Chương 10: Mùa xuân năm ấy 2

Bọn chiến binh Vlasov tôi biết từ lâu. Nhưng chỉ biết đại khái cho đến lúc tình cờ gặp gỡ trong xà lim. Lần đầu tiên tôi được biết nhờ mấy tờ truyền đơn nằm dầm mưa dãi nắng từ hồi nào – có dễ 3 năm vẫn nằm y chỗ ở mấy đám cỏ mặt trận.


Tháng 12 năm 1942 nghe nói có một tổ chức được dựng lên ở Smolenk mệnh danh “Ủy ban Nga” tự nhận như một chính phủ nhưng không ra thể thống chính phủ. Có lẽ hồi Đức cũng chưa tính dứt khoát nên cầm tờ truyền đơn coi rõ ngay là thứ giả. Chân dung tướng Vlasov được in một bên, kèm theo tiểu sử, thành tích. Tấm hình lâu ngày coi nhòe nhoẹt, khuôn mặt Vlacov coi đầy đặn, no đủ rõ ra một ông tướng chế độ mới. Đám thân cận sau nay cho biết khuôn mặt Vlasov đâu có vậy? Khuôn mặt Vlasov trái xoan, xương xương, mang kính gọng đồi mồi trông gần gũi với cấp tướng lãnh Tây phương.


Theo bản tiểu sử thì cuộc đời Vlasov rõ ràng lên, lên mạnh. Xuất thân con nhà nông, cho đến 1937 vẫn cứ là cả một chuỗi thành công, dù có một thời sang Tàu làm cố vấn quân sự cho Tưởng Giới Thạch. Thất bại duy nhất của Vlasov là hồi nắm Quân đoàn II xung kích, lớp bị quân Đức bao vây, lúc bị cúp mọi đường tiếp tế…trọn quân đoàn bị bỏ đói đến bay luôn. Cố nhiên bản tiểu sử thì hay lắm nhưng có thể tin được tới bao nhiêu phần trăm thì còn tùy.


(Sau này kiểm chứng lại được thì những nét chính trong cuộc đời tướng Vlasov có thể tóm gọn như dưới đây. Đang theo học Đại chủng viện Công giáo Chính thống Niznhi Novgorod thì cách mạng nổ bùng phải bỏ dở nhập ngũ làm binh nhì Hồng quân, và theo đơn vị xuống miền Nam đánh dẹp phe Denikin và phe Wrangel. Lên cấp Trung đội rồi Đại đội trưởng. Những năm 1920 theo học mãn khoá đào tạo cán bộ chỉ huy Vystrel, năm 1930 gia nhập Đảng. Năm 1936 Trung đoàn trưởng Vlasov được biệt phái qua làm cố vấn quân sự cho Tưởng Giới Thạch. Nhờ không có liên hệ với đám chóp bu trong quân đội và Đảng nên đúng là thứ “sĩ quan cấp dưới đang lên” thời Stalin để trám vào những cấp tướng lãnh vừa bị thanh trừng. Năm 1938 Vlasov đã nắm tới sư đoàn, theo lon mới là Trung tướng nhưng giữa đám tướng lãnh mới được cất nhắc lên thì phải nhận là tướng Vlasov nổi bật nhất. (Sư đoàn 99 BB do Vlasov đào tạo ra từ mùa hè 1940 quả nhiên chống cự được ngang ngửa với quân Đức trong khi toàn bộ rút lui còn tiến chiếm được Przermist cố thủ luôn 6 ngày).


Năm 1941 Đại tướng Vlasov nhảy cú một lên Tư lệnh Quân đoàn 37 trấn giữ vùng Kiev. Tháng 12 năm 1941 đánh bật vòng vây của Đức Quốc Xã thắt chặt quanh Kiev và sau đó đưa Quân đoàn 20 về sát Mạc Tư Khoa, phản công giải toả thủ đô, chiến thắng lẫy lừng Solnicnhgrod được toàn quốc ca ngợi, ngày 12 tháng 12 có tên trong bảng danh tướng lập đại công theo thứ tự: Zhukov – Lelyushenko – Kuznetsov – Vlasov – Rokossovsky – Govorov.


Nhờ đó Vlasov lên như điên, Tư lệnh phó chiến trường Volkhov dưới quyền Thống Tướng Meretskov rồi Tư lệnh Quân đoàn qua sông Volkhov, đánh bọc ngược lên nhằm giải toả Lêningrad. Đây là một trận phản công đại quy mô để phá vỡ mặt trận Đức đang công hãm Lêningrad – ngoài đại đơn vị của Vlasov đánh một ngả, những ngả khác nhất tề động binh với toàn lực của các Quân đoàn 54, Quân đoàn 4, Quân đoàn 52. Tuy nhiên cả 3 quân đoàn hoặc không nhúc nhích nổi vì chuẩn bị chưa kịp hoặc bị chặn lại quá xa mục tiêu. Một mình Quân đoàn II xung kích chọc thủng vòng vây Đức, tiến sâu được 60, 70 chiến sĩ rồi đứng dậm chân một chỗ. Thời đó Bộ Tư lệnh Nga đâu đã đủ tư cách tổ chức hành quân phối hợp đại quy mô, mà vấn đề tiếp vận chiến trường cũng chưa giải quyết nổi. Huống hồ đạn dược tiếp tế không có, tân binh để bổ sung cũng không luôn. (Lúc phản công đợt đầu đã phải dùng đến lực lượng trừ bị phong hờ còn gì?)


available on google playdownload on app store


Ngay Lêningrad cũng phó mặc, tự lực chiến đấu, chẳng có chỉ thị rõ rệt từ Trung ương. Cho đến tháng ba còn đường liên lạc nhưng từ tháng tư trở đi thì Quân đoàn II Xung kích hoàn toàn kẹt giữa một biển sình lầy vì tuyết tan, không di chuyển tiếp tế đường bộ được mà cầu Không vận thì không có. Từ tháng tư thì lương thực cạn, Quân đoàn II còn sức rút nhưng Trung ương buộc cố thủ. Hai tháng cố thủ lính không có gì ăn đói rã rời. (Tù Byturki kể lại lính Quân đoàn II bị kẹt vòng vây, đói quá phải tìm cả thây ngựa ch.ết, chặt bốn vó ninh lên ăn cầm hơi).


Ngày 14 tháng 5 quân Đức từ bốn ngã đánh vào, toan dứt Quân đoàn II. Không có quân trợ chiến, quân Vlasov đành nằm chịu ch.ết. Gần rã hết mới được phép rút trở về phòng tuyến sông Volkhov, Quân đoàn II cố mở đường máu ra nhiều trận nhưng đầu tháng 7 vẫn không nổi.


Đại khái Quân đoàn II Xung kích của Vlasov phải chui đầu vào rọ chịu ch.ết oan theo lệnh của Trung ương, lại tái diễn sự đầu hàng thê thảm của Quân đoàn II Samsonov hồi Thế chiến I vây ngài! Để tan rã một đại đơn vị tinh nhuệ như vậy cố nhiên là lỗi của Vlasov, chỉ huy trưởng. Vậy là phản quốc: Chớ không phải lỗi ở sự mù quáng, bất lực, mù tịt chiến lược chiến thuật, rụt rè hèn nhát ngay từ lúc đầu của Trung ương mà đầu sỏ là Stalin, người đã ra lệnh nướng cả Quân đoàn một cách phi lý, ngu muội chỉ cốt để giữ được uy danh Thống chế Tổng tư lệnh. Nếu con người ta phản quốc chẳng phải vì tiền mà thôi, nếu đẩy cả trăm ngàn chiến sĩ vào chỗ ch.ết oan uổng, phí phạm cũng là phản quốc thì còn sự phản quốc, phản bội chiến sĩ nào vĩ đại cho bằng hành động điên cuồng của chính ông Tổng tư lệnh tối cao Stalin?


Nhưng hồi đó Vlasov không tự sát như tiền bối Samsonov. Sau khi Quân đoàn II Xung kích tan rã đến đơn vị cuối cùng thì Tư lệnh Vlasov đi lang thang thất thểu vũng lầy, bìa rừng và ngày 6 tháng 7 đành đích thân ra đầu thú với Bộ Chỉ huy Đức ở Siverskaya. Từ đây Vlasov được đưa tới Bộ Tư lệnh miền Đông của Đức ở Lotzen. Nơi đây đã có sẵn một số tướng lãnh Nga bị cầm tù và Chính ủy Lữ đoàn Zhilenkov, một cán bộ Đảng cao cấp, từng làm Khu ủy ở Mạc Tư Khoa. Những ông tướng này đã tuyên bố dứt khoát lập trường chống chế độ Stalin nhưng còn đợi một nhân vật có uy thế để suy cử làm thủ lãnh. Đúng vào lúc đó Đại tướng Vlasov xuất hiện.


Cứ nhìn tấm hình in trên truyền đơn thì khó lòng người tin Vlasov là một cấp tướng xuất sắc, một con người chịu đựng nhiều năm đau khổ vì tổ quốc Nga. Trái lại đọc nội dung bản thông cáo thành lập “Đoàn Quân Giải phóng Nga” còn thấy khó chịu, bực bội vì ngôn ngữ sử dụng là thứ tiếng Nga hạng bét, sặc mùi ngoại lai và nồng nặc ảnh hưởng Đức. Thông cáo không những không nói lên được một cái gì gọi là chính nghĩa, mà chỉ nhấn mạnh một cách thô lỗ, sống sượng đến ăn ngon mặc đẹp, nghĩa là đời sống vật chất và tinh thần hăng say, hào hứng của chiến binh Vlasov. Người ta không khỏi có ý nghĩ là cho dù Đoàn Quân Giải phóng Nga có là một tổ chức quân đội thực sự đi chăng nữa thì làm sao có thể tinh thần hăng say, hào hứng cho được? Tất cả chỉ là một thủ đoạn tuyên truyền hạ cấp mà chỉ Đức mới làm nổi! [1]


Chúng tôi ở ngoài mặt trận thì ghi nhận thấy ngay có quân Nga đánh lại mình và họ đánh còn hăng hơn những đơn vị SS hăng nhất của Đức. Tháng 7 năm 1943 ở gần Sobakinskiye Vyselki. Họ tử thủ như điên, như giả nhà riêng vậy. Một gã chạy chui xuống dưới hầm nhà trốn. Liệng lựu đạn không thấy gì nhưng cứ thò xuống là lãnh một băng súng sáu. Mấy lần như vậy. Gã chịu khuất phục sau khi lãnh nguyên một trái mìn chống xe tăng! Thì ra nhà hầm có một ngách nhỏ, gã đã núp vô tử thủ đến phút chót. Cứ tưởng tượng lựu đạn quăng xuống, hầm nổ như búa bổ màng tang đau khổ cỡ nào mới thấy sự lì lợm, tuyệt vọng của những con người đó.


Còn trận đánh đầu cầu sông Dniéper gần Tusk nữa. Hai tuần lễ tụi tội dồn dập tấn công, tiến không nổi vài trăm mét. Hai bên quần thảo đã dữ, rét còn dữ hơn. Trời tháng 12 mà! Lính hai bên nai nịt mấy lớp áo lạnh mà còn phải trùm thêm áo khoác ngụy trang, che kín cả đầu cả cổ. Do đó mới có vụ “đụng độ” cá nhân ở khu vực Malye Kozlovichi. Trong cánh rừng thông thưa quân hai bên đánh qua đánh lại loạn xà ngầu, xoá cả chiến tuyến lúc nào không hay, cứ chỉa súng phía trước nổ ào ào. Có hai thằng nằm bên nhau đưa súng sáu nổ liên tiếp, cùng kiểu súng Nga, cùng cỡ đạn. Thằng hết đạn được thằng còn lại chia sớt mấy viên, hai đứa cùng bắn nhau và trời lạnh quá đông đặc dầu mỡ, súng không xài được nữa thì nhìn nhau cười, chửi thề khẩu súng vứt đi. Cả hai rủ nhau nghỉ xả hơi ít phút và hạ áo choàng xuống cho thoáng. Thế là hai cái nón ló ra, một chiếc gắn sao, một chiếc con ó! Lập tức cả hai cùng nhảy lùi lại. Súng hết nổ được thì xông tới cận chiến, lấy súng quạng nhau chan chát.


Con người đã “đụng độ” nhau trong cảnh trạng đó thì hỡi ôi, còn…Tổ quốc gì và hay chế độ chính trị gì? Đúng là hai thằng người tiền sử xáp vào nhau cắn xé. “Mình mà tha nó, nó giết mình cấp kỳ.”


Ở mặt trận miền Đông nước Đức tôi đã chứng kiến một vụ tự sát ghê rợn. Ba thằng Vlasov bị bắt đang áp giải dọc đường. Thấy một chiếc T.34 đang bò tới rầm rầm một thằng nhào đầu ra. Cản không kịp, xe tăng tránh không được. Nó bị sợi xích đè nát người, hộc máu mồm nhưng thà chọn cái ch.ết dưới gầm xe tăng chớ không chịu treo cổ nhục nhã.


Bọn người theo Vlasov ở chỗ trước mặt chỉ thấy ch.ết. ch.ết không lối thoát, đánh cầu an cho khỏi ch.ết cũng không xong. Khốn nạn, chỉ để giặc bắt cũng đã là phản quốc không thể tha thứ, huống hồ còn cầm súng giặc chống lại! Kết tội đồng loạt bọn phản quốc đã là máy móc nhưng chửi họ hèn hạ vác súng theo Vlasov thì không đúng. Hèn hạ là những thằng cầu an, xoay sở một chỗ ấm êm bảo đảm chớ đã phải đăng lính cho bọn Đức là cùng đường chịu đựng, oán ghét chế độ Xô Viết đến cực độ, cuộc đời kể bỏ! Họ biết thân phận của những thằng không thể được hưởng ân huệ! Sa tay Hồng quân mà lỡ buộc miệng ra một tiếng Nga là bắn bỏ lập tức. Thì ra bị Nga bắt hay Đức bắt đều khốn nạn cuộc đời những thằng Nga. Lãnh đủ, lãnh nặng hơn bất cứ giống người nào! Nói chung cuộc Thế chiến II đã vạch cho chúng tôi thấy rõ một điều: Trên cõi đời này thân phận làm thằng Nga là khổ nhất, tàn tệ không thứ gì bằng.


Tôi không thể quên được sự nhục nhã của một sĩ quan tác chiến trong lúc quân Nga đột nhập Bobruik, đang thanh toán cả rừng chiến phẩm và xe Đức để lại nằm ngổn ngang đầy đường, mấy con ngựa còn đi lang thang phía dưới đầm lầy, trên con đường cạnh những cỗ xe nghi ngút khói. Tôi đang đi lững thững bỗng nghe gọi thất thanh: “Đại úy, Đại úy ơi!” Quay lại thấy một thằng cởi trần, mặc quần nhà binh Đức nhưng giọng nói Nga rặt, không lầm lẫn. Một tù binh Vlasov! Mặt nó và ngực, lưng, cánh tay ngang dọc đầy những vết roi đổ máu. Một gã Trung sĩ An ninh cưỡi ngựa thúc đằng sau và ngọn roi vụt vun vút buộc thằng tù phải chạy về phía trước, rẽ ngang cầu cứu.


Màn vụt roi lạnh tàn nhẫn, giữa người với người thời đại này, một thằng Nga quất thằng Nga đấy! Theo tôi biết đã là một sĩ quan, có chút thẩm quyền thì ở nước nào cũng vậy thấy cảnh tượng đánh đập tàn nhẫn, vô ý thức như trên là phải ra lệnh ngừng tay. Quân đội nước nào cũng vậy, trừ nước tôi! Chỉ ở nước tôi nước có giáo điều “Nếu không phải phe ta, không đi cùng với ta hiển nhiên là địch, là phải tiêu diệt” mà! Do đó tôi sợ, tôi không dám ngăn gã Trung sĩ An ninh đánh đập tên tù Vlasov. Tôi không nói, không có hành động gì. Tôi lẳng lặng đi như không nghe tiếng kêu cứu. Dính dáng gì đến một thằng Vlasov bị coi như hủi, như ôn dịch là chỉ có hại. Thằng Trung sĩ có thể, vả lại thời buổi đó trong Hồng quân có dễ gì một Trung sĩ an ninh chịu tuân lệnh một sĩ quan khác ngành?


Vì nghĩ như vậy tôi lờ đi, để mặc cho mục người hành hạ người thật dã man tha hồ tiếp diễn. Hình ảnh thúc ngựa quật roi vô tội vạ trên lưng một thằng tù vô phương chống cự đã in sâu vào cân não tôi.


Theo tôi đó mới là một hình ảnh tượng trưng, một tiêu biểu của Quần đảo Ngục tù. Đáng lẽ phải lấy nó làm mẫu bìa bọc ngoài cuốn sách này.


Đối với bọn Vlasov cố nhiên họ đã biết trước, biết chắc số phận họ. Mặc quân phục Đức thật nhưng tay áo bên trái của họ cũng không quên gắn phù hiệu, viền ba màu trắng, xanh, đỏ, giữa là tên hiệu ông thánh An-rê và 3 thữ tắt ROA. [2] Dân vùng tạm chiếm liệt họ vào hạng lính đánh mướn mà bọn Đức coi họ cũng không hơn, chỉ vì họ là Nga. Ngay tờ báo thảm thương của họ cũng bị Đức kiểm duyệt thường xuyên, in thật đậm Đại Đức và quốc trưởng vạn tuế. Ra trận thì một là ch.ết hai là trở về căn cứ. Về là đắm mình trong Vodka, uống rõ nhiều uống nữa. Cả một khoảng đời kề cận với cái ch.ết ở nước người họ đúng là những đứa không ai thừa nhận, chẳng bên nào thèm cứu vớt. Những mầm hư hỏng vô phương cứu!


Như đã nói hai bên chỉ lợi dụng nhau qua lại nên Hitler và Bộ Tham mưu dù thua tàn mạt, biết sắp gục đến nơi cũng không bớt nghi bọn Vlasov. Căn bệnh đa nghi truyền kiếp giữa Nga và Đức khiến bọn Vlasov có xin được quy tụ các đơn vị lẻ tẻ, rải rác thành đại bộ phận Nga 100% để đánh hậu quả hơn, quyết liệt hơn hầu đỡ đòn cho quân Quốc Xã đang chạy dài ở tất cả các mặt trận lớn nhỏ cũng bị Hitler gạt phắt. Lỡ ra tụi nó thành công thật và không chịu những thằng Nga đầy tớ nữa thì sao?


Chao ôi, đợi nước dâng tận cổ, nghĩa là tháng 11 năm 1944 Đức Quốc trưởng mới xuống lệnh cho phép thành lập rình rang ở Prange một Ủy ban Giải phóng các dân tộc Nga gồm đông đủ đại diện các phe nhóm quốc gia Nga nhưng bản Tuyên ngôn của Ủy ban thì vẫn y như những lần trước, đúng là phi cầm phi thú. Vì nước Đức cũng như Chủ nghĩa Quốc Xã Đức có bao giờ chịu chấp nhận một nước Nga thực sự độc lập đâu mà hòng. Cố nhiên Chủ tịch Ủy ban Giải phóng còn ai ngoài Vlasov? Cũng cuối 1944 quân Vlasov mới được phép quy tụ thành Sư đoàn biệt lập 100% Nga. [3] Có lẽ chính giới cao cấp Đức suy luận nếu cho thành lập cấp Sư đoàn thì bọn công nhân cưỡng bách từ Nga sang – bọn Ostovsty sẽ hăng hái gia nhập. Nhưng Hồng quân đã đánh vượt sông Vistula và sông Danube rồi, đời nào có chuyện dại dột lội ngược?


Lúc gần dứt chiến, các sư đoàn Vlasov đã chơi ngược các quan thầy Đức một cú động trời. Thì ra không tín nhiệm nổi bọn Nga tráo trở thật! Xưa nay người Đức nổi tiếng cận thị, nông nổi nhưng riêng về vụ nghi ky ngài dân Nga thì họ thấy xa thật và tính đúng boong. Đó lại là lần đầu tiên mà cũng là lần cuối cùng các sư đoàn Vlasov đã tự ý hành động mới đau! Cuối tháng tư giữa cảnh sụp đổ chung của chế độ Quốc Xã, Vlasov đã đơn phương kéo cả hai sư đoàn rưỡi của ông ta hờm gần Prague, không cần hội ý hay phối hợp với Bộ Tổng Tư lệnh Quốc Xã. Hồi đó có tin tướng S.S. Steiner đang chuẩn bị cho nổ tung thủ đô Tiệp, không chịu bỏ ngỏ cho Hồng quân tiến chiếm nguyên vẹn. Nhưng Vlasov đã dàn quân ra can thiệp, bảo vệ dân Tiệp Khắc. Thôi thì bao nhiêu chua chát, oán hờn, căm thù “quan thầy” Đức mà bao nhiêu năm nay quân đoàn của Vlasov nhẫn nhục chịu đựng bèn có dịp trút vào những đợt công hãm ác liệt khiến quân của Steiner bị đánh hất khỏi Prague, chạy trối ch.ết thay vì “triệt thoái từ từ theo kế hoạch vạch sẵn”!


(Không hiểu toàn dân Tiệp có biết lính Nga nào đã cứu thủ đô yêu quý của họ? Sách sử Nga về Thế chiến II đều ghi công Hồng quân giải phóng giùm nguyên vẹn thủ đô của nước Xã hội anh em, dù thực tế sờ sờ là Hồng quân không thể có cánh để bay qua lớp lớp phòng tuyến Đức!)


Sau khi quật ngược Đức cú nặng nề đó, quân Vlasov triệt thoái về Bavaria với ý định, may ra quân Mỹ dung tình, có thể đi được với Đồng minh. Có vậy thì những năm tháng chịu đựng dưới ách Quốc Xã mới khỏi vô nghĩa chớ.


Tuy nhiên quân Mỹ đã cấm cửa họ, buộc họ muốn đầu hàng phải đầu hàng Hồng quân. Cha già Dân tộc đã tính toán trước ở hội nghị Yalta rồi! Cũng tháng 5 năm đó bên Áo quốc Churchill cũng thể hiện “tình đoàn kết” Đồng minh in hệt – mà Nga khỏi cần quảng cáo – là trao tận tay giới chức Xô Viết, nguyên đoàn quân Cốt Sắc là 90 ngàn người. [4]


Chính Churchill trao gọn cho Nga thêm bao nhiêu chuyến công voa thân nhân chiến sĩ Cốt Sắc? Già trẻ, gái trai, nam phụ lão ấu không muốn ch.ết trong tay Stalin cũng bị vị vĩ nhân Anh quốc gián tiếp bức tử luôn.


Trong số 4 Sư đoàn Vlasov dựng cấp tốc còn biết bao nhiêu đơn vị nhỏ thuần Nga ch.ết tan biến luôn trong lòng quân đội Quốc Xã. Số phận họ kết thúc khác nhau.


Chính tôi ít hôm trước khi bị lột lon cũng đã nếm mùi lửa đạn của quân Vlasov. Tụi tôi dồn một số vào “cái rọ miền Đông Đức quốc để hốt trọn. Một đêm cuối tháng giêng 1945 một đơn vị Vlasov giữa đêm đen mở vòng vây xuyên phá trận tuyến Tây, âm thầm như bóng ma, không cần pháo binh mở đường. Vì mặt trận chuyển động gắt nên bọn họ tiến sát đến trạm dò mục tiêu của pháo đội tôi từ lúc nào, bẻ quặt vào thế gọng kìm.


Nhờ con lộ duy nhất còn sót, tôi kéo lui được trạm dò mục tiêu về an toàn. Vừa quay trở lại lấy đi một bộ phận, trời chưa rạng sáng đã thấy họ ngụy trang núp sẵn ở đâu đó từ 4 mặt đội tuyết ào tới, hò hét loạn xạ xông tới thịt một pháo đội bạn thuộc Tiểu đoàn Đại bác 152 ly nằm kế bên chỉ dùng lựu đạn cũng phá tung 12 ổ pháo mà đám lính phòng vệ chưa kịp nổ một phát. Quân Vlasov bắn đạn lửa rượt theo, bọn tôi phải tháo chạy 3 cây số trên bãi tuyết trống trơn ra đến bờ sông Passarge mới chặn họ lại nổi.


Để rồi mùa xuân năm ấy đêm trước ngày đại lễ ăn mừng chiến thắng, tôi và mấy kẻ thuộc đám quân Vlasov lại có dịp ngồi tâm sự trong xà lim Byturki, cùng trao nhau từng khói thuốc. Giờ công tác vệ sinh lại cặp với một thằng để khiêng thùng đi đổ!


Nói chung, lính Vlasov cũng như các “gián điệp” nửa mùa đều còn trẻ, sanh giữa khoảng 1915-1922 thì Vlasov hay “gián điệp” cũng như nhau, ăn thua là đăng vào lúc đoàn tuyển mộ nào đến trại vậy mà. Cố nhiên bao giờ chẳng phải nghe câu “Các anh đã bị Stalin phản bội. Các anh bị phó mặc rồi” để rồi thằng nào cũng cay đắng nhận ra mình bị xã hội đẩy ra từ trước khi mình đánh liều lọt ra ngoài vòng xã hội!


Đối với người Nga chúng tôi thì danh từ lính Vlasov đồng nghĩa với cống rãnh, rác rưởi. Chỉ đọc lên cũng có cảm giác dơ miệng lây nên tốt hơn là chớ nên nhắc nhở tới! Tuy nhiên có phải viết lịch sử cách đó mà được? Giờ đây đúng một phần tư thế kỷ sau, đa số bọn Vlasov hẳn đã bỏ xác trong ngục, chỉ còn sót ít nhiều đang chịu đày đoạ tuốt trên vùng cực hoang Bắc cực, tôi chỉ muốn gợi nhớ lại qua vài chục trang sách một hiện tượng chưa hề có trong lịch sử thế giới. Tôi muốn nói lên rằng có một thời cả năm bảy trăm ngàn thằng lứa tuổi 20 đến 30 đã bắt buộc phải cầm súng chống lại Đất Mẹ. Tổ quốc thân yêu của chúng bên cạnh một đồng minh thuộc loại kẻ thù truyền kiếp. [5]


Vậy thì có một vấn đề phải suy ngẫm. Bây giờ trách ai đây, đổ tội lên đầu ai? Đám tuổi trẻ đó hay là Tổ quốc xám đen của họ? Bảo là mình phản quốc đơn thuần thì chẳng thể phân tích bằng lý luận. Hành động đó phải bắt nguồn từ một nguyên nhân xã hội, đúng thế.


Hãy nghĩ tới câu ngạn ngữ cổ: “Ngựa no ăn đâu có chạy bậy, chạy quàng”. Rồi hãy gắng hình dung một cánh đồng bầy ngựa đói, bầy ngựa bỏ rơi và phát cuồng chạy lui chạy tới lăng xăng.


Cũng mùa xuân năm ấy nằm trong ngục tù còn có nhiều người Nga từng ly hương một thuở.


Quả thực một giấc mộng. Dĩ vãng đã chôn sâu giờ có dịp đào bới lại. Sử sách về Nội Chiến đã ghi từng pho lớn và bị đóng lại rồi. Sự việc đã an bài, trình tự thời gian đã ghi rõ trong núi sách giáo khoa. Quả thực với thế hệ hiện tại thì các đẳng thủ lãnh Bạch Nga chỉ còn là những bóng ma mập mờ dần trong quá khứ. Nếu nói tản lạc thì những người Nga ly hương còn tản lạc tàn nhẫn hơn các bộ lạc Do Thái nhiều. Thế hệ của những người lớn lên với chế độ Xô Viết đã hình dung những vang bóng quá khứ đó, ngày giờ này, nếu còn níu kéo được mảnh đời tàn ắt hẳn phải sống phiêu bạt đó đây nếu không nhạc công già đêm đêm gõ phím dương cầm trong những nhà hàng bê bối thì cũng quan hầu thầy tớ, ăn mày, nghiện ngập ma túy vất vưởng như những xác ch.ết biết đi.


Ngay trước năm nổ bùng đại chiến là năm 1941 thì báo chí văn chương, phê bình nghệ thuật của chúng ta (và kể cả những nhà văn nghệ sĩ no đủ của thời đại) cũng lờ luôn, có bao giờ hé mở cho ta thấy rằng có cả một thế giới sinh hoạt tinh thần vĩ đại nơi nước Nga lưu lạc. Ở địa hạt triết lý thì triết lý Nga đang sống, đang phát huy mạnh với các triết nhân cỡ lớn như Bulgakov, Berdyayev, Lossky… Nghệ thuật Nga đang làm toàn thế giới say mê với những khuôn mặt nghệ sĩ lớn như Rachmaninoff, Chaliapin, Benois, Diaghilev, Pavlova cũng như toàn ban hợp ca Cốt Sắc Jaroff. Ở cái thế giới Nga lưu lạc đó Dostoyevsky hiện còn đang được phân tích sâu rộng trong khi “chính quốc” thì cấm ngặt. Ở đó viết văn lếu láo như Nabokov – Sirin cũng góp mặt cũng như hai chục năm rồi Bunin vẫn còn sống, còn sáng tác. Ở đó có nhiều chuyên san Mỹ Thuật, nhiều vở kịch được dựng nên để Nga quê vùng nào tụ tập theo vùng nấy có dịp nghe lại đúng rặt giọng điệu địa phương. Lại có những cặp vợ chồng nhất định tiếp nối truyền thống trai ly hương lấy gái ly hương để con cái họ lớn lên giờ đây một lứa tuổi với chúng ta.


Trong khi đó ở quê nhà hình ảnh của thế giới Nga lưu lạc đó đã bị bóp méo quá mức. Phải chi tổ chức trưng cầu dân ý được đặt để câu hỏi “Đám Nga ly hương theo phe nào trong trận giặc Tây Ban Nha” thì dĩ nhiên muôn miệng rập một “Franco” “Thế chiến II theo phe nào” thì đứt đuôi: Hitler!


Chao ôi ngày nào giờ này ở quê hương đồng bào ta đâu biết là quá nhiều dân Nga ly hương đã thực sự chiến đấu trong hàng ngũ Cộng Hoà, nghĩa là chống lại Franco! Đồng bào cũng chẳng thể ngờ lính Vlasov cũng như lính Cốt Sắc binh đoàn Krasnov toàn là công dân Xô Viết chớ chẳng phải dân Bạch Nga lưu lạc. Dân Nga ly hương mà theo phe Hitler thì hai gã Marezhkovsky, Gippius học đòi Hitler đã chẳng bị tẩy chay, sống giữa xã hội mà chẳng hơn đi đày!


Chuyện đùa mà chẳng đùa tí nào là khi Denikin ngỏ ý muốn trở về Tổ quốc cùng đánh Đức thì chính Stalin đã lo sắp đặt xong chuyến trở về, chẳng phải vì lý do quân sự mà muốn có cử chỉ đại đoàn kết. Khi Pháp bị Đức chiếm kiều dân Nga trắng già trẻ vô chiến khu đã đành mà sau khi Ba Lê giải phóng họ đã đổ ùa về, tới Sứ quán Xô Viết lo thủ tục hồi hương. Chế độ gì thì Quê Mẹ vẫn là Quê Mẹ! Phải về mới chứng tỏ được hồi ấy mình chẳng yêu nước hão chớ. Cho dù có vác tù nằm 2 năm 1945-1946 cũng còn mừng là ở tù Nga, có đám gác khám Nga. Ngỡ ngàng họ gãi đầu gãi tai: “Ô hay, sao mình về làm chi? Bộ Âu Châu hết chỗ chứa sao?” Lúc bấy giờ mới thấm thía ý nghĩa vòng hoa choàng cổ ở Sứ quán Ba Lê. Mới đau khổ là trên đường về còn được đãi ngộ nhưng về đến nơi là tù!


Không biết sao hơn khi chính lãnh tụ có lệnh cho đi đày tất cả mọi công dân Xô Viết từng đặt chân ra khỏi nước một lần? Kiều bào, tức dân ly hương lớp cũ, chẳng thể ra ngoài luật lệ! Hồng quân đi tới đâu là quơ về tới đó, Nga trắng hay Xô Viết đỏ cũng như nhau, tới tận nhà bắt hoặc chặn lại dọc đường. Dĩ nhiên còn nhiều hơi Hồng quân chẳng thể tới nổi, như Thượng Hải chẳng hạn. Nhưng một ngày kia có sứ giả Mạc Tư Khoa sang Thượng Hải tuyên đọc đạo Sắc lệnh của Hội đồng Xô Viết tối cao, ân xá cho tất cả dân Nga ly hương. (Vấn đề Sắc lệnh thực hay giả không cần thiết. Thực cũng không bó tay nổi Cơ quan!). Làm gì kiều bào Nga ở Thượng Hải không tin và không khoái?


Lại tha hồ mang của cải, vật dụng trở về nước để theo nghề gì tự ý, không giới hạn cư trú. Xuống tàu ngay bến Thượng Hải thì xách xe hơi về theo còn tiện, mà biết đâu xứ sở mình đang cần? Phong trào hồi hương lên mạnh. Không hiểu sao cùng một chuyến tàu mà có kẻ ăn người nhịn? Về tới cảng Nakhodka thì mỗi người bắt đầu mỗi phận (cảng này là một trạm “nhận hàng” lớn của quần đảo mà). Hầu hết bị tống lên toa xe lửa chở hàng như chở tù. Chỉ khác chưa thấy công voa hộ tống và thiếu mấy con chó trận! Một mớ được cho xuống để an trí tạm vài ba năm ở một thị trấn. Số còn lại bị đưa đi đày cả chuyến tàu đầy nhóc, chạy một mạch thẳng tới Trại nằm sâu trong rừng, bên kia sông Volga. Người bị thảy xuống, đồ đạc cũng vứt lỉnh kỉnh theo. Có cả những cây dương cầm trắng bóc, những chậu kiểng từ Thượng Hải mang về. Cho tới 1948-1949 thì những người được an trí cũng lần lượt vô Trại đủ mặt!


Dân kiều bào hồi hương vô ngục tôi đã từng gặp nhiều, già có trẻ có tôi quan sát họ kỹ. Chẳng hạn như ông Đại úy Borsk, ông Đại tá Mariyushkin gặp lúc cùng đi khám bệnh thì quên sao nổi hai hình thù khẳng khiu, nhăn nheo màu vàng sậm bảo là xác ướp đúng hơn! Nếu kể đúng từng phút thì cả hai cùng bị bắt 5 phút sau khi về đến quê nhà, đưa mấy ngàn cây số về Mạc Tư Khoa để mùa xuân năm 1945 chịu một cuộc thẩm vấn gay gắt về tội chống đối chế độ Xô Viết từ thuở 1919!


Dĩ nhiên đó là một vô lý, bất công, nhưng gặp nhiều quá, quen quá mất rồi nên chẳng buồn nghĩ tới cỡ nào nữa. Hai ông sĩ quan già này hồi đó trên 40 cả và binh nghiệp trong quân đội Nga hoàng cũng đã 29 năm. Nghe tin Đức Vua bị lật đổ ở Petrograd đành bội thề để nhắm mắt tuyên thệ trung thành với Chính phủ Lâm thời Cách mạng cho xong. Chắc phải vậy song chính phủ đổ, quân đội rã khỏi thề thêm lần nữa! Nhưng thấy cung cách lính đám xé lon sĩ quan và giết khơi khơi họ đành theo các bạn đồng nghiệp để chống lại. Vậy là Bạch Nga, vậy là bị Hồng quân xua ra biển, đi lưu vong rồi chui đầu về lãnh đi đày về tội chống đối một phần tư thế kỷ trước. (Đi lưu vong dĩ nhiên làm dân nhưng kẹt Đại úy Borshsk bị nắm đầu trong chuyến xe lửa chở quân Cốt Sắc, dù ngồi lẫn lộn với các cụ, các bà!)


Giữa thời buổi pháp trị, công dân được xử theo luật đàng hoàng mà cả ông tá lẫn ông úy đều bị truy tố về các tội (1) có hành động nhằm lật đổ chính quyền Xô Viết công nông (2) võ trang phiến loạn trên lãnh thổ Xô Viết nghĩa là lúc nhà nước tuyên bố chế độ Xô Viết ở Petrograd vẫn chưa chịu đi (3) tán trợ tư bản ngoại quốc (khốn nạn có nằm mơ thấy tư bản ngoại quốc bao giờ!) (4) phục vụ các lực lượng phản cách mạng, nghĩa là các tướng lãnh chỉ huy cũ.


Bốn tội đó vi phạm 4 khoản số 1, 2, 4 và 13 của điều 58 Hình Luật. Trọn Bộ Hình Luật mới ban hành năm 1926 mà tội trạng của họ cấu thành từ năm 1919 nghĩa là cả 7 năm về trước. Hiệu lực hồi tố khủng khiếp vậy đó! Ngoài ra điều 2 Hình Luật quy định rõ là chỉ áp dụng cho những công dân bị câu lưu trên lãnh thổ Cộng Hoà Xô Viết vậy mà cánh tay Nội An đã vươn dài ra, quơ cả sang 2 châu Âu, Á để bắt người. [6]


Chúng ta không đặt vấn đề những quy chế giới hạn là thế. Điều 58 Hình Luật áp dụng cực kỳ uyển chuyển nên gạt ra ngoài những quy chế giới hạn (vậy đào bới quá khứ làm chi?). Chỉ nên dành cho những ông tr.a tấn viên, đao phủ nội địa, những kẻ sát hại đồng bào nhiều gấp bội thời kỳ nội chiến.


Tôi nhận thấy ông Đại tá Mariyushkin còn sáng suốt, tỉnh táo và còn kể từng chi tiết vụ tản cư Novorossick. Ông Đại úy Borsk “hoàn đồng” trở lại chắc? Suốt ngày chỉ lo tổ chức ăn lễ Phục Sinh trong lao Lubyanka! Tuần chay và Tuần Thánh khẩu phần bánh mì hàng ngày chỉ ăn một nửa. Nửa kia để dành cái điệu cất riêng một chỗ, có bánh mới mới nhai bánh cũ. Vậy mà nguyên Mùa Hãm Mình cũng để ra được 7 khẩu phần để ăn long trọng 3 ngày lễ Phục Sinh liền!


Không hiểu hai ông già này thuộc thành phần nào trong đám Vệ binh Bạch Nga hồi Nội chiến? Thiểu số cứ nông dân là roi quất bừa bãi và công nhân là sắp hàng đêm đầu 1, 2, 3, 4… đến thứ 10 là treo cổ nó lên, khỏi xét xử. Hay khối đại đa số chiến binh thuần túy?


Phải nhìn nhận sự trừng phạt 2 ông già cựu sĩ quan Nga hoàng chẳng căn cứ vào đâu, do hậu quả nào đưa lại. Phải chi họ được lãnh lương hưu trí hay có địa vị gì cho cam! Sống lưu vong cực khổ quá thì dựa căn bản tinh thần nào mà truy tố họ? Vụ này phải hỏi đến cây biện chứng Anatole France chớ chúng tôi xin chịu. Theo Anatole France thì hôm nay còn liệt sĩ, mai đã ch.ết đáng đời, hay máu vừa thấm ướt áo đã hết liệt sĩ. Hoặc ngược hẳn lại. Nhưng người Nga chúng tôi quen nghĩ ngựa lọt lòng mẹ là ngựa con thật song có người cưỡi một năm là ngựa cưỡi rồi. Suốt đời vẫn là ngựa cưỡi, dù sao đó chỉ là chuyện kéo xe!


Ông Đại tá Konstantin Konstantinovich Yusevich cũng Bạch Nga lưu vong nhưng là một mẫu người khác hẳn. Nội chiến dứt công cuộc tranh đấu chống Bôn-xê-vích vẫn còn, dù ông Đại tá già đầu hói không một sợi tóc như quả trứng không giải thích tiếp diễn ở đâu, cách nào và như thế nào. Có điều tinh thần tranh đấu ở tuổi 60 ở trong xà lim vẫn nguyên vẹn trong con người.


Đại tá Yusevich. Một quan điểm vững chãi sáng suốt vì bất cứ sự kiện gì ở chung quanh, rút tỉa ở cả một đời hoạt động có mục đích đàng hoàng chớ không như phần đông tụi tôi đầu óc hỗn loạn những mâu thuẫn, nhân quan mù mờ, gãy vụn. Cố nhiên quan điểm lập trường như vậy thì thể chất ông ta phải lành mạnh, hoạt động và sung sức. Yusevich đã khai cung xong và như phần đông anh em, trong xà lim chỉ nằm đợi ngày đi đày.


Hình như Yusevich không còn thân thích, tù “mồ côi’ không trông mong ai tiếp tế nhưng da dẻ ông ta còn hồng hào như trai tráng. Tất cả anh em trong xà lim chỉ một mình ông già này sáng sáng vẫn tập thể dục một mình và còn ra la-va-bô rửa ráy chu tất. Tụi tôi né bằng hết, không đụng chạm một vụ gì cho đỡ tốn ca-lo-ri. Ăn uống đã khổ cực quá mà! Đến đi đứng tụi tôi còn làm biếng, trái lại Đại tá Yusevich thì bất cứ lúc nào “đường đi” trống trải một chút giữa hai hàng “ổ” ngũ – dù không đầy 5, 6 mét – cũng nghiêm nghị tay khoanh trước ngực, đi tới đi lui, nhịp bước vững chãi khoan thai. Cặp mắt sáng quắc luôn luôn ngó phía trước thật quắc thước.


Đại tá Yusevich khác hẳn tụi tôi gặp chuyện gì cũng ngỡ ngàng ở chỗ “Cái đó có gì lạ? Hiển nhiên là phải vậy, rõ ràng quá còn gì!”. Do đó ông già hoàn toàn cô đơn. Nhưng một năm sau bị đưa trở lại Byturki và đổi phòng hoài thì một trong số 70 xà lim, tôi đã gặp vài người trẻ cùng hồ sơ với Yusevich, người nào cũng nằm chờ đi từ 10 tới 15 năm. Nghe kể lại vụ ông Đại tá già càng khâm phục ông ta sát đất.


Chẳng là bản án của bọn họ được đánh máy trên giấy mỏng và không hiểu làm cách nào họ xoay được một bản sao. Tên Nikolai Nikolaiyevich Yusevich dĩ nhiên đứng đầu danh sách và là án xử bắn. Cũng chẳng có gì lạ, hiển nhiên phải vậy vì cặp mắt vô cùng trẻ trung đã nhìn thấy rõ ràng quá ở 4 bức vách xà lim những lúc tay khoanh trước ngực, khoan thai đi tới đi lui.


Con đường hành động đi đúng rồi, Yusevich đã ý thức vững như thế nên sức mạnh tinh thần của ông Đại tá già quả là bất khuất, không gì lay chuyển nổi.


Trong đám tù lưu vong ly hương cỡ tuổi tôi có Igor Tronko. Tụi tôi thân nhau vì hai thằng cùng cao lớn mà vô đây thân hình bỗng suy sụp đến da bọc xương, khô cằn xám ngoét (vì mất tinh thần quá mạnh chắc?). Yếu sức đến nỗi được đi hứng gió mà chỉ sợ gió thổi bay, chúng tôi đi cặp nhau bước chân chậm rãi như ông già vậy. Ra cuộc đời hai đứa tôi chỉ đồng tuổi, còn cái gì hai đứa cũng “đường song song không bao giờ gặp nhau!”. Một thằng miền Bắc, một thằng miền Nam và từ lúc còn ẵm ngửa thần Định Mạng đã rút số giùm hai đứa tôi: Tôi lãnh cây thẻ ngắn, Igor trúng cây thẳng dài hay sao mà tôi ru rú xó nhà hắn long đong năm châu bốn biển! Ông thân sinh Igor đâu có điều kiện cao sang gì, kẹt là binh nhì truyền tin trong quân Bạch Nga nên phải lưu vong vậy thôi.


Qua con người Igor Tronko, tôi cảm thấy bọn cùng lứa tuổi tôi ly hương dù gia cảnh có bần hèn cũng được gia đình chăm sóc và ăn học đến nơi đến chốn cả. Họ lớn lên trong không khí tự do, không biết đến sợ hãi, không bị ghép vào khuôn khổ dù các tổ chức Bạch Nga hải ngoại luôn luôn có một thứ kỷ luật nội bộ khá chặt chẽ. Do đó họ không bị vướng phải nếp sống buông thả, dễ dàng, vô tư nhưng hung cuồng của giới trẻ Âu Châu hồi đó. Có lẽ vì ảnh hưởng thảm hoạ từng làm cho cả gia đình hồi ở quê nhà phải bỏ hết để ra đi?


Phải nhận rằng dù sống ở đâu bọn trẻ phải xa quê hương từ hồi còn ẵm ngửa vẫn hướng về Đất Mẹ. Họ sống trong tinh thần văn chương nhiều hơn vì với họ ý thức làm người Nga bắt nguồn ở đó và cũng chỉ có thế thôi. Đất Mẹ với họ không nằm ở đâu, không hiện hữu chút nào cả. Sách vở họ quá nhiều nhưng sách nói về Nga Xô Viết lại còn quá ít khiến họ cảm thấy bị thiệt thòi, nguyên nhân chính khiến họ không thể hiểu được cái gì quan trọng nhất, cao cả nhất, đẹp nhất ở quê nhà Nga Xô Viết. Những thứ sách tuyên truyền, dóc láo lại càng bóp méo hình ảnh mờ nhạt xa vời mà họ nghĩ về quê mẹ cũng như đời sống bên nhà thực sự ra sao thì họ chỉ biết lơ mơ. Nhưng lòng mong nhớ quê hương ở họ lại dâng lên cao độ: năm 1941 giá có lời kêu gọi trở về phục vụ thì chắc chắn họ vô Hồng quân bằng hết.


Và nếu hồi đó hồi hương nhập ngũ thì họ thà ch.ết sướng hơn. Bọn trẻ ở hải ngoại lứa tuổi 25 – 27 rõ ràng đã có quan điểm, tư tưởng riêng chống đối lại cấp tướng lãnh, chính khách già. Vì vậy bọn họ được mệnh danh nhóm nepredreshentsy – tức nhóm trẻ không thành kiến – và lập trường dứt khoát của bọn họ là những ai ít chục năm trở lại dây không gánh vác chia sẻ gánh nặng với Tổ quốc là hiển nhiên không có quyền quyết định gì về tương lai nước Nga, không thể nuôi dưỡng định kiến gì hết. Họ chỉ có việc đặt mình và năng lực mình, triệt để tuân theo sự áp dụng của nhân dân.


Tôi và Igor Tronko ưa nằm dài bên nhau trên “ổ” ngủ để trao đổi ý nghĩ và kinh nghiệm sống. Sau khi cố gắng tìm hiểu bản chất thế giới sinh hoạt của hắn, tôi đã sớm ý thức được một sự kiện mà sau này có dịp nhiều lần kiểm chứng lại vẫn thấy đúng. Là cuộc Nội chiến quả thực dã làm mất mát, làm vuột ra khỏi nước Nga một phần quan trọng trong gia sản tinh thần khiến chúng ta nghèo đi hẳn một nhánh văn hoá lớn của người Nga. Văn hoá Nga hiển nhiên chảy rẽ hai dòng – nhánh lớn nằm lại và phụ lưu luân lạc nước người. Người có tâm huyết với văn hoá phải hợp một nó lại thì Văn hoá Nga mới đúng mới kiện toàn. Lúc bấy giờ mới nói tới khả năng phát huy.


Tôi mong sao sống được đến ngày ấy.
*


Con người ta vốn yếu, yếu quá. Trọn mùa Xuân năm ấy, cuối cùng những đứa cứng đầu nhất trong bọn cũng mong muốn được ân xá, thà chịu đi để có thêm chút tự do. Vậy mới có mẩu chuyện sau: “Bị cáo có muốn nói lời nói chót? Dạ có, dạ xin ông muốn cho đi đâu cũng được, xa xôi bao nhiêu cũng được, miễn là có chính quyền Xô Viết và có chút mặt trời!”.


Chẳng là chẳng ai doạ “Không cho phép mày sống dưới chính quyền Xô Viết” song cấm không cho thấy mặt trời thì có. Ai điên khùng xin đi miền cực Bắc để lạnh và đói đủ ch.ết? Nhưng Altai khác! Bọn tù nằm chờ đi đày kháo nhau được đi Altai là thiên đường. Mấy ông từng Altai về và nhất là những ông chưa từng biết mặt mũi Altai tha hồ thêu dệt bao nhiêu mộng vàng nhử bạn đồng xà lim! Rộng bát ngát như Tây Bá Lợi Á, đất lại lành. Bao nhiêu dòng sông mật ngọt lượn lờ giữa biển lúa mì! Có thảo nguyên, có núi chớ. Cừu từng đàn, thú hoang nhan nhản, cá lội từng bầy. Làng xóm trù mật, đông dân lắm! [7]


Ôi, được vứt vào một khoảnh đất như vậy thật tuyệt vời. Để được nghe một giọng gà vẳng lên trong bao la, để vỗ về cổ ngựa, bao nhiêu vấn đề lớn liệng đi hết! Con người ta chỉ sống có một lần, một cuộc đời ngắn ngủi sao cứ sống đụng đầu nhau, sống nhàm chán để phải nghe mấy ông điều tr.a viên bắt thề thốt, tiếng khoá xà lim lách cách, phải chịu nằm hầm nghẹt thở thế này. Bọn chúng đẩy con người ta ra trước họng súng liên thanh, dìm xuống vũng bùn chính trị bẩn thỉu không đáng tội ư? Còn ở Altai thì một túp lều rừng, chẳng phải để kiếm mớ củi khô nhặt mấy chân nấm mà chỉ đi chơi lang thang để ôm lấy cội cây rừng mà rằng: “Chỉ cần được thế này thôi”.


Mùa Xuân là mùa nuôi dưỡng hy vọng, nhất là một cuộc chiến khổng lồ vừa chấm dứt xong. Người đi tù trước tụi tôi cũng đã lên tới số triệu dân đi đày các trại Cải tạo cũng số triệu nữa. Mình vừa chiến thắng oanh liệt quá lẽ nào cả triệu con người cứ tù mãi? Bất quá nhà nước chỉ doạ một phen cho sợ, cảnh cáo cho nhớ vậy thôi. Rồi thế nao chẳng có lệnh đại xá để phóng thích bằng hết, cho tự do hết. Có đứa cam đoan đọc báo thấy Chủ tịch Stalin trả lời cuộc phỏng vấn của một nhà báo Mỹ (tôi quên mất tên) cho hay hết chiến tranh sẽ có một cuộc đại xá, một tổng đại xá thế gian này chưa từng có. Một ông điều tr.a viên cũng tiết lộ với một đứa nào là sắp đại xá, tổng đại xá thật mà.


(Thực ra có tin đồn đại xá lợi cho điều tr.a viên biết mấy? Bị can chắc chắn sẽ nhắm mắt ký đại cho xong cung. Bề nào cũng đến về thì việc gì mà ngần ngại?).


Nhưng muốn được ân xá phải khôn ngoan, đó là một sự thực cả trăm năm nay ở nước ta và sẽ còn giá trị lâu dài nữa.


Vì vậy bọn tù còn sáng suốt đâu chịu tin sắp có tổng đại xá? Chính trị phạm từ 25 năm nay có được ân xá bao giờ? Một gã điềm chỉ chuyên viên ở tù đứng dậy cãi “Có chứ. Năm 1927 kỷ niệm Cách mạng lên 10 đó thôi. Nhà tù thả hết người mà đặc biệt là còn treo cờ trắng!” Cờ trắng bay phất phới trên nhà tù quả là chuyện lạ. Sao lại phải màu trắng? [8]


Nhiều tay lý luận kinh nghiệm kể cho tụi tôi nghe (nhưng tụi tôi đâu thèm tin). Chính vì chiến tranh chấm dứt nên nhà nước phải tống giam tới số triệu. Đâu cần lính chiến nữa mà để ở hậu phương nguy hiểm! Bằng chứng công cuộc dựng trại Cải tạo đang tiến hành mạnh quá. Có viên gạch nào bớt đi đâu? Ra tụi tôi mãi mê tin tưởng quá quên phứt mất những tính toán kinh tế giản dị của Stalin cũng như sự độc ác của lãnh tụ!


Thử hỏi có thằng lính nào đi đánh giặc giải ngũ về lại ham đi tuốt ra Kelyma, đi Vortuka, đi Tây Bá Lợi Á? Không nhà cửa, không đời sống. Cần tái thiết thì Ủy ban Thiết kế chỉ cần cho MVD biết cần bao nhiêu nhân công. Sẽ có bằng ấy thằng đi đày.


Vậy mà tụi tôi khao khát đại xá, tổng đại xá! Bên Ăng-lê cứ lễ Đăng quang là đại xá tù còn ân xá thì năm nào chẳng có. Ngày kỷ niệm tam bách chu niên dòng Romanov trị vì nước Nga, nhiều chính trị phạm được phóng thích năm 1912 mà. Không lẽ vừa đại thắng lẫy lừng, đời sau còn vang danh mà nhà nước lại hẹp lượng nhất định không tha trừng phạt con dân.


Sự thực cay đắng của cõi đời này chỉ đau khổ mới nhận ra: Chiến tranh thắng chớ mừng, thà bại còn hơn! Nghĩa là chính phủ cần thắng, mà dân cần thua. Thắng chỉ mong thắng nữa nhưng thua thì con người sẽ cần một thứ là Tự do. Cần Tự do là phần nhiều đạt được. Một dân tộc cần chiến bại cũng như một con người cần nếm mùi thất bại, đau khổ, có vậy mới thấm thía và cất đầu lên nổi.


Chiến thắng Poltavia rõ ràng tai hoạ cho Nga: Hai thế kỷ liền hụt hơi, đổ nát, mất tự do – và chiến tranh hoài hoài. Kẻ chiến bại Thụy Điển rõ ràng khá: hết ham chiến, họ chỉ lo hoà nên dân giàu nhất, tự do nhất Châu Âu.


Thắng Nã Phá Luân, nước Nga mạt. Nhưng thua trận Crimea, thua Nhật, thua Đức Thế chiến I chúng ta lại khá. Bại trận lại có Cách mạng, có Tự do mới lạ!


Mùa Xuân năm ấy chúng tôi cầu mong ân xá quá! Nhưng xét ra xưa nay ai ở tù chẳng mong và tin là sắp ân xá đến nơi! Giấc mơ ân xá nằm sẵn trong 4 vách tường ngục tù mà. Bao nhiêu năm, bao nhiêu đợt tù là bằng ấy đợt người thèm khát, tin tưởng nếu không ân xá thì sắp có Luật mới ra đời hoặc xét lại hồ sơ. Nếu Cơ quan biết thóp lợi dụng lòng cả tin của tù phần nào thì tù nằm chờ từng ngày lễ, ngày kỷ niệm lớn nhỏ để chào đón bà tiên ân xá! Lễ lớn cỡ kỷ niệm Cách mạng, Chiến thắng, Sinh nhật Lênin mừng đã đành, họ trông chờ cả từng dịp con con! Nào Quốc Hội khai khoá, nào Tối cao Pháp viện họp. Mâu thuẫn kỳ cục là càng thấy bắt nhiều, ta càng dồn vô từng đợt phát khiếp thì căn bệnh tưởng “Thế nào cũng sắp ân xá” càng tràn lan nơi những đầu óc u mê!


Ánh sáng nào cũng có thể đem ra so với Mặt Trời nhưng trái lại Mặt Trời không thể đem so sánh. Lòng mong mỏi, tin tưởng Ân Xá cũng vậy: nó lớn và mãnh liệt chẳng đức tin nào sánh kịp! Chẳng có thế mùa Xuân 1945 cứ có người mới vô xà lim là nhao nhao: “Này ngoài ấy có nghe tin sắp ân xá không?”. Hai ba người được gọi đi, xách theo đồ là in như rằng mấy người ở lại sẽ so sánh tội nặng, tội nhẹ và kết luận: “Hồ sơ chúng nhẹ quá mà. Vậy là tự do chắc!”. Ở địa điểm “liên lạc” nhà cầu, nhà tắm, mấy gã xăng xái nhất dò hỏi tin ân xá loạn cả lên. Đầu tháng 7 ở nhà tắm Byturki đã có đấng tiên tri nào đó mượn vai bồ bịch đứng lên hạ một câu chắc nịch – bằng xà bông – lên trên phần vách láng nhất. Hàng chữ tổ bố: “HOAN HÔ! 14 THÁNG 7 ĐẠI XÁ!”


Bà con xôn xao mừng lắm. Mừng đến độ quên phức thực tế là nếu biết thực chắc chắn có ân xá nay mai, chẳng thằng nào dại dột viết ra! Làm như cánh cửa nhà lao sắp bật ra đến nơi vậy! [9]


Ôi, sự đời đâu dễ dàng vậy? Muốn được ân xá phải khôn ngoan kìa!


Giữa tháng 7 gã giám thị hành lang đang dẫn người già nhất trong xà lim tụi tôi vô phòng tắm lau chùi “khẩu hiệu ân xá”. Còn có 2 người đối diện nhau (có nhân chứng đâu dám) hắn từ tốn nhìn cái đầu bạc và thương hại hỏi ông già: “Ông cụ bị vì điều gì đấy?”. “Điều 58!”. Vì một điều ác hại này mà vợ con, cháu chắt 3 đời của ông già đang đau khổ. Gã giám thị khẽ lắc đầu “Điều 58 thì kẹt rồi!”. Trở về xà lim ông cụ kể lại chuyện thì bà con gạt đi “Đừng tin! Thứ giám thị thất học ấy biết quái gì?”.


Trong xà lim có 1 gã trẻ tuổi tên tục Valentin người Kiev. Cặp mắt hắn to, đen lay láy như mắt đàn bà và kêu đi điều tr.a là sợ hết hồn! Valentin dường như được trời phú một khả năng dự tri khá đáo để (hay vì lo sợ quá mà nảy sinh không chừng!). Mấy lần hắn đã biểu diễn tài bói sáng, đi vòng vòng nhìn bà con rồi chỉ từng thằng một: “Bữa nay anh bị kêu đi điều tr.a đấy… Cả anh này nữa! Tôi nhìn thấy trong mộng hồi hôm. Để coi có đúng không?”. Đúng thật, những kẻ bị gã chỉ đều bị kêu tức thời! Trong chốn lao tù người ta tin cả những dị đoan vô lý vậy đó.


Thế rồi ngày 27 tháng 7 “thầy bói sáng” Valentin bảo tôi: “Aleksandr, Bữa nay anh đi”. Coi, lúc hắn kể lại chi tiết giấc mộng tiên tri, tôi vội vàng đi thu dọn mớ quần áo mới kỳ cục chớ. Quả nhiên, sau giờ phát nước trà tôi và cả hắn nữa được kêu thật. Bà con xúm lại chúc mừng. Tự do chắc rồi! Lại “Hồ sơ tụi nó có gì đâu? Ra thật!”.


Tổng cộng tụi tôi đi bữa đó 20 mạng. Trước khi đi được quyền đi tắm cho sạch sẽ con người. Luật nhà tù là vậy! Tất cả đều mừng húm: Không biết chừng… Thì ít nhất cũng được quyền mát mẻ đặc biệt hơn người trong 1 giờ rưỡi cái đã. Chuyện trò, thăm hỏi, lý luận chán chê cũng rộng rãi thì giờ chán! Tắm nước nóng, sạch sẽ hồng hào hơn trước nhé. Hai chục thằng được đưa xuống sân trong Byturki, nơi đây có khu vườn nho nhỏ. Thứ vườn hoa ranh con nhưng chao ôi cây cối coi sao dễ thương, xum xuê đến thế. Lại tiếng chim ríu rít mừng vui quá, dù chỉ là chim sẻ thì hót sao nổi. Nhìn màu xanh của lá còn chói cả mắt kia mà. Chao ôi chưa bao giờ tôi được thấy một địa đàng ấm êm như khúc vườn hoa đi chưa 10 giây đã hết cả nhà lao Byturki!


Cố nhiên sau đó tụi tôi được đưa vô nhà ga. Danh từ đặc biệt của tù Byturki chỉ trạm đến và đi, hành lang cong vòng như nhà ga thứ thiệt. Mà không đích thực nhà ga sao kìa? Chúng tôi được dồn vô trong một căn phòng cao ráo, sáng sủa quá đi. Rõ ràng không khí nơi đây trong sáng hơn, lành mạnh hơn. Không u ám, ch.ết ngộp bởi người và tù chút nào hết! Lại có cả một khung cửa sổ mở rộng, không có “nút chặn” bít bùng ngó ra mảnh vườn cảnh chứa chan những nắng Xuân. Cũng vẫn còn Byturki sao nơi đây và bữa nay cảnh trời tươi đẹp thế này trời? Sắp tự do là thế này đây sao, trời?


Cả 20 đứa tụi tôi xem ra chẳng có gì nặng tội cả. Tối đa chỉ Hội đồng An ninh quyết định cũng đủ. Trừng trị lâu nay không quá đủ rồi sao?


Ba giờ liền bọn tôi cứ chầu chực bên trong căn phòng “chuẩn bị” tự do đó. Chẳng ai bảo gì, chẳng ai mở cửa nữa. Mỏi chân quá phải ngồi đợi trên băng gỗ, nóng ruột quá mà vẳng nghe vẫn thấy đám chim sẻ hót như điên.


Thế rồi cửa phòng mở bật. Một thằng được kêu ra, nó là kế toán viên ba mươi tuổi. Cửa đóng lại là chúng tôi ngồi trong càng nóng ruột dữ. Không biết chuyện gì, cả 19 thằng cứ như ngồi trên than hồng.


Có tiếng kẹt cửa. Tới phiên một thằng khác và gã kế toán viên được trả về. Cửa đóng là cả bọn đứng quanh nó, hỏi nhau nhau. Hỡi ôi, có chuyện gì mà con người ta có thể thay đổi mau chóng như thế này trời? Nó đâu còn phải thằng tù vui vẻ lúc nãy, như bọn tôi? Mắt mở lờ đờ, ngơ ngác, cử chỉ khờ khạo, mất hồn nó buông người cho rớt bịch trên ghế gỗ, lưng dộng đại vô vách cái rầm. Thế này là nó lạc tinh thần. Hay vừa ăn một chầu roi sắt?


Tụi tôi hồi hộp, bấn loạn và dồn cho nó một hồi: “Ô hay, sao vậy? Chuyện gì thế? Nói bà con nghe gấp gấp đi chớ! Nóng lòng quá rồi…”


Nó ngơ ngẩn lắc lắc đầu. Đâu phải lên ghế điện? Vậy án nó là án xử bắn chắc? Giọng gã kế toán viên thều thào cực kỳ đau khổ, làm như trời sập đến nơi:
“Tự do gì? Năm năm đi đày!”


Cửa lại mở bật. Sao Cơ quan làm lẹ quá vậy kìa? Vừa mới một mạng mà bây giờ lại… Thật dẫn một thằng đi đái còn lâu hơn nhiều! Thằng vừa được gọi ra đã trở lại kìa! Mặt nó sáng lên. Điệu này chắc chắn là tự do khỏi trật. Mấy khuôn mặt còn lại bỗng sáng rỡ hẳn. Vậy đỡ khổ, dám có lắm! Bao nhiêu cái miệng hối thúc ào ào, nó mới khoá tay cười ha hả, cười vui như Tết đáp rằng:


“Có gì đâu mà bấn lên? Có mười lăm năm thôi.”
Sự đời mà vô lý đến cỡ đó thì tin sao nổi nữa, trời?






Truyện liên quan