ tiền chiếu lấp lánh. Nội những ánh mắt soi mói, tách rời tôi ra khỏi nhóm cũng đủ biểu lộ họ đang nghĩ gì. “Phải vậy mới công bằng, cho nó nếm mùi tù tội”, chớ không lẽ bắt tội mấy thằng lính? Thấy thằng sĩ quan là tôi cũng đi tù lẫn lộn cùng đám lính làm như họ hả hê lắm. Biết đâu chừng Đại đội trưởng của họ rồi cũng có phen “xuống chân” như thế này.


Ngay lúc đó tôi có cảm giác bị họ liệt về phe địch. Phải là gián điệp, phá hoại! Cho nên có thằng hét lên:
“A, lại một thằng Vlasov phản động! Còn chạy đâu nữa. Bắn bỏ cho rồi!”


Một hai đứa dám chửi là cả bọn nhau nhau hướng về phía tôi tuôn ra những lời chửi bới thô bỉ, tục tĩu nhất. Họ chửi hăng lắm, coi bộ yêu nước lắm (thì ở hậu phương bao giờ chẳng vậy!). Họ nghiễm nhiên liệt tôi vào hàng điệp viên đế quốc bị lột mặt nạ nên bị bắt sớm ngày nào quân ta có thể tiến nhanh ngày ấy, không chừng chiến tranh mau chấm dứt hơn cũng nên.


Khốn nạn bị áp giải đi trong đoàn tù, tôi đâu có quyền lên tiếng giải thích hay cãi lại? Tôi có cách nào cho họ biết tôi không phản bội, không phải điệp viên phá hoại? Tôi là bạn họ, vì họ mà tôi phải chịu cảnh này! Không nói được thì tôi cố mỉm cười với họ, cười thông cảm thân thiện vậy. Nhưng thằng tù đang bị áp giải là tôi vừa nhe răng ra cười thì họ còn bực bội hơn nhiều. “Mày còn dám cười hả?”. Bao nhiêu cánh tay đưa lên dậm doạ, bao nhiêu câu chửi tàn tệ, lại hướng cả về tôi.


Lúc bấy giờ quả tình tôi cười kiêu hãnh. Tôi đâu phải bị họ bắt vì tội trộm, vì phản bội hay đào ngũ? Không, tôi đã âm thầm lý luận, tôi đã tìm ra nhược điểm tệ hại của Stalin. Tôi cười vì thực tâm nghĩ rằng bề nào cũng còn có thể đóng góp được phần nào trong việc cải sửa lại nếp sống của đất nước này.


Tôi nghĩ vậy, nhưng chiếc va-li của tôi thì vẫn để cho người khác mang: Tôi không hề cảm thấy làm vậy là vô lý. Cho dù thằng bạn tôi đang đi cạnh tôi – mắt trõm sâu đau khổ, râu đâm tua tủa – có dùng thứ ngôn ngữ sáng sủa nhất để bảo thẳng vào mặt tôi rằng thân phận thằng tù mà có cái va-li còn bắt người khác mang là bậy… là lên mặt làm cao, làm bộ ta đây cũng được. Thây kệ nó. Tôi không cần biết. Tôi là sĩ quan mà.


Giả dụ 8 đứa cùng đi bữa đó có 7 thằng phải ch.ết, chỉ 1 thằng được sống chắc chắn tôi sẽ la lớn lên không ngần ngại:
“Trung sĩ! Để tôi sống. Tôi là sĩ quan mà!”


Ấy đấy, sĩ quan tác chiến còn vậy. Giả thử có hai cầu vai xanh Sĩ quan An ninh, người của Cơ quan thì còn tới cỡ nào?


Phải biết người của Cơ quan tất nhiên phải được nhồi sọ rằng cũng là Sĩ quan nhưng Sĩ quan Mũ xanh phải hơn hẳn, là thành phần ưu tú nhất nên hiểu biết nhiều hơn, trách nhiệm nặng hơn. Do đó có tr.a tấn người cũng chỉ để chu toàn trách nhiệm.


