Chương 11: Đầu máy kéo vô tù đầy

Bên cạnh “nhà ga” Byturki có một phòng đặc biệt. Đó là phòng khám người, tuốt người để thằng nào mới vô là phải chịu lục soát thật kỹ cái đã. Phòng đủ rộng để 5, 6 cán bộ Cơ quan làm 20 thằng ZEK một lúc. Có mấy cái bàn nhưng mặt bàn trơ trụi chẳng có gì. Ở một bàn cuối phòng ngồi sừng sững một ông Thiếu tá NKVD, quân phục chững chạc mớ tóc đen chải đàng hoàng nhưng dưới ánh đèn chụp khuôn mặt hắn mới mệt mỏi, chán chường làm sao! In hình hắn mệt vì có ngần ấy đứa mà cứ phải đưa vô từng đứa một, bắt hắn chờ đợi không đáng. Nếu cần một chữ ký thì bắt chúng ký cả loạt việc và lẹ hơn nhiều.


Thấy tôi vô, ông Thiếu tá biểu ngồi, hỏi tên họ rồi đưa tay lục kiếm “hồ sơ” của tôi trong chồng giấy phía mặt. Cách cái lọ mực cũng có một chồng in hệt, giấy mỏng như giấy đánh máy nhưng chỉ nhỏ bằng nửa tờ. Kiểu bông lãnh xăng, phiếu phát vật liệu các công sở. Đây rồi, hắn rút đúng tờ giấy của tôi, cao giọng đọc cho biết “bản án”: 8 năm đi đày. Sau đó hắn lật tờ giấy nắn nót vài chữ, ra điều “án được đọc lên cho kẻ chịu án”, đúng ngày giờ đã định.


8 năm đi đày! Bản án được đọc lên nhưng tôi tuyệt đối không xúc động. Nó thông thường và dễ dàng quá khiến tim tôi cũng chẳng buồn đập mạnh chút xíu. Bộ khúc rẽ của cả một đời tôi chỉ có thế thôi sao? Muốn chuốc lấy ít cảm giác hồi hộp của một thằng bị tuyên án cũng không nổi! Ông Thiếu tá NKVD lẳng lặng chìa mảnh giấy trước mặt tôi, phía để trắng ngửa lên. Cây viết rẻ tiền nằm đó, chờ tôi đặt bút ký, chấp nhận bản án đi đày đây. Tôi không ngần ngại nói luôn:


“Trước khi ký, ít ra tôi cũng phải đọc lại?”
“Được, muốn đọc thì đọc! Bộ có gì nghi ngờ chắc? Đấy, đọc đi…”


Hắn đẩy tờ giấy ra một cách ngần ngại, chán chường quá. Tôi vội cầm lấy, cố tình đọc thật chậm rãi. Đọc rề từng nét chữ một chớ không phải từng chữ nữa! Mảnh giấy đánh máy nhưng không phải bản chính, rõ ràng chỉ là một bản sao.


Tôi nhớ đại khái có hàng chữ tựa như sau: “TRÍCH YẾU, chiếu Sắc lệnh của Hội đồng An ninh, Bộ Nội An, chính phủ Liên bang Xô Viết ngày 7 tháng 7 năm 1945. Số thứ tự…”.


available on google playdownload on app store


Phía dưới có hàng dấu chấm đánh máy chia đôi tờ giấy.


Một bên ghi: “Hồ sơ buộc tội tên… ngày sinh và nơi sinh…”. Phía bên kia là bản án: NGHỊ QUYẾT: Nay quyết định tên… can tội hoạt động phản tuyên truyền với dự mưu thành lập một tổ chức nhằm chống lại chế độ Xô Viết… bị trừng phạt 8 NĂM đi đày trại Lao động Cải tạo. Phía dưới cùng là hàng chữ sao y chính bản, với chữ ký của một ông Bí thư.


Bản án chỉ giản dị vậy và chờ tôi ký tên chấp nhận thật sao? Tôi ngẩng nhìn coi ông Thiếu tá có ý định giải thích gì thêm. Không, hắn chỉ ngó tôi và đã vẫy tay ra lệnh cho gã giám thị hờm sẵn ở cửa, “sửa soạn đưa thằng này đi…, cho thằng kế tiếp vô”.


Không thể chấp nhận quá máy móc vậy, tôi bắt buộc phải hỏi lại: “Ủa sao vậy? Tới 8 NĂM ĐI ĐÀY lận? Kinh khủng quá, mà tôi có tội tình gì đâu?”. Tôi nói “kinh khủng” nhưng sự thật giọng nói nghe chẳng có gì “kinh khủng” và chính ông Thiếu tá NKVD cũng biết điều đó. Hắn đưa tay chỉ vào chỗ trống trên tờ giấy, lơ đãng biểu: “Đây, chỗ này! Ký cho rồi đi cha”.


Tôi ký chớ. Ký liền tức thì. Vì còn làm gì khác được ngoài việc đặt bút ký? Nhưng bề nào cũng phải nói với một câu, chớ cứ lẳng lặng ký ngoan ngoãn vậy sao?


“Ký thì ký đây! Nhưng phải cho tôi viết thêm vài hàng kháng cáo chớ. Tôi có làm gì đâu mà khi không lãnh tới 8 năm, bất công vậy?”


Ông Thiếu tá gật gù, với tay lấy một tờ ở chồng giấy bên trái chìa ra trước mặt tôi, nói tỉnh bơ:
“Đây, kháng cáo. Luật pháp đã dự liệu rồi! Có sẵn mẫu giấy đây…”


Tất cả đã diễn tiến máy móc. Chưa xong gã Giám thị đã tới sát bên tôi: “Thôi, đi đi…”.
Tôi đứng dậy đi theo liền, ngoan ngoãn.


Nhiều người không chịu ngoan như vậy. Như Geogri Tenno lúc cầm bản án 25 năm đã lên tiếng: “Hai mươi lăm năm kể như chung thân còn gì? Thời quân chủ tuyên bản án chung thân là phải đánh cồng tập hợp dân chúng lại, công bố đàng hoàng. Bây giờ chỉ một mảnh giấy như bông lãnh xăng cỡ này là đi!”


Arnold Rappoport còn hăng hơn. Hắn viết ngay sau lưng bản án: “Tôi cực lực phản đối bản án khuyên bảo, bất hợp pháp này và đòi hỏi phải trả tự do cấp kỳ”. Ông sĩ quan NKVD chờ chữ ký cầm lấy đọc, uất quá xé tan. Nhưng bản án cố nhiên vẫn còn. Đây chỉ bản sao mà.


Trái lại, Vera Korneyeva hí hửng ký, thiếu điều giật vội lấy mảnh giấy ký lập tức “kẻo họ đổi ý kiến thì khổ”. Đang sợ bị 15 năm mà liếc nhìn chỉ thấy một con số 5 thì mừng quá! Gã sĩ quan ngờ vực hỏi: “Bà có nghe tôi vừa đọc cái gì không?”. Thì Vera cười ha hả: “Nghe chớ. Có 5 năm đi đày Trại Cải tạo chớ gì?”.


Janos Rozsas người Hung bị 10 năm nhưng bảo ký là ký gấp. Nghe tuyên đọc (bằng tiếng Nga) có hiểu mù tịt gì. Họ lại đọc ngoài hành lang xà lim nên Janos cứ nằm chờ bản án mãi! Đi đày rồi cũng chỉ nhớ mang máng…


Lúc được trả về nhóm, tôi mỉm cười. Thấy vui vui, rõ ràng nhẹ thở hẳn. Mới có 8 năm mà. Bọn họ lãnh một chục năm chẵn, kể cả “thầy bói sáng” Valentin! Kẻ đau khổ gần ch.ết là gã kế toán 5 năm, nhẹ nhất đám rồi đến tôi.


Bên ngoài cửa sổ nắng xuân reo vui, gió xuân mơn man, tiếng chim ríu rít, hạnh phúc biết mấy! Bên trong chúng tôi cũng bắt đầu cười vì mọi sự tiến hành tốt đẹp quá, và gã kế toán có 5 năm đã ngất xỉu được! Nực cười cho những niềm hy vọng ngớ ngẩn hồi sáng, bà con “tiễn biệt” lâm ly quá. Cứ tưởng “kẻ ở người về” thật, nhiều thằng đã dặn “mật hiệu” y củ khoai luộc mà.