Tôi thành thực nghĩ nếu được đào tạo ở NKVD ra chắc tôi cũng không khác gì họ. Vô Cơ quan dưới thời Yerzhov chắc chắn tôi sẽ thành cán bộ đắc lực dưới thời Beria! (Vì thế độc giả nào còn nghĩ rằng QUẦN ĐẢO NGỤC TÙ rõ ràng có lập trường chính trị nhằm tác dụng chính trị hãy gấp sách lại giùm).


Chuyện đời đâu có giản dị vậy. Đâu phải có một lớp ác nhân chuyên làm ác, mình chỉ việc tách rời chúng ra để tận diệt chúng là xong chuyện.


Con đường phân ranh giữa thiện và ác, trái và phải, chao ôi lại nằm đúng con tim của chúng ta. Đụng đến quả là đau đớn! Con đường đó đâu chịu đứng y chỗ. Nó có thể bị sự tàn ác chen lấn, ép hẳn sang một bên mà cũng có thể tự nó chạy nép sang bên nhường chỗ cho thánh thiện nảy mầm. Con người ta biến dạng thành người khác hẳn là thường. Chỉ vì thời gian, hoàn cảnh mà con người có thể cực xấu hay cực tốt. Xấu tốt lại có thể lẫn lộn, dù con người vẫn mang cùng một tên.


Nếu Socrate từng khuyên: “Chính anh hãy tự biết mình anh”, thì tục ngữ Nga cũng có câu: “Từ thiện sang ác chỉ nhấp nháy”, nên ta có thể hiểu hiểu ngược lại: “Từ ác sang thiện cũng vậy”.


Còn nhớ sau khi lòi ra những chuyện bê bối ở Cơ quan cũng phải có người này, người khác. NKVD hay KGB thiếu gì người tốt.


Đúng thế, nếu chữ tốt ở đây hiểu theo nghĩa có đồng chí bị bắt dám lén rỉ tai: “Ráng vững lập trường”, rồi tiếp tế cho ít mẩu bánh mì nhưng sau đó sẵn sàng chà đạp lên những miếng bánh mì khác. Còn tốt hiểu theo nghĩa thông thường, nhân đạo thì không hiểu Cơ quan có người tốt thiệt chăng?


Sự thực là KHÔNG. Người tốt, người lành là Cơ quan chê trước, gạt bỏ ngay từ lúc tuyển mộ. Thiếu gì người được chiếu cố cũng tìm đủ mọi cách vùng thoát. [19] Đã lỡ vô Cơ quan ăn lương thì chỉ có hai cách: một là tự thích ứng với hoàn cảnh, hai là chờ Sở cho thôi việc hoặc tống vào tù. Như vậy lấy đâu ra người tốt? Vậy mà vẫn có.


Như gã Trung úy trẻ dám rỉ tai linh mục Viktor Shipovalnikov một tháng trước: “Trốn đi. Họ sắp bắt cha đó”. Cha Viktor không chịu trốn và bị bắt thật. Hắn lại được cử tới canh chừng và vò đầu bứt tai: “Sao cha không trốn đi cho rồi?”.


Ngược lại là trường hợp biến tính của Ovsyannikov, một Trung úy Trung đội trưởng thân cận nhất của tôi ở đơn vị, từng “ăn cùng mâm ngủ cùng chiếu” nhiều phen. Địch pháo như mưa tụi tôi cũng cứ húp súp sì sụp chỉ sợ nguội. Theo tôi vốn gốc nông dân thuần túy, Ovsyannikov là con người bộc trực, thẳng thắn mà quân trường hay đời sống nhà binh không làm hư hỏng nổi. Hắn thương lính đến độ lo bảo vệ sinh mạng tối đa mà còn lo luôn sức khoẻ cho mấy bác lính già kia mà.


Nhiều lần thấy tôi bất mãn, hắn an ủi bằng những mẩu chuyện thiết thực “thấy sao nói vậy” về đời sống miền quê, về nông trại. Nghe tôi bị bắt hắn rất buồn bực, viết báo cáo đề cao thành tích chiến trường của tôi, đưa lên Tư lệnh Sư đoàn ký đàng hoàng. Giải ngũ ra hắn lui tới hỏi thăm giúp đỡ gia đình tôi… dù năm 1947 là năm dữ không thua gì 1937. Thời gian bị thẩm vấn tôi cứ nơm nợp sợ hắn bị liên lụy vì có tên trong tập Nhật ký chiến trường.


Ở trại Cải tạo ra năm 1957 là tôi để ý tìm Ovsyannikov. Thư từ thăm hỏi nhiều lần mới được Trường Sư phạm Yuroslav cho tin hắn được đổi sang Bộ Nội An! Người như hắn Cán bộ Cơ quan sao? Hồi tôi xuất bản cuốn Ivan Denisovich cũng chẳng có tin, chẳng thể gặp mặt (Điều tr.a viên cần gì phải biết đời sống của một thằng tù!).


Mãi sau này nhờ người đưa thư tận tay, tôi mới nhận được vài hàng chữ của cố nhân Ovayannikov đại khái:


“… Ở Trường Sư phạm tôi được chuyển về Cơ quan và tôi nghĩ cứ lo công tác đắc lực thế nào cũng được cấp trên biết đến cất nhắc lên. Đồng ý là cũng còn vài chuyện bất như ý nhưng nói chung ở đây có điều kiện thăng tiến, có tình đồng chí. Khỏi bận tâm nghĩ ngợi về tương lai”.


Thì ra ông Trung úy gốc nông dân chất phác, bộc trực đã biến hình biến tính hẳn sau khi trở thành cán bộ Cơ quan Ovsyannikov. Những năm cuối thời Stalin hắn đã cộng tác đắc lực nhằm thăng tiến nghề nghiệp bằng cách phạm nhân nào lọt vào tay hắn là lãnh án tối đa, 25 năm đi đày trại Cải tạo! Ai ngờ con người có thể biến đổi toàn vẹn, ghê gớm cỡ đó?


Nghề Mật vụ là như vậy nên cán bộ Cơ quan lâu lâu cũng gặp thế kẹt khó chịu như điều tr.a viên hung thần Goldman bị với nữ phạm nhân Vera Korneyeva. Bị thua trí thật đau mà không làm gì được, vì bao nhiêu đồng chí “ủng hộ” mụ, ngay trong văn phòng Cơ quan.


Chẳng là bữa làm xong cung, Goldman phải đưa cho phạm nhân Vera coi lại và ký. Ký thêm “Tờ cam kết không tiết lộ”, đúng thủ tục 206. Đằng nào cũng bị nên Vera làm bộ công dân tốt, xin ông điều tr.a viên cho hành xử đúng mức quyền coi lại khẩu cung và thủng thỉnh đọc từng hàng một xấp hồ sơ cung từ của 17 đồng phạm trong nhóm “tôn giáo phản động”. Giận như điên song Goldman buộc lòng phải để phạm nhân đọc lại, đúng luật nhà nước. Nhưng đợi mụ đọc xong thì quá buồn ngủ nên điều tr.a viên Goldman hậm hực lôi Vera ra phòng ngoài có một số nhân viên đang ngồi làm để chỉ chỗ cho ngồi đọc chừng nào xong thì xong. Hắn bực bội bỏ đi chỗ khác.


Thoạt đầu Vera Korneyeva cắm cúi ngồi đọc một mình. Thấy lạ một vài gã tới hỏi chuyện chơi vì họ làm mãi cũng phải buồn chớ. Vera “bắt chuyện” rồi thêm vài kẻ tới bàn góp, biến thành một cuộc thảo luận rồi thuyết giảng lúc nào không hay! Dĩ nhiên kẻ đứng lên diễn thuyết là nữ phạm nhân Vera. Diễn giả hăng hái, ăn nói hoạt bát, vài chục thính giả (ở các phòng bên thấy lạ chạy ra nghe) chăm chú theo dõi, có người còn đứng lên chất vấn yêu cầu giải thích rõ nữa! Dù diễn giả ngoài đời chỉ là thợ tiện, chăn nuôi gia súc nhưng điểm đặc biệt là dám xác nhận tín ngưỡng và mạnh dạn nói lên giữa văn phòng Cơ quan, cho chính cán bộ Cơ quan nghe!


Dĩ nhiên những đề tài Vera nói chẳng hiểu gì. Toàn giọng điệu bất mãn, phản động, chống đối chính sách nhà nước! Thực tế có bao giờ nước Nga chịu nghèo nàn, khổ sở cỡ này! Sao cứ bắt bớ, khủng bố mãi các công dân lương thiện, ghép họ vào tội phản quốc để hạ sát, hạ ngục? Vậy khác nào nhà nước “tự chặt chân chặt tay” xã hội đã khốn đốn càng sa sút thêm, cũng như đàn áp tôn giáo chỉ làm cho các tín đồ bất mãn, vô tình đẩy họ vào thế phải chống lại chính sách nhà nước.


Dĩ nhiên Vera gặp đâu nói đấy nhưng bữa đó thuyết giảng thật say vì thính giả cũng khoái nghe nhiều chuyện lạ. Bằng không lúc điều tr.a viên Goldman hay tin hốt hoảng chạy vô la lối đã chẳng bị chính các đồng chí cùng sở phản đối om sòm:


“Đi chỗ khác chơi cho nhờ tí nào! Yêu cầu đồng chí im đi để nghe người nữ này nói. Nói tiếp đi…”


Vậy là Goldman đành chịu làm thính giả luôn để nghe người nữ Vera diễn giảng tiếp! Xin để ý danh từ người nữ họ dùng bữa đó. Một nữ phạm nhân đang bị thẩm vấn trong Cơ quan chẳng thể gọi bằng “bà” hay “cô, chị”… Gọi bằng “đồng chí” hoặc “nữ công dân” còn bất tiện nữa! Sao bằng bất ngờ nghe diễn giảng tôn giáo thì dùng luôn danh từ người nữ, chữ của Đấng Christ.


Mẩu chuyện trên quả là tối bất thường trong sinh hoạt Cơ quan. Bình thường đã có nếp sẵn rồi: ngay Công tố viên Terekhov cũng chỉ thắc mắc, thương hại cho thằng tù đầu tiên mà hắn ký án tử hình. Hắn thú nhận có xúc động thiệt, nhưng chỉ một lần thôi. Sau này hắn xử tử bao nhiêu người không biết và dĩ nhiên không đếm nữa! [1]


Theo nhân chứng N.P. thì cán bộ cơ quan còn bọn nào lạnh lùng, sắt đá bằng cai ngục? Nhưng trong giây phút nào đó họ vẫn để lộ chút đỉnh nhân tính, như mụ cai ngục Trung ương khám đường Lêningrad áp giản nhân chứng đi thẩm vấn. Mặt mụ trơ như đá, mắt mở trừng nhưng vô hồn! Bỗng đâu có trái bom rớt kế bên khám đường, nổ như trời sập làm mụ gác khám hốt hoảng quá, quên mình là gác khám để ôm cứng lấy phạm nhân…sẵn sàng chia sớt tai nạn. Qua cơn oanh tạc thì nét mặt mụ trở lại lạnh như tiền, máy móc hô: “Đi mau… Tay đưa sau lưng…”


Xưa nay người ta thường quan niệm một người độc ác: “Ông ấy đối với vợ con đàng hoàng quá mà?”. Sự thực khác hẳn. Như ngài Chủ tịch Tối cao Pháp viện Golyakov ai chẳng ca tụng là người “giản dị, rảnh rang ưa làm vườn chăm sóc cây cỏ và chỉ có thú vui duy nhất là chơi sách”. Người yêu sách thực tình, nghe nói chỗ nào có sách cũ quý báu là tới gấp, cũng như đọc không sót tác phẩm Tolstoi, Korolenko, Chekhov thật. Thích sách, khoái văn chương lắm nhưng ngài Chủ tịch Tối cao Pháp viện cũng từng lên án tử cả ngàn con người vậy.


Còn ông Đại tá cần đến chút xíu nhược điểm đó cũng như hai thế kỷ nay giới lao Mật vụ cần đến mà xanh, màu xanh da trời để khoác lên cho nhân viên vậy. Nhân viên an ninh là phải đồng phục xanh da trời như thi sĩ Lermontov xưa kia ca tụng. Mũ xanh, cầu vai, huy hiệu nền xanh. Dù có lệnh nhân viên Cơ quan không được ăn mặc lộ liễu tạo sự tò mò, chú ý của quần chúng nên những món đồ trang trí là cầu vai, huy hiệu vẫn bắt buộc phải màu xanh da trời nhưng thu nhỏ bớt lại cho khỏi đập vào mắt.


Bất quá màu xanh da trời cũng chỉ được sử dụng để che lấp bớt màu đen, che bớt những hành động trong bóng đêm đen.


Có những hành động đen cần giấu cho kỹ chớ. Tay tổ Mật vụ Yagoda hẳn là rành nghề che đậy những vụ như dưới đây. Có mấy ai biết được – ngoài đám thân cận của nhà văn Gorky là người bồ bịch nhất với Yadoga hồi đó – là ông sếp Nội An có trò chơi bắn súng thật thú vị để thưởng thức với bè bạn. Vi-la của Yagoda có phòng tắm rất bảnh, phía ngoài là cả một hành lang dài bày thật nhiều tượng thánh. Trước khi vô phòng tắm, bọn Yagoda có cái khoái ở trần truồng xách súng lục nhắm nổ những pho tượng đó để tập bắn cho quen tay.


Hiển nhiên đây là một trò chơi vô ý thức, độc ác. Nhưng làm vậy để làm gì? Có thực bọn họ dám chơi ác khơi khơi vậy?


Cũng mong là thế gian này không có kẻ ác để bọn ác nhân chỉ có trong truyện nhi đồng thời cổ. Nhưng từ ngày các đại văn hào cỡ Shakespeare, Schiller, Dicken chế tạo ra những nhân vật càng ngày càng độc ác thì chính những ác nhân ngày xưa lai đâm ra quá hiền, hiền đến độ tội nghiệp! Kẻ ác thời xưa dám tự nhận họ tàn ác, linh hồn đen tối. Họ dám thẳng thắn tự thú:


“Tôi làm ác quen rồi, bằng không sống không nổi. Tôi khoái tạo ra cảnh cha con chém giết nhau. Họ càng đau khổ tôi càng say sưa thưởng thức những đau khổ đó!”


Giờ đây có ai chịu nhận tiếng ác một cách dễ dàng vậy? Muốn làm ác con người thời nay trước hết phải tự tin là họ làm lành, phải làm như vậy mới đúng luật thiên nhiên. Họ phải tìm bằng được mọi lý luận để biện minh là họ làm đúng. Ngày xưa Macbeth cũng từng biện minh nhưng đã biện minh yếu xìu nên mới có vụ “lương tâm cắn rứt”. Chính tay tổ Yadoga cũng tự biện minh được mà. Tuy nhiên Shakespeare nếu có dựng vai trò đại ác thì cũng chỉ dám cho nhúng tay vào máu cỡ một chục mạng là tốp. Vì họ chưa có Ý THỨC HỆ.


Chính ý thức hệ là một biện minh vô cùng hữu hiệu cho bất cứ một hành động tàn ác nào là điểm tựa cần thiết thúc đẩy bọn ác nhân xuống tay thẳng cánh. Có ý thức hệ để biện minh thì có phạm tội cũng phải được hiểu là làm điều thiện, do đó không được kết án, nguyền rủa, mà còn phải tuyên dương, ca ngợi.


Thì ra ý thức hệ đã được sử dụng để con người có quyền phạm tội. Bọn xâm lăng đi chinh phục những nước khác cũng vì Tổ quốc vĩ đại. Đám thực dân chiếm thuộc địa nhân danh văn minh, khai hoá. Bọn Quốc xã vì thuần khiết dòng giống Nhật nhĩ mãn. Và sau cùng đám dân chủ giả hiệu xưa và nay thì nhân danh bình đẳng, bác ái và hạnh phúc của thế hệ mai sau.


Chính vì ý thức hệ mà thế kỷ XX đã chứng kiến người tàn sát người, tính bằng số triệu. Đó là một sự kiện bất khả chối cãi, một tội ác không thể vượt qua. Có tội ác dĩ nhiên phải có người phạm tội. Nhưng ai dám phạm tội vĩ đại như vậy? Ai? Phải có. Nếu không thì lấy đâu ra quần đảo ngục tù?


Giữa khoảng 1918-1920 có tin đồn cơ sở Cheka Petrograd của Uritsky, cơ sở Odessa của Deich không thèm xử bắn phạm nhân mà liệng thẳng vô chuồng cọp sở thú. Bao nhiêu người từng nạp thịt cho ác thú như vậy? Có thực vậy không hay chỉ là bịa?


Thật ra tôi cũng chẳng bận tâm đòi bằng chứng mà bắt chước lề lối làm ăn của nghề Mật vụ, chỉ yêu cầu họ thử chứng minh ngược lại, nghĩa là không, hễ có vụ lấy thịt tù nuôi cọp. Xin cho biết mấy năm đói kém người còn đói thì lấy đâu ra thịt nuôi cọp sở thú? Có thể truất phần ăn của thợ thuyền, lao động được không? Trong khi đó đằng nào bọn tù cũng phải ch.ết sao bằng lấy thịt của chúng nuôi cọp ăn cho khỏi tốn kém? Một biện pháp tiết kiệm đóng góp cho nền kinh tế mau thăng tiến.


Đó chính là lằn ranh mà Shakespeare không dám cho những tên đại ác vượt qua. Với ý thức hệ thì ranh giới vượt qua dễ dàng! Khỏi xúc động, khỏi lương tâm cắn rứt.


Lằn ranh này không khác biên giới của Vật lý học, phải hội đủ điều kiện mới có thể vượt biên. Chẳng hạn một mảnh lithium rọi tia sáng màu vàng mạnh thế nào cũng không phát tia điện tử, nhưng chỉ cần một tia yếu ớt, màu xanh là có phản xạ liền. Dưỡng khí xuống 100 độ dưới không độ thì tha hồi tạo áp suất cũng vẫn là chất hơi. Phải 183 độ dưới không độ thì dưỡng khí mới biến sang thể nước. Lương tâm con người cũng có lằn ranh: Con người có thể suốt đời hoặc xấu hoặc tốt hay lúc xấu lúc tốt, nhưng miễn còn ở bên này ranh giới thì ác cũng còn có thể thành thiện, còn hy vọng cứu vãn nổi. Nhưng nếu tội ác chất chồng vì tính ác hoặc vì nhiều quyền thế tạo ra tội ác để đột ngột nhảy vọt qua lằn ranh, đứng hẳn sang bên kia biên giới của lương tâm thì con người vĩnh viễn chẳng bao giờ hồi đầu lại được.


“Từ thời thượng cổ thời đại công lý vẫn giản dị là đạo đức thắng và tội ác bị trừng phạt.”


Thời buổi của chúng ta đạo đức không thắng nhưng chưa đến nỗi lúc nào cũng bị xé tả tơi bởi những hàm răng chó. Đạo đức còn có chỗ ngồi, dù tả tơi khốn khổ cũng còn được phép ngồi vô một góc, miễn đừng lên tiếng.


Tội ác thực sự thì chẳng ai dám hó hé. Giả đạo đức cũng chẳng sao, chẳng phải là cái tội. Bao nhiêu triệu thường dân bị mất mạng nhưng thủ phạm thì không có vấn đề trừng phạt. Vừa mới hó hé: “Còn những người đã bị…” đã gặp muôn miệng nhao nhao phản ứng. Mới đầu hãy “khuyến cáo”: “Kìa, đồng chí nói gì vậy? Mấy vết thương ngày xưa… khơi dậy làm chi?” [2] . Nếu không biết đều tốp sẽ có chầu đe doạ bằng gậy: “Câm họng! Anh bị như vậy chưa tởm hả? Anh tưởng khôi phục xong (quyền công dân) rồi đấy?”.


Trong khi đó, cho đến năm 1966 nội bên Tây Đức cũng đã có tám mươi sáu ngàn phạm nhân chiến tranh Quốc Xã bị đưa ra Toà lãnh án [3] . Vậy mà đất nước chúng ta vẫn sôi sục căm thù. Báo chí, rađiô hò hét tối đa, mít tinh biểu tình om sòm để công kích, phản đối: “Ít quá! Phạm nhân chiến tranh mà chỉ có tám mươi sáu ngàn tên thì quá ít. Hai mươi năm còn nhẹ quá! Phải xử tội nhiều nữa, xử nặng nữa”.


Cũng trong thời gian đó đất nước chúng ta trừng trị bao nhiêu phạm nhân chiến tranh? Vỏn vẹn khoảng mười tên, căn cứ theo tài liệu chính thức của Ban Quân sự, Tối cao Pháp viện Liên bang Xô Viết.


Thì ra chúng ta hô hào trừng trị phạm nhân chiến tranh, nhưng ở bên Đức. Còn bọn ở vùng phụ cận Mạc Tư Khoa, ở trong các biệt thự bãi biển Sochi thì vô tội. Chúng ta còn tránh đường cho bọn họ đi, làm như bọn họ không liên can gì đến sự thảm tử của bao nhiêu người chồng, người cha Xô Viết. Đừng nhắc tới là: “Đào bới dĩ vãng làm chi!” Đừng quên rằng tính tỷ lệ dân số, nếu Tây Đức có 86 ngàn phạm nhân chiến tranh thì đất nước chúng ta hẳn không dưới một phần tư triệu!


Vì sợ khơi dậy những vết thương dĩ vãng mà 35 năm sau chúng ta vẫn không truy cứu, xét xử ai hết. Điển hình nhất còn ai bằng Molotov, con người cố tình ù lì không biết gì hết, nhưng máu dính đầy người và ngày giờ này ung dung cư ngụ ở số 3 đại lộ Granovsky, ra ngoài đường một bước cũng ngự chiếc xe hơi khổng lồ! Cũng phạm nhân chiến tranh, cũng nhúng tay vào tội ác mà Đức trừng phạt được còn Nga thì không. Đoạn đường tương lai rồi sẽ ra sao nếu có ung nhọt mà không tẩy uế? Hết còn “làm gương cho thế giới soi chung”!


Một sự kiện nổi bật trong những phiên xử phạm nhân chiến tranh ở Đức.


Thỉnh thoảng lại có một bị cáo hai tay che mặt, không thanh minh nữa, không xin Toà khoan hồng. Họ thú nhận là trước Toà, chỉ nghe lại những tội ác của chính họ ngày nào cũng ghê tởm, chán nản đến không muốn sống nữa. Đó mới là hình phạt nặng nhất, buộc bị cáo phải kinh tởm những tội ác do họ gây ra. Bị lần lượt lên án 86 ngàn lần trước Toà, bị chính thế hệ sau và báo chí dư luận trừng phạt như vậy thì tội ác hiển nhiên tẩy sạch.


Trong khi đó thế hệ chúng ta sẽ bị đời sau liệt vào hạng mềm lưng, vô tích sự. Đã khứng chịu xuôi tay để bọn họ làm thịt đến số triệu lại còn lo đãi ngộ xứng đáng quân sát nhân ở tuổi “mãn chiều xế bóng” của chúng! Biết làm gì đây khi truyền thống hội ngộ của nước Nga xưa đối với họ là cả một sự vô lý? Biết làm gì khi chỉ cần khui lai một phần trăm tội ác ngập ngụa thì chính sự hãi hùng kinh hoảng của họ cũng đánh dạt những ý thức Công lý. Khi quyền lợi của họ được tưới bằng máu nạn nhân và chính họ nhất định níu cứng lấy.


Phải hiểu rằng lớp người đích thực chỉ huy guồng máy nghiến thịt người từ 1937 trở lại đây hẳn không còn trẻ nữa. Họ phải từ 50 đến 80 tuổi rồi. Nghĩa là ở thuở trai trẻ đã hưởng thụ bằng thích, họ đã sung sướng đã đời rồi, ngày giờ này biết trừng phạt cỡ nào, bao lâu nữa cho cân xứng tội lỗi?


Dĩ nhiên chúng ta không mang họ ra xử bắn. Chúng ta cũng không thèm bắt họ nếm những ngón đòn tr.a tấn đặc sắc của chính họ. Đại để dộng nước muối vô họng, cho rệp hút máu đến lả người, uốn ngược cho cong xương sống, cấm ngủ trọn tuần, lấy mũi giày nghiến chỗ kín hay dùi cao su đặc, đánh đai sắt quanh xương sọ, nhét vô xà lim như cá hộp… Không, chúng ta không thèm trả thù như vậy. Vì đất nước này, vì tương lai của thế hệ mai sau chúng ta có bổn phận phải truy lùng bằng hết, phải đưa bọn trọng phạm ra Toà xét xử. Không cần vạch rõ từng tội mà chỉ buộc từng tên một phải lớn tiếng xác nhận rằng:


“Tôi là đao phủ. Tôi đã giết người!”


Một câu đó nhắc đi nhắc lại hai trăm năm mươi ngàn lần hẳn phải đủ chớ? Nhưng 250 ngàn lần vì không lẽ chúng ta chịu thua Tây Đức? Không lẽ ở giữa thế kỷ thứ XX này lại có thể có sự mù mờ, không phân biệt nổi thứ trọng tội ác ôn bắt buộc phải đưa ra Toà trừng trị với cái gọi là “dĩ vãng” không nên “khuấy động” trả lời?


Chúng ta phải công khai lên án chính cái tư tưởng một vài người có quyền đàn áp những kẻ khác. Biết là tội ác mà ngậm miệng, vùi sâu nó xuống để không ai nhìn thấy nữa là gieo giống cho tội ác nảy mầm để sau này độc hại ngàn lần hơn. Biết bọn phạm tội không trừng trị, trách phạt còn dung dưỡng khác nào tự tay phá vỡ nền móng Công lý tương lai.


Vì công lý rạn nứt từ nền móng, thế hệ mai sau sẽ trưởng thành trong dửng dưng. Không phải thiếu căn bản học tập tư tưởng. Chắc chắn bọn trẻ sẽ lớn dần với ý tưởng phạm tội đã chẳng sợ trừng phạt mà cuộc đời rõ ràng khấm khá. Chao ôi, sống sao nổi trong một xã hội ung nhọt cỡ nào!






Truyện liên quan