Khốn nạn, lúc bấy giờ vẫn còn những thằng tin “Yên chí đi! Vấn đề thủ tục phải tiến hành vậy thôi. Rồi sẽ về hết! Tổng đại xá đến nơi…”.


“Đúng vậy, Stalin tuyên bố với nhà báo Mỹ, có đăng báo đàng hoàng mà”.
“Nhà báo Mỹ hả? Nhà báo Mỹ tên gì?”
“Tên gì tôi quên rồi! Chỉ nhớ sắp tổng đại xá…”


Tụi tôi cười nói cho đến lúc được lệnh xách khăn gói lên, sắp hàng hai đi ngược trở ra, lại đi ngang mảnh vườn hoa nhỏ. Và lại đi tắm, trời đất! Sáng mới tắm giờ lại tắm nữa. Quần áo lại phải cởi ra, khăn gói lại treo trên mắc. Xà bông hôi khét nhưng vòi nước nóng vẫn dễ chịu lạ. Được đi tắm cả bọn lại xôn xao, cười nói. Vui như học trò đi thi về chớ chẳng phải đám tù sắp đi đày. Cũng may là còn cười được để “bồi dưỡng cơ thể” phần nào!


Lựa đúng lúc lau khô người, Valentin tới bên tôi rỉ rả: “Thôi vậy, cho nó xong đi! Tụi mình còn trẻ, còn trẻ, còn sống nhiều. Chỉ cần ở Trại phải lo giữ mồm giữ miệng, họ biểu công tác là làm cho đàng hoàng là khỏi sợ lãnh thêm nữa”.


Thì ra gã “thầy bói sáng” đã có kế hoạch chương trình đi đày rồi. Cứ vậy mà sống thì còn có hy vọng. Niềm hy vọng của hạt lúa nhỏ nhoi mắc kẹt giữa cái cối xay đá Stalin! Ai cũng muốn sống làm việc đàng hoàng ngậm miệng cho xong. Rồi ráng quên hết.


Nhưng trong tôi một sự thật chợt lóe lên: nếu muốn sống điều thiết yếu là phải không sống thì thử hỏi còn sống để làm gì?


Chế độ đi đày do quyết định Hội đồng An ninh chẳng phải sáng tác sau Cách mạng. Nữ hoàng Catherine không thích ông nhà báo Novikok nên phạt tù 15 năm có cần đưa ra Toà xử đâu. Hậu duệ của ông bà vua nào chẳng lâu lâu ghét mặt thằng nào hạ gục thằng ấy?


Từ 1860 mới canh cải chế độ tư pháp, từ vua quan đến dân đều ý thức vai trò tư pháp rõ hơn. Vậy mà Korolenko đào bới lại lịch sử khoảng 1870 – 1880 vẫn vạch ra thiếu gì những “biện pháp hành chính” giẫm lên quyết định của Toà án. Năm 1872 chính đương sự và 2 sinh viên cùng bị ông Thứ trưởng Tài nguyên Quốc gia tống đi đày… khỏi đưa ra Toà. Sau đó 2 anh em Korolenko còn bị đày đi Glazov. Vị “đại diện nông dân” Fyodor Bogdan lên bệ kiến nhà vua đã bị nhà vua cho đi đày, cũng như Pyankov được Toà tha bỗng vẫn có lệnh vua cho đi an trí như thường. Còn Vera Zssulich bỏ trốn ra nước ngoài vẫn có thư về vạch rõ: Không trốn vì sợ Toà tống giam mà không muốn đày đoạ tấm thân vì “biện pháp hành chính”.


Những “biện pháp hành chính” kiểu bản án đánh máy sẵn chia làm 2 cột đã có từ lâu nhưng hiển nhiên ở một nước Á châu ngái ngủ còn được nhưng ở một xã hội văn minh tiến bộ gương mẫu thì không thể chấp nhận. Ai cho ra “biện pháp hành chính”? Hội đồng An ninh (OSO). Nhưng Hội đồng An ninh là ai? Là Nga hoàng, là ông Thống đốc, ông Thứ trưởng chẳng hạn. Tại sao Hội đồng An ninh lại có đặc quyền ghê gớm đó?


Danh từ Hội đồng An ninh chính thức xuất hiện khoảng 1920 trở đi với thủ tục tam đầu, công tác thường xuyên. Nghĩa là một bộ ba lập thành Hội đồng, họp kín trong phòng để thường xuyên qua mặt Toà án! Lúc mới đầu còn sử dụng mỹ từ “Ủy ban tay ba của GIẢI PHẪU” sau chẳng cần giấu tên các ông trong Ủy ban! Có thằng nào đi đảo Solovesty mà không nhớ quý danh bộ ba lừng danh của Mạc Tư Khoa? Gleb Boky, Vul và Vasilyev. Nghe chữ troika quả lạ tai. Dường như nó gợi nhớ hình ảnh một cỗ xe trượt tuyết thời cổ, nó tượng trưng cho cả một bí mật.


Tại sao phải cần bộ ba, troika? Toà án đâu phải Bộ Tư, cần sự thay thế của nó? Vả lại troika đâu thể là Toà án được?


Bộ ba troika dễ sợ ở chỗ nó chỉ họp kín, chỉ chiếu hồ sơ quyết định, không cần bị can. Bộ ba chỉ cần cho ra quyết định trên mảnh giấy nhỏ để “ký tên vô đó” nên khủng khiếp hơn Toà án Nhân dân nhiều. Tụi tôi hình dung bộ ba như một cơ quan cực kỳ bí mật. Từ ăn ngủ đến làm việc troika giống người khác, chừng bắt tay vô việc là không ai có quyền biết. Bộ ba tự cô lập trong bí mật để cho ra những bản đánh máy mà nạn nhân chỉ có quyền đọc hay nghe đọc rồi ký tên chớ không được giữ.


Những ủy ban tay ba chỉ xuất hiện trên giấy tờ, không ai biết mặt mũi ra sao, có nhiệm vụ ghê gớm là không trả tự do cho một thằng nào bị câu lưu điều tra. Nếu ngành Kỹ thương có Sở Kiểm soát Phẩm chất hàng hoá để cấm chặn hàng xấu thì người xấu có troika GPU lo liệu! Trường hợp không có tội, không đưa ra Toà xét xử được thì troika vẫn có thẩm quyền cho hưởng thủ tục giảm khinh (thủ tục 32) nghĩa là biệt xứ, không được lai vãng các đô thị lớn hay cho đi an trí vài ba năm để “đẩy ra ngoài lề sinh hoạt xã hội” ở một địa phương nào đó.


(Kể ra còn nhắc tới danh từ có tội là còn lạc hậu vì nhà nước tống giam kẻ nào chẳng phải vì nó có tội mà vì nó là mầm mống đe doạ an ninh xã hội. Nói cách khác vô tội nhưng bị coi có thể làm hại cho xã hội cũng tù. Ngược lại, có tội nhưng được xã hội chấp nhận ắt sẽ được phóng thích. Ngay Bộ Hình Luật 1926 còn bị ông Chưởng lý Vyshinsky – sau trên ¼ thế kỷ áp dụng – chỉ trích là “nặng tinh thần tư sản không chấp nhận được”, là “thiếu hẳn giai cấp tính” cũng như “quá đặt nặng vấn đề cân nhắc hình phạt căn cứ theo tội trạng”).


Tôi không có bổn phận viết về lịch sử cái gọi là troika đó cũng như biến nó thành Hội đồng An ninh lúc nào, đổi tên ngày nào hoặc tỉnh nào cũng có Hội đồng An ninh địa phương hay chỉ có ở Trung ương. Tôi cũng không vạch rõ ông lớn nào có tên trong Hội đồng An ninh, Hội đồng họp mấy ngày một lần, mỗi lần bao nhiêu lâu và lúc họp có nước trà giải khát, có chuyện vãn hay các ông Hội đồng chỉ cắm cúi vào hồ sơ. Tôi chẳng phải thứ sử gia ấy. Vả lại có được biết gì đâu mà viết?


Chỉ được biết Hội đồng An ninh hình thức là tay ba nhưng căn bản công tác thì nhất thể. Nghĩa là tuy ba mà một. Không biết tên từng đơn vị trong Hội đồng An ninh nhưng chắc chắn Hội đồng gồm đại diện thường trực của 3 cơ quan: một đại diện Trung ương Đảng, một đại diện MVD, một đại diện Viện Công tố.


Tuy nhiên cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên nếu sau này phát giác ra có Hội đồng An ninh nhưng Hội đồng chẳng hề nhóm họp một lần! Tất cả chỉ có một nhóm thư ký đánh máy nhà nghề, chuyên sản xuất những trích lục bản án ma, dưới quyền điều khiển của một cán bộ tổng quản trị. Nhóm thư ký đánh máy hiển nhiên là có và họ có làm việc. Tôi có thể bảo đảm.


Cho đến 1924 thẩm quyền troika chỉ được quyết định tối đa 3 năm đi đày. Từ 1924 trở đi tăng lên 5 năm đi đày trại Cải tạo. Nhưng từ 1937, Hội đồng An ninh có quyền “ra án” 10 năm và từ 1948 trở đi còn nới rộng thẩm quyền tới 25 năm. Nhiều nhân chứng – trong đó có Chavdarov – còn cả quyết thời chiến Hội đồng An ninh còn tuyên nhiều bản án tử hình. Điều này chẳng có gì lạ.


Hội đồng An ninh là một cơ quan mà Hiến pháp không đề cập đến, không hề ghi trong Bộ Hình Luật này. Tuy nhiên đó là một guồng máy xay dễ xài nhất, tiện lợi, không đòi hỏi thủ tục rườm rà, không cần “đánh bóng” bằng pháp lý. Hình Luật đi một đường, Hội đồng An ninh đi một đường riêng. Guồng máy xay cứ tiếp tục nghiến người, không cần một điều nào trong số 205 điều của Bộ Hình Luật. Nhắc tới hay viện dẫn Hình Luật cũng khỏi! Dân đi đày ưa hài hước:


“Có tội gì mà phải cần Toà Án? Đã có Hội đồng An ninh bao hết!”


Nếu Toà án có những điều luật này, bộ luật kia thì Hội đồng An ninh cũng phải quy định một số tội trạng và cần phải có tên tắt cho dễ nhớ. Con nít cũng không thể quên vì các tội trạng tổng quát của Hội đồng An ninh chỉ gồm 10 chữ tắt. Xin nhắc sơ lại dưới đây:


ASA: Tội xách động (nhà nước) Xô Viết
KRD: Tội hoạt động phản cách mạng
KRTD: Tội hoạt động phản cách mạng theo phe Trotsky (tội này chỉ thêm một chữ T nhưng chịu không biết bao nhiêu hành hạ)


PSh: Tội tình nghi gián điệp (trường hợp gián điệp rành rành mới đưa ra Toà xét xử)
SVPSh: Tội có những tiếp xúc có thể dẫn tới tội Tình nghi gián điệp
KRM: Tội có tư tưởng phản cách mạng


VAS: Thành phần nguy hiểm cho xã hội
SVE: Thành phần có hại cho xã hội
PD: Nó hành động phạm pháp (thường dùng để buộc tội các cựu tù nhân từng bị đi đày về)


Ngoài 10 tội tên tắt trên còn thêm một tội gần như có thể gán cho mọi người. Đó là tội chắc chắn, tức người cùng gia đình, thân thuộc của một người bị đày vì 1 trong 10 tội nói trên.


Xin nhớ 11 tội của Hội đồng An ninh không áp dụng nhất loạt, mỗi thời đại mỗi khác. Cũng như các điều luật và Sắc lệnh đặc biệt, có giai đoạn áp dụng ào ào như nạn dịch vậy. Cũng đừng quên Hội đồng An ninh không tuyên án. Hội đồng An ninh chỉ sử dụng biện pháp trừng phạt hành chánh mà thôi nên cố nhiên Hội đồng có quyền độc lập về pháp lý. Không phải một bản án nhưng “biện pháp hành chánh” của Hội đồng An ninh ngoài việc cho đi đày tối đa 25 năm còn thêm những khoản sau:


Tước bỏ chức tước, cấp bậc, huy chương
Tịch thu tài sản
Câu thúc thân thể
Cấm chỉ liên lạc thư từ, tiếp xúc


Một nạn nhân của “biện pháp hành chánh” Hội đồng An ninh bị biến khỏi mặt đất quá dễ dàng, chắc chắn hơn bản án của Toà án rừng nhiều. Độc hại nhất là nạn nhân hoàn toàn không có quyền thượng tố… nghĩa là không có cơ quan nào – hoặc lớn hơn, hoặc ngang hàng – để mà kháng cáo! Hội đồng An ninh chỉ chịu lệnh Bộ trưởng Nội An, Stalin và quỷ Sa-tăng!


Lại nữa, nhịp quyết định của Hội đồng An ninh vô cùng mau lẹ! Tất cả chỉ là đánh máy, nên chỉ sợ máy chữ đánh không đủ nhanh.


Còn điểm thuận lợi này mới đáng kể: Hội đồng An ninh không xử mà chỉ quyết định kín, căn cứ theo hồ sơ. Đỡ phải thấy mặt nạn nhân, đỡ phí tổn chuyên chở và một bức hình can phạm cũng khỏi tốn. Thời buổi tiết kiệm, nhà tù quá đông, đỡ phải nhốt những cái miệng ăn hại! Chỉ chưa xong hồ sơ còn được thí miếng bánh nhà nước. Hội đồng an ninh có quyết định là tống đi đày tức khắc để “lao động cải tạo”. Nếu cần thì người đi trước, quyết định của Hội đồng sẽ gởi tới trại sau!


Thông thường bọn tù đi đày đều là “người đi trước”, đi xe lửa. Lúc tới trạm xuống là bị lùa xuống, quỳ ngay ngắn dọc đường rầy để kiểm soát và tránh đào tẩu. Cảnh tượng này trông như họ quỳ gối trước Hội đồng An ninh để lắng nghe tuyên đọc thời hạn đi đày. Có khi tới trại Cải tạo (như trại Perebory 1938) mới có ông thư ký Ban Tiếp nhận cầm danh sách đọc. Chẳng hạn như: Tên X, tội SVE, 5 năm (thì ra công trường đào kênh Volga – Mạc Tư Khoa đang đòi hỏi gấp một số nhân công vĩ đại).


Nhiều kẻ đến trại, “lao động” mấy tháng vẫn chưa biết Hội đồng An ninh quyết định ra sao về số phận mình. Như trại Stalino, Ban Quản đốc lựa đúng ngày lễ Lao động 1-5-1938, treo cờ tưng bừng để đọc cho nghe quyết định của Hội đồng An ninh (thời gian này vì nhu cầu nhân công quá cao nên Hội đồng An ninh phải tản quyền về địa phương). Mà quyết định của Hội đồng An ninh địa phương đâu phải nhẹ. Từ 10 đến 20 năm.


Cũng năm đó, một đám Zek được đổi trại từ Chelyabinsk tới Cheropovets, chưa có quyết định. Đợi mấy tháng vẫn chưa có. Một hôm trời giá lạnh quá lại nhằm ngày nghỉ bị kêu tập họp ở sân trại để nghe ông Trung úy vừa tới trại thông báo quyết định của Hội đồng An ninh. Có lẽ ông sĩ quan trẻ còn chút lòng thương mấy thằng tù giày dép không đủ ấm mà phải đứng đợi lâu trên nền đất băng giá nên ra lệnh:


“Trời giá lạnh cỡ này mà tập họp làm chi cho khổ thân? Giá chung Hội đồng An ninh lần này cho các anh là 10 năm chẵn. Chỉ rất ít, rất ít được 8 năm. Nói vậy hiểu chưa? Thôi, giải tán!”


Bộ máy Hội đồng An ninh đã làm việc hiệu quả, trơn tru như vậy thì hà tất phải có Toà án? Có xe lửa tối tân, đi êm không tiếng động, tù lại không trốn nổi thì tại sao phải xài xe ngựa? Bộ tính nuôi mấy quan Toà cho mập chắc?


Nhưng không lẽ một quốc gia dân chủ lại không có Toà án? Năm 1919, một trong những mục tiêu do Đại hội Đảng kỳ thứ 9 đề ra là “tích cực hướng dẫn công nông học tập đường lối tư pháp”. Hướng dẫn công nông sinh hoạt tư pháp thì hơi khó. Việc xử án tế nhị, phức tạp quá mà! Nhưng “bỏ qua” toà án thì không xong! Tuy nhiên toà Chính trị, toà Quân sự, từ cấp dưới đến Tối cao Pháp viện đều noi gương Hội đồng An ninh: làm việc cấp tốc, không mất thời gian xử án lôi thôi, khỏi tranh luận giữa hai bên nguyên bị. Đặc điểm số một của tổ chức tư pháp của chúng ta là tất cả mọi cấp Toà đều giống như ở điểm xử kín. Toà chỉ xử kín dân Nga đâm quen với lề lối xử kín đến độ nghe đòi hỏi “Toà án là phải xử công khai” thì ngay thân nhân những người từng lãnh án cũng cãi lại: “Toà xử mà công khai thế nào được? Địch biết hết còn gì? Phiên xử án cũng là tin tức chớ?


Khốn nạn, chỉ sợ địch biết hết tin tức mà chấp nhận xử kín? Họ có biết đâu ngay dưới thời quân chủ, phạm tội mưu sát nhà vua bằng súng như Karakozov ra toà vẫn có luật sư biện hộ, án chính trị cũng xử công khai không sợ bọn Thổ biết hết tin, Vera Zasulich mưu sát hụt, bắn qua đầu ông Trưởng ty Mật thám thủ đô đâu có bỏ xác trong hầm tr.a tấn. Phiên toà xử công khai, tha bổng Vera mà nữ phạm nhân còn được xe ngựa đến rước về nhà nữa!


Nói vậy không phải tôi có ý ca ngợi chế độ tư pháp thời Nga hoàng toàn hảo, tốt đẹp. Chỉ một xã hội văn minh, trưởng thành mới có nổi một chế độ tư pháp tốt. Và dĩ nhiên người bình dân Nga chẳng ưa gì Toà án, chứng cớ là Vladimir đắc lực nghiên cứu phong tục thời xưa đã xác nhận “trước thời đại giải phóng nông nô, kho tàng ca dao tục nữ Nga không hề có một câu ca ngợi Toà án bao giờ”! Nhưng ít nhất cũng có một cuộc cải tổ chế độ tư pháp năm 1864 để ít nhất xã hội thị dân Nga cũng bắt kịp Anh quốc về tổ chức Toà án.


Chính nhà vua Dostoievsky từng công kích lối xử án có Bồi thẩm đoàn và có các ông luật sư tranh luận chỉ cốt để trổ tài hùng biện. Theo Dostoievsky thì nhiều khi Bồi thẩm bị quyến rũ theo các cuộc lý sự đó mà quên phứt trách vụ công dân. Đồng ý những cuộc hùng biện quá trớn đó cũng có ảnh hưởng phần nào đến một chế độ tư pháp đang thời kiện toàn. Có thể là một chứng bệnh dân chủ nữa nhưng dù sao không độc hại bằng lối xử kín. Cũng Dostoievsky mơ tưởng đến một lề lối xử án mà tất cả những yếu tố cần yếu cho sự bênh vực can phạm đều được chính Ủy viên Công tố trù liệu hết. Đẹp quá, nhưng bao giờ có nổi, trong khi luật sư biện hộ thời buổi này – nhân danh công dân Xô Viết – buộc tội bị cáo là chuyện thường thấy!


Toà xử kín thuận lợi cho mấy ông thẩm phán quá. Dễ làm việc, khỏi cần áo thụng mà xắn tay áo lên còn được mà. Không máy phóng thanh, không có nhà báo, không công chúng. Lâu lâu cũng có mấy hàng ghế công chúng nhưng toàn một mặt điều tr.a viên! Ở Toà Lêningrad nhân viên cơ quan ưa theo dõi tận phiên toà để coi cung khai ra làm sao để nếu cần đêm đến xuống tận xà lim “hỏi thăm”.


Đặc điểm thứ hai của các phiên toà xử Chính trị của ta là quan toà chỉ ngồi cho có, bản án đã có sẵn từ trước rồi [1] . Cấp trên muốn gì, quan Toà phải biết rồi (nếu cần chỉ phải nhấc điện thoại lên!). Nghĩa là bắt chước bên Hội đồng An ninh, Toà cho lập những bản án có sẵn, đánh máy để trống chỗ điền tên họ tù nhân bằng tay.


Năm 1942 trước phiên toà quân sự quân khu Lêningrad, phạm nhân Strakhovich kêu ầm lên:
“Xin Toà xét cho, năm ấy tôi đăng lính cho Ginatovsky thế nào được? Tôi mới 10 tuổi mà.”


Ông Chánh thẩm gạt phăng, nạt lớn hơn: “Coi chừng! Bị can không được phép mạ lỵ Sở Quân báo nghe!”


Cũng phiên toà đó được lệnh sẵn: đứa nào dính dáng đến Ginatovsky là xử bắn hết. Kẹt một thằng tên Lipov không hiểu sao dính vô vụ này nhưng trước Toà, cả nhóm không biết mặt hắn mà Lipov cũng chẳng biết ai. Vì vậy chỉ bị 10 năm tù!


Xét cho cùng Toà xử theo lệnh trên càng đỡ khổ cho ông thẩm phán. Chẳng phải thắc mắc, ân hận vì xử oan ức cho một ai! Vì đỡ phải cân nhắc tội trạng nên nghiêm khắc nổi tiếng như Chánh án Ulrikh – chuyên viên tuyên án tử hình – cũng tự cho phép đùa bỡn, vui vẻ một chút. Chính Ulrikh người lùn, mập ngồi Chánh thẩm phiên toà quân sự xử bọn tự trị Estonia năm 1945 đã luôn miệng giễu cợt với các đồng nghiệp và cả tù nhân. Gọi đến tên Susi, biết hắn là luật sư nổi tiếng nên quan toà “chọc quê”:


“Rồi, nghề của chàng đây! Thử trổ hết tài coi có hơn chút nào không?”
Làm sao hơn được? Lệnh trên đã quyết định rồi: phiên toà có xử (hay không) thì mỗi người trong nhóm Susi cũng lãnh đều 10 năm!


Vì lẽ đó phiên Toà diễn ra êm ả, vừa xử vừa hút thuốc cũng còn được, xế trưa tạm ngừng để ăn cơm trưa và tối đến ra lệnh cho tù ngồi đợi suốt đêm, đợi Toà đình nghị án. Đêm hôm mà nghị án gì? Các ông toà về nhà ngơi nghỉ, để 9 giờ sáng hôm sau quần áo tươm tất, râu tóc cạo đàng hoàng… ông Chánh thẩm bước vô oai vệ hết:


“Mọi người đứng lên! Toà tái nhóm…”


Toà tái nhóm, Toà nghị xử rồi Toà tuyên án! Vì bản án có sẵn và Toà còn diễn “phường tuồng” như vậy nên nhiều người cho rằng thà trắng trợn như Hội đồng An ninh còn hơn đóng kịch máy móc.


Đặc điểm thứ ba và cuối cùng của Toà án là xử theo biện chứng. Có điều khoản, có bộ luật rành rành nhưng xét vì “luật pháp không phải là đá tảng chặn đường” nên người ngồi xử án phải áp dụng biện chứng để linh động hoá việc xử án theo chiều hướng tiến bộ, thích nghi với hoàn cảnh. Đúng nghĩa nôm na của câu: “Miệng nhà quan có gang có thép!”


Ngay bên cạnh mỗi điều khoản của Bộ Hình luật đã có sẵn các hình thức suy diễn, chiều hướng, chỉ thị, để tròng vào cổ bị can. Mà dù hành động của bị can không một điều luật nào dự liệu trừng phạt cũng còn có thể tuyên án căn cứ vào một trong 3 biện chứng:


Suy diễn để đồng hoá tội trạng (danh từ “suy diễn” tự nó đã rộng nghĩa chán!)
Xét tới gốc gác, giai cấp. Chẳng hạn xuất thân giai cấp phản động, phản cách mạng [2] .


Xét tới liên hệ, tiếp xúc với những phần tử nguy hiểm [3] . Biện chứng thứ ba này vô cùng linh động: biết ai là phần tử nguy hiểm? Định nghĩa thế nào là liên hệ?


Xin đừng phàn nàn “biện chứng pháp cao su”! Ngay Sắc luật tuyên hủy án tử hình cũng thình lình bị Sắc luật ngày 13 tháng 1 năm 1950 hủy bỏ dễ như chơi. Vả lại trên thực tế có bao giờ án tử hình không tồn tại! Nhân chứng Beris còn đó! Sắc luật mới tròng án tử hình lên những phần tử phá hoại, gây rối trị an. Nhưng thế nào là hành động phá hoại, gây rối thì Sắc luật không quy định rõ. Lửng lơ vậy mới dễ suy diễn! Phải chăng dùng chất nổ TNT phá tung một khúc đường rầy mới là phá hoại? Không phải. Sản xuất hàng xấu, không đúng tiêu chuẩn cũng là phá hoại kinh tế. Còn phá rối thì hai người ngồi xe điện nói chuyện với nhau cũng có thể bị kết tội âm mưu phá rối trị an vậy! Lấy chồng ngoại quốc cũng có thể liệt vào hạng có hành động gây rối dễ như không…


Thực tế quan toà không xử án. Quan toà chỉ lãnh lương tuyên án. Xử án đã có các chỉ thị. Chỉ thị năm 1937: mười năm, hai mươi năm, xử bắn. Chỉ thị năm 1945: giá chung 10 năm cho tất cả mọi người, cộng thêm 5 năm an trí (vừa vặn 3 đợt nhân công cho 3 kế hoạch ngũ niên). Chỉ thị năm 1949: đồng loạt 25 năm hết [4] .


Cũng như Hội đồng An ninh, Toà án được quan niệm như một thợ máy phát án, một đầu máy xe lửa kéo con người vào tù đày. Ngay lúc đặt chân vô phòng tuốt người của Nội an, từng hàng nút áo bứt ra là tù chắc. Hết cựa quậy mà có bị chồng án, kéo dài ngày ra cũng chẳng đến nỗi. Vì quan niệm chắc chắn và ngấm lâu đến quen quá mất rồi nên năm 1958 những đấng quen ra chỉ thị bị hố một cú quá nặng khi cho ra chỉ thị mới: “Nguyên tắc căn bản về thủ tục hình án Liên Sô”. In trên báo rồi mới quên không chừa chỗ cho một trường hợp miễn nghị nào hết! Nhật báo Izvestiya ngày 10 tháng 9 năm 1958 nhẹ nhàng sửa lưng: “Chỉ thị như vậy dễ khiến người ta có cảm tưởng, các toà án của chúng ta chỉ có trừng phạt mà không có tha”.


Tuy nhiên có thể đặt vấn đề. Tại sao cứ bắt buộc bản án của toà phải có 2 chiều là tống giam và tha bổng, trong khi tổng tuyển cử chỉ có một chiều độc diễn. Xét về kinh tế thì không thể có vấn đề tha bổng! Tha bổng phạm nhân nào là vô hiệu hoá bao nhiêu công tác, bao nhiêu cán bộ làm việc, kể như không sao. Nào điểm chỉ viên, mật báo, nhân viên đi bắt, điều tr.a viên thẩm cung. Công tố viên truy tố, thẩm phán ngồi xử đều vô ích. Còn giám thị gác khám, còn công voa đưa đi đày…


Dưới đây là một trường hợp xét xử điển hình của Toà án Quân sự. Năm 1941 đạo quân trú phòng Mông Cổ nhàn nhã quá nên có chỉ thị An ninh quân đội phải gia tăng hoạt động. Viên trợ y nhà binh Lozovsky biết thóp bèn áp dụng chỉ thị lập tức để quất tình địch là Trung úy Pavel Chupenyev. Lựa lúc rỗi rảnh chỉ có 2 đứa, Lozovsky bèn gợi chuyện “thảo luận thân mật” để cho ông Trung úy vào bẫy. Đề tài thứ nhất:


“Tại sao quân ta cứ triệt thoái mãi trước quân Đức vậy?”
“Tại chúng trang bị mạnh hơn, chúng điều động trước nên giành được chủ động.”


“Đâu phải! Đó là chiến thuật ta triệt thoái để nhử địch vào sâu!”
Đề tài thứ hai:
“Anh có tin là Đồng minh sẽ viện trợ chúng ta?”


“Chắc chắn Đồng minh sẽ viện trợ nhưng chẳng phải giúp chúng ta khơi khơi.”
“Xin lỗi. Họ cho chúng ta ăn bánh vẽ. Sẽ chẳng viện trợ gì hết!”


Đề tài thứ ba là: “Theo anh, tại sao Thống chế Voroshilov được gởi qua chỉ huy chiến trường Tây Bắc?”. Sau mục “thảo luận thân mật” tay đôi cố nhiên Trung úy Chulpenyev được Phòng Chính trị Sư đoàn gọi lên, bị Đoàn Thanh niên Cộng sản khai trừ lập tức về 3 tội: (1) tinh thần chủ bại, (2) đề cao giá trị vũ khí địch và (3) đánh giá thấp chiến lược của Bộ Tổng Tư lệnh.


Trước phiên bình nghị, tố Chulpenyev hăng nhất là Bí thư đoàn Thanh niên Kalyagin. Chẳng là hắn tác phong quá hèn hạ trong trận Khalkhin Gol mà Chupenyev lại biết tẩy nên hắn mượn dịp quật địch thủ trước. Sau khi bị câu lưu, Chupenyev được gặp gã trợ y để đối chất theo thủ tục. Điều tr.a viên không chờ đối chất về nội dung cuộc thảo luận tay đôi mà chỉ hướng về nhân chứng Lozovsky hỏi một câu duy nhất: “Chulpenyev, anh biết người này không? Có hả? Tốt, cám ơn. Nhân chứng có thể về!”


Thì ra cuộc đối chất biến thành đối diện! [5]


Đơn vị đóng ở Mông Cổ nên Chulpenyev được nếm mùi “nằm giếng cá nhân”. Một tháng sau mới được đưa ra phiên toà của Sư đoàn 36 cơ giới, hiện diện có Chính ủy Sư đoàn 36 Cơ giới, hiện diện có Chính ủy Sư đoàn Lebedev và Trưởng phòng Chính trị Slesarev. Nhân chứng Lovzovsky không xuất hiện. Sau này chỉ có chữ kỹ trong hồ sơ. Trước Toà bị cật vấn, Chupenyev cứ sự thật khai và còn nhấn mạnh: “Tôi nói vậy có gì hại đâu? Nhiều người cũng nói có sao?”. Toà vặn hỏi: “Ai nói? Cho tên họ đi”. Đời nào chịu khai bậy, bị can bèn chối quanh và xin được nói “lời nói chót” là để chứng minh lòng yêu nước xin Toà cứ gởi đến một chỗ nào chắc ch.ết nhất và nếu có thể xin mời ông bạn đã tố cáo đi cùng!


Có đời nào Toà quân sự lại trẻ con, chấp nhận đề nghị “anh hùng rơm” đó? Mật báo viên đã làm xong công tác thì Toà cũng phải làm công tác trừng trị để ngăn ngừa những thành phần nguy hiểm, tư tưởng lệch lạc chứ? Toà đình xử để các quan toà hút thuốc lá và nghị án. Sau đó bản án của Trung úy Chulpenyev là 10 năm tù cộng 3 năm an trí.


Thế chiến II vừa qua mỗi Sư đoàn phải có ít nhất 10 vụ Chulpenyev. Nếu không chẳng hoá ra lập Toà Quân sự cấp Sư đoàn tốn tiền vô ích? Mà chúng ta có bao nhiêu Sư đoàn cả thảy? Đó cũng là lý do những phiên toà quân sự đâm nhàm chán, buồn nản như khuôn mặt quý vị thẩm phán nhà binh. Bản án đã có giá sẵn, thi hành nhất loạt nên quan toà chỉ đóng vai những máy đóng dấu.


Toà như vậy, tuyên án như vậy nhưng ai ai cũng làm nghiêm trang quan trọng, dù biết là phường tuồng hết ráo! Lính áp giải vẫn gốc nông dân, đụng chạm quá nhiều với thực tế càng biết nhiều hơn hết. Nếu không ở trạm dọc đường Novosibirk năm 1945. Ban Tiếp nhận đâu có lối điểm danh phạm nhân lần lượt theo thứ tự điều khoản trừng phạt? Chẳng hạn như:


“Nào bạn 58/1A “đi” 25 năm đứng ra đây!”
Hoặc gã trưởng toán áp giải có thể hỏi một thằng: “Sao, anh làm gì mà bị?” Nghe trả lời: “Tôi có làm gì đâu”, hắn cười gằn:


“Anh nói láo! Không làm gì đâu thì chỉ 10 năm.”


Gặp trường hợp khẩn Toà Quân sự ngồi một vụ đâu có đến 1 phút. Đứng lên, ngồi xuống là xong! Những lần phải xử 16 giờ liên tiếp, Toà rút vào trong nghị án thì lúc nhìn vô sẽ thấy một bàn đầy trái cây trải khăn trắng. Lâu lâu rỗi rảnh các quan toà nhà binh mới chơi trò tâm lý, nồ phạm nhân bằng bản án tối đa để cho nó lịm người đi đã. Sau một hồi quan sát, ông Chánh thẩm mới hạ giọng: “Xét vì bị can thành khẩn hối ngộ, Toà truyền…”.


Có dịp ghé mắt coi phòng xử án Toà Quân sự, để ý chỗ vách tường phòng tù ngồi đợi phiên xử thế nào cũng thấy cả rừng “lưu bút” nguệch ngoạc bằng viết chì hoặc móng tay. “Tử tội X…”. “Kẻ lãnh 25 năm…”. “Tôi 10 năm”. Dĩ nhiên muốn xoá bỏ thì quá dễ nhưng nhà nước có ý để chúng nằm đấy để dằn mặt phạm nhân ngồi đợi xử:


“Cứ coi đấy! Đừng tưởng trước toà chối tội mà dễ. Muốn giở trò gì thì án vẫn là án!”


Đúng thế, cho dù có hiền như cừu, có khúm núm cũng một bản án. Dám hùng biện, tranh luận với quan toà hăng cỡ Olga Slioberg trước Tối cao Pháp viện năm 1936 cũng vô ích. Có ai làm cử toạ đâu, ngoài mấy ông Điều tr.a viên? Chỉ muốn tăng án là dễ ợt: Thay vì 10 năm muốn tử hình cũng được! Đó là trường hợp Nikolai S. Daskal, năm 1937 ra toà đặc biệt ở Maikop đã nổi hung chửi vào mặt phiên toà do Chánh thẩm Kholik chủ toạ:


“Tụi bay là những quân Phát-xít! Tao lấy làm hổ thẹn mấy năm trời đã hoạt động trong Đảng của chúng bay.”


Dĩ nhiên bản án Daskal chỉ có thể tử hình. Nó đã dám mạ lỵ Đảng và cán bộ Đảng trước phiên Toà thì xử nó một lượt cho rồi, đỡ phải xử lần nữa.


Trường hợp bị cáo phản cung trước Toà thì sao? Cũng được, song coi chừng. Cả nhóm phản cung toà vẫn có biện pháp xử trí rất êm.


Chavdarov kể lại một phiên toà lớn, bao nhiêu bị cáo phản cung hết, chối hết tội. Công tố viên gật đầu đứng dậy, đưa mắt nhìn Toà. Vài giây sau Toà tuyên đình, khỏi nêu lý do. Các bị can được đưa khỏi phòng xử. Một số điều tr.a viên và “phụ tá” từ khám giam cứu chạy sang gấp. Mỗi điều tr.a viên lãnh một mạng phản cung đưa ngay vô một phòng nho nhỏ ở gần đó. Những gì hiện ra bên trong ai cũng biết. Chừng điều tr.a viên xong việc thì Toà tái nhóm và lần này chẳng bị cáo nào phản cung hết (vì Toà mà đình xử lần nữa thì nguy quá! Điều tr.a viên vừa “dặn” hờ mà!).


Vụ án rắc rối nhất mà Toà phải xử thực sự có lẽ là vụ của đồng chí Aleksandr G. Karetnikov, Giám đốc Nha Khảo cứu ngành Dệt [6] . Trước khi Tối cao Pháp viện, ban Quân sự nhóm xử, Karetnikov “rỉ tai” lính gác. Gã chạy đi ngay và ông Chưởng lý đồng ý cho gặp gấp vì có mấy khi tự ý phạm nhân chịu khai thêm, khai nhiều chi tiết mới? Tưởng gì, phạm nhân chìa một bên xương quai xanh gãy còn chưa lành cho ông Chưởng lý coi và tuyên bố: “Đấy, bản tự thú như vậy đấy”. Ông Chưởng lý “khoái khai thêm” biết mình hố, dính vào vụ rắc rối này dễ kẹt lắm lắm. Vị đại diện Công tố đâm rét, không dám quyết định và đã lỡ cưỡi cọp, Karetnikov đành liều làm tới. Ông Chưởng lý không dám tha, đành để Toà xử.


Trước toà, Karetnikov vẫn chìa chỗ xương gãy ra. Toà Quân sự chưng hửng đành phải nghị xử thực sự. Toà không thể trơ tráo kết tội mà cũng không dám tha bổng, bèn tuyên bố bế mạc, phạm nhân không có án!


Tuy nhiên, Karetnikov thay vì tự do thì chỉ được trả về khám giam cứu. Xương gãy chữa 3 tháng vừa hết lại lãnh trát mới, có ông điều tr.a viên mới.


Điều tr.a viên mới hỏi cung rất tử tế khiến Karetnikov tưởng đâu cứ làm tới chắc được tha bổng, làm găng luôn, không nhận bất cứ tội trạng nào. Đúng, hồ sơ không có gì thì Toà xử sao được? Nhưng đã có quyết định của Hội đồng An ninh. Nghĩa là vẫn 8 năm tù! Hội đồng An ninh đã lườm sẵn để làm công việc thay Toà cho tiện, dù Toà án vẫn bị thi sĩ Drezhavin “hạ” bằng mấy vần thơ sau:


Toà không vô tư là Toà ăn cướp
Là nơi Pháp luật ngủ yên
Để dân đen cúi đầu đưa cổ
Ra Toà, cho ông Toà hỏi tội.


Bao nhiêu con người như Karetnikov, như A. D. R… từng được dẫn ra trước phiên Toà ấy chịu phán xét. Tối cao Pháp viện, ban Quân sự! Thời cuộc đổi thay, đến lượt tôi cũng được hân hạnh diễn tiến. Đó là tháng Hai năm 1943, tôi cũng leo 4 thang lầu lên Toà nhưng không phải tội nhân vì bên cạnh tôi có ông Đại tá, chuyên viên nghi lễ rất lịch sử, hào hoa của Đảng. Cũng gian phòng mênh mông, hàng cột cao vút, cũng chiếc bàn móng ngựa khổng lồ bên trong có kê bàn nữa, với 7 ghế cho 7 ông Toà Tối cao ngồi xử. Nhưng bữa ấy tôi được dịp hầu chuyện đông đủ 70 ông Tối cao họp khoáng đại.


Bữa ấy tôi đã nói rằng:


“Thưa quý Toà, hân hạnh làm sao tôi gặp được quý Toà hội họp và đón tiếp long trọng thế này. Xin thú thật tôi là thằng tù bị đày 8 năm và an trí thì gần như vĩnh viễn… vậy mà chưa được thấy mặt một ông Toà nào!”


Theo tôi thì lúc bấy giờ các ông Toà Tối cao chắc phải dụi mắt ngó vì họ đã thấy tận mắt một thằng Zek nào đâu? Nhưng họ không phải thành phần tù cũ, họ xác nhận vậy. Những ông cũ, những ông thời đó không còn ngồi đây nữa. Họ một phần về hưu, một phần bị sa thải (như “chuyên viên tử hình” Ulrikh, năm 1950 dưới thời Stalin cũng bị sa thải. Có thể nào giảm khinh ghê gớm thế?). Có một số bị truy tố dưới thời Kruschhev nhưng đã ngồi hàng ghế bị cáo, có ông còn dám nạt lại rằng:


“Mấy anh coi chừng nghe! Bữa nay tôi đứng ra đây cho mấy anh xử. Nhưng rồi đây chính tôi sẽ xử lại mấy anh!”


Có điều ngày đó không hề có. “Phong trào” Kruschhev bất quá chỉ là lửa rơm, chỉ ồn ào sửa sai lúc đầu để rồi sau đó tắt ngấm. Chỉ được đến đấy là hết!


Làm sao tôi quên được buổi họp mặt hôm ấy và những điều tâm sự, những tiết lộ của những ông toà địa vị cao nhất nước? Có ông lên diễn đàn tố cáo những ông toà chế độ trước, trong các phiên họp công tác dám lấy làm vinh dự vỗ ngực khoe đã thành công hoàn toàn trong việc vận động ngưng giảm khinh. Do đó các đồng nghiệp mới có thể tuyên những bản án 25 năm thay vì 10 năm chớ. Có ông kể tội Toà hồi ấy lệ thuộc Cơ quan một cách quá nhục nhã. Phải nhắm mắt xử theo chỉ thị là thường. Biết sao hơn được? (Thì ra thế!). Có lần cơ quan gửi sang một thằng nào ở Mỹ về can tội nói láo rằng: “Đường sá bên Mỹ tốt hơn bên mình nhiều quá!” để yêu cầu Toà trừng trị. Ông Toà thấy vô lý quá, bèn gởi trả hồ sơ và người về “điều tr.a lại”.


Kết quả là cơ quan nổi nóng, trừng phạt ngay ông Toà đã dám nghi ngờ việc làm của nhân viên cơ quan. Dĩ nhiên ông Toà ẩu vẫn còn làm Toà như thường, nhưng thuyên chuyển ra làm thư ký Toà Quân sự đảo Sakhlin! [7]


Nói gì ông Toà, Công tố viện cũng còn phải nể Cơ quan nhiều quá! Năm 1942 Ryumin đã gây bao nhiêu tai tiếng trong ban phản gián Hạm đội miền Bắc. Cả nước biết, Công tố viện cũng biết nhưng không dám truy tố mà chỉ thông báo lịch sự cho xếp Abakumov! Quả nhiên Abakumov đã không trừng phạt còn kêu đàn em về để cho lên chứ” và sau này bị hạ bệ cũng vì Ryumin.


Phải chi bữa đó còn thời giờ thì tôi hẳn còn được nghe nhiều chuyện gấp mười! Nhưng bấy nhiêu đó xét cũng đủ rồi, có điều tôi ngạc nhiên là vì các ông Toà Tối cao vừa nhìn nhau vừa kể cho tôi nghe một cách giản dị quá. Họ cũng quan Toà. Họ cũng là người mà! Sao họ có thể hào hứng tố cáo dễ dàng như vậy? Họ kể có vẻ thiện chí lắm nhưng tôi có cảm tưởng nếu thời cuộc đổi thay, chính những ông này sẽ lại ngồi xử tôi. Có thể chính trong gian phòng Đại hội này. Cố nhiên là tôi sẽ phải có tội, sẽ phải đi tù chắc.


Như vậy tội ở người hay ở chế độ?


Ngạn ngữ cổ có câu: “Luật pháp không đáng sợ. Nên sợ quan án”. Nhưng theo tôi thời buổi này phải lật ngược lại mới đúng vì luật pháp dữ dằn, dã man hơn người nhiều. Nhất là luật pháp của Abakumov!


Bữa hôm đó có ông Toà còn lên diễn đàn ca ngợi cuốn Một ngày của Ivan Denisovich, một cuốn sách đọc xong cảm thấy lương tâm yên ổn. Họ cho rằng những gì tôi nói ra còn quá ít, quá tốt vì thực sự đời sống trong Trại Cải tạo còn thậm tệ hơn nhiều, họ cũng biết như vậy. Trông vị nào cũng trí thức cả, đáng độc giả của Novo Mir cả! Họ hăng hái có ý kiến, nào đòi hỏi cải tổ lại chế độ, nào công kích những ung nhọt xã hội, nhất là ở miền quê.


Ngồi lặng yên trước mặt 70 ông Toà Tối cao hăng say như vậy tôi còn biết nói gì? Tôi ngồi yên và không thể không có cảm nghĩ cuốn Một ngày trong đời Ivan Denisovich dù sao cũng chỉ là một giọt nho nhỏ của Sự Thật. Một giọt mà đã thế. Nếu bao nhiêu Sự Thật trút xuống ào ào như thác nước trên đất nước này thì thử hỏi còn phản ứng đến đâu?


Tôi vững tin thế nào cũng có một ngày. Ngày của Sự Thật phải tới.
8. Bình minh công lý


Không hiểu các dân tộc bạn có vậy không, chớ dân Nga chúng tôi mau quên lắm. Chúng tôi không nhớ nổi chuyện xảy ra mà chỉ nhớ những gì người ta đóng vào đầu óc hoài hoài bắt nhớ. Có thể đức tính mau quên do lòng tốt mà ra nhưng quả dễ bị lừa gạt quá. Nếu người ta muốn chúng tôi quên cả những phiên toà xử công khai thì cũng chẳng nhớ làm chi. Hãy nhớ những gì radio ong óng rót vào tai tối ngày! Tuổi trẻ chưa biết gì không nhớ đã đành, ngay lớp trung niên mắt thấy tai nghe mà hỏi lại về những phiên toà quan trọng quảng cáo rình rang có lẽ họ chỉ nhớ nổi vụ Bukharin, vụ Zinoviev… Nghĩ mãi có thể nhớ ra còn vụ Đảng Kỹ nghệ! Thế là hết, làm như chỉ có bấy nhiêu.


Sự thật thì biết bao nhiêu phiên toà đã diễn ra từ 1918, từ ngày sau Cách mạng. Hồi đó đã làm gì có Luật? Công nông muốn sao thì Toà xử vậy, làm gì có vấn đề hợp pháp hay không? Đó là buổi BÌNH MINH CỦA CÔNG LÝ mà chương sách này sẽ tìm về, băng qua đống tro tàn của quá khứ.


Những năm sôi động đó súng dao còn xài nhiều đâu đã nghỉ ngơi. Mãi sau này mới có lối ban đêm xách người xuống hầm, thảy một viên vào sọ khỉ. Cho đến năm 1918 thủ lãnh Cheka ở Ryazan là Stelmakh còn ra lệnh bắn tù giữa sân, ban ngày cho những đứa khác ngó thấy trước mắt. Hồi đó có danh từ trừng trị bên lề toà án. Không phải không có toà án để làm công việc này mà để Cheka trừng trị thuận tiện hơn [8] . Toà cứ việc xét xử và tuyên án tử hình. Cheka cứ “làm riêng” và làm ngoài lề mà căn cứ theo tài liệu đích thực và những con số khiêm nhường nhất của chính ông Toà Latsis thì thành tích trừng trị “bên lề” của cơ quan trong 18 tháng (năm 1918 và nửa đầu 1919) như sau đây. Chỉ tính 20 tỉnh Trung nguyên tức phân nửa nước Nga nên dù sao cũng phải hiểu dưới sự thật rất xa!


Xử bắn: 8.389 vụ
Phá vỡ: 412 tổ chức
Tống giam: 87 ngàn phản động


Xin ghi nhận tám ngàn ba trăm tám chín người bị xử bắn ngoài lề toà án nên quá ít thì bốn trăm mười hai tổ chức lại quá nhiều, xét vì hồi đó dân Nga quen sống riêng rẽ, nghi ngại nhau mà thực sự họ không đủ khả năng để kết hợp ngần ấy phe nhóm! Cũng như số 87 ngàn người bị bắt thì nào phải chỉ có ngần ấy.


(Theo tài liệu của nhóm Chống lại án tử hình năm 1907 thì suốt 80 năm thời Nga hoàng (1826-1906) tổng cộng có 1.937 án tử hình thì 233 vụ được ân xá, 270 vụ vắng mặt không bắt lại được nên thực tế chỉ có 894 người thực sự chịu án. Nếu kể cả 1906 thì nguyên một năm này đã tuyên 1.310 án tử hình, cộng thêm 950 án mà Toà Quân sự Stolypin tuyên trong 6 tháng hoạt động. Toà Stolypin nổi tiếng sát máu nhất nhưng tính bằng con số còn thua Cheka tới 3 lần, không cần án Toà).


Ở buổi bình minh của Cách mạng, tính từ tháng 11 năm 1917, Toà án toàn quyền xét xử, tuyên án. Cho đến 1919 mới có “Người ra chỉ đạo của hình luật Liên Sô”, trong đó đặc biệt có điều khoản “câu lưu cho đến khi có lệnh mới”. Có 3 hệ thống Toà án:


Toà án Nhân dân
Toà án Thông thường các cấp
Toà án Cách mạng


Toà Nhân dân chuyên xử những vi phạm, những hình phạm không có tính cách chính trị. Không có thẩm quyền tuyên án tử hình đã đành, còn không được tuyên quá 2 năm tù. Cho đến tháng 7 năm 1918, nếu có yêu cầu đặc biệt của chính quyền, áp dụng từng cá nhân không thể hối ngộ mới được tuyên án 2 năm. Ngoài ra thẩm quyền tối đa 5 năm. Nhưng năm 1922 hết nguy cơ chiến tranh rồi, Toà án Nhân dân lại được tăng thẩm quyền lên 10 năm, với điều kiện không được kêu án dưới 6 tháng!


Toà án thông thường cũng như Toà án Cách mạng ngay từ đầu đã có thẩm quyền tuyên án tử hình nhưng bị rút quyền trong một thời gian ngắn. Toà thường năm 1920 và Toà Cách mạng năm 1921.


Riêng Toà Cách mạng, như tên gọi, đâu chịu ngủ yên. Toà làm việc theo lề lối cách mạng. Mỗi lần một đô thị được giải phóng là một lần khét lẹt mùi khói súng Cheka và duy nhất vì những phiên toà Cách mạng sáng đêm. Đâu phải ít án tử hình. Mà không cần phải Sĩ quan phản động, địa chủ, tu sĩ hay có chân trong các Đảng đối nghịch mới ra Toà Cách mạng. Có bàn tay không có chai cũng đủ ch.ết!


Đó là thời gian những cuộc nổi dậy và đàn áp bùng nổ tứ tung ở địa phương mà thành phần nông dân còn lãnh nặng hơn nữa. Nhất là từ 1918 đến 1921, dù lịch sử Nội chiến không ghi lại những hình ảnh nông dân hè nhau vác gậy vác cuốc vùng dậy chống đại diện để rồi sắp hàng dài dài, tay trói quặt sau lưng chịu ch.ết. Mười mạng đổi lấy một cũng cam! Có điều những cuộc nổi dậy quá lẻ tẻ, địa phương nào biết địa phương ấy, không đếm được.


Sau này ông Toà Latsis mới lập bảng thống kê: ít nhất ở 20 tỉnh đồng bằng năm 1918 và 6 tháng đầu 1919 nhà nước cũng phải dẹp tới 344 vụ nông dân khởi loạn. Tuy nhiên quan điểm của nhà nước thì đấy chỉ là bọn kulak làm loạn, chớ nông dân có đời nào chống lại chính quyền công nông? Nhưng làm loạn đâu phải một vài nhà. Cả làng nổi dậy! Họ vác cày vác gậy, không phải để diệt kulak làm loạn mà cùng với kulak xông ào vào các ổ đại liên của chính quyền công nông. Giải thích sự kiện ngược đời ấy, ông Toà Latsis cho rằng nông dân đã bị kulak xách động, hoặc xúi biểu, hứa hẹn hoặc đe doạ bằng mọi cách. Hứa hẹn thì còn gì hứa hẹn bằng các khẩu hiệu nhà nước… mà đe doạ thì có gì dữ dội bằng các ổ đại liên?


Để hiểu lề lối làm việc của các phiên toà Cách mạng không gì bằng thuật lại vụ án điển hình xử công dân I. Y. ở Ryazan năm 1919. Đó chỉ là một trong 54.697 thằng đào ngũ bị bắt và gởi ra chiến trường Ryazan tháng 9 năm 1919.


Năm 1919 Hồng quân có lệnh cưỡng bách nhập ngũ dù mới năm trước tung ra nhiều khẩu hiệu phản chiến “Đả đảo chiến tranh…”, “Cho về hết…”, “Lưỡi lê cắm xuống đất”…


Công dân I. Y. vốn Công giáo thuần thành, chịu ảnh hưởng Tolstoi nặng, bị bắt lính nhưng không chịu vác súng tập luyện để ra trận “bắn vào các anh em”. Bị đưa tới Cheka vì tội “không công nhận chính quyền Sô Viết” và ba thằng dí súng lục Naguan vào hông hét lớn: “À, mày anh hùng hả? Bao nhiêu thằng anh hùng chỉ một phút là phải quỳ lạy tụi tao hết! Không đi chiến đấu là bắn bỏ”. Bắn thì bắn, I. Y. không chịu nên đành phải ra Toà Cách mạng.


Trước Toà Cách mạng có ông luật sư già biện hộ I. Y. Ủy viên buộc tội (chưa gọi Công tố viện) cũng là một luật sư già. Có gã bồi thẩm cứ sỉ vả bị can: “Thanh niên công nông thứ anh mà lại chịu làm đệ tử của thằng Bá tước già quý tộc Tolstoi sao?”. Chánh thẩm phải gạt đi hắn mới thôi!


“Anh không được cầm súng giết ngườI, còn hô hào người khác. Bọn phản động gây chiến, anh dám phá hoại cuộc chiến đấu tự vệ của nhà nước! Cho anh đi Kolchek, tha hồ cỗ võ hoà bình.”


Bị can chấp nhận “Muốn đi đâu cũng được”, nhưng Ủy viên buộc tội nhân danh một luật gia can thiệp:


“Xin lưu ý Toà Cách mạng chỉ xử những ca phản cách mạng, không phải để xử những vụ đào ngũ như thế này. Trên phương diện luật pháp, đề nghị Toà chuyển sang một Toà án thường cho đúng thủ tục…”


“Toà Cách mạng đủ thẩm quyền xử. Toà xử heo tinh thần Cách mạng, không xử thủ tục luật pháp.”


Ủy viên buộc tội yêu cầu chánh thẩm ghi câu đó vào hồ sơ. Luật sư cũng lên tiếng ủng hộ, xin Toà Cách mạng chuyển sang Toà thường thì bị Chánh thẩm nạt: “Mấy anh già rắc rối! Để Toà thường xử thì đến bao giờ?”


Coi là bị nhục mạ, ông luật sư già cũng yêu cầu ghi hồ sơ thì Chánh thẩm cười hề hề: “Muốn ghi thì ghi! Ghi hồ sơ liền đi”. Cả phòng xử cười rầm thì Chánh thẩm tuyên đình xử để Toà Cách mạng vô nghị án! Sau một hồi nghị án kín ồn ào như mổ bò, Toà tái nhóm để nghe ông Chánh thẩm tuyên án: Tử hình, xử bắn.


Phòng xử xôn xao, Ủy viên buộc tội la lên: “Tôi chống án! Tôi sẽ thượng tố lên Bộ Tư pháp”. Luật sư hùa theo “Chống án” thì ông Chánh thẩm Toà Cách mạng xua tay tuyên bố:
“Toà bãi xử. Truyền giải tán.”


Áp giải “tử tội” I. Y. về khám, trưởng toán hộ tống còn khen ngợi:
“Nếu mọi người đều dám như chú mày thì khá quá! Hết chiến tranh, không có đỏ mà cũng chẳng có trắng.”


Vì bản án quá vô lý nên đơn vị Hồng quân ở Ryazan nhóm ban đêm để sáng mai đánh kiến nghị phản đối về Mạc Tư Khoa.


“Tử tội” I. Y. nằm khám đợi kết quả 37 ngày. Qua cửa sổ nhìn xuống ngày nào chẳng thấy hành hình. Nhưng rốt cuộc bản án tử hình bị bác, chỉ phải chịu án 15 năm cấm cố.


Đó là một vụ án điển hình nhưng đặc biệt. Có mấy người tranh đấu lì được như I. Y.? Ủy viên buộc tội có đồng ý với luật sư biện hộ bao giờ? Không phải trách nhiệm, toán lính áp giải còn uất ức, nhất định có thái độ là một điều hiếm có! Bản án chứng tỏ không phải Công nông và Toà Cách mạng muốn gì được nấy dễ dàng. Cũng gay go lắm!


Bây giờ lần giở lại những phiên toà của thời kỳ Bình minh Công lý quả là gian nan. Người viết sử biết căn cứ vào đâu? Kẻ ch.ết ngậm miệng, kẻ đi đày mỗi người một phương, bị cáo, chứng nhân, luật gia hay lính áp giải chẳng ai dám nói sự thật. Chỉ có một nguồn gốc có thể đào lên được là núi hồ sơ Công tố.


Hồ sơ quý nhất tôi được hân hạnh tiếp nhận là tập tài liệu in nguyên văn những bản cáo trạng nảy lửa trong những vụ án lớn nhất mà tác giả không ai ngoài chiến sĩ Cách mạng Krylenko. Đừng quên Krylenko từng nắm chức Bộ trưởng Binh vụ đầu tiên của chính phủ Công nông, từng là Tổng Tư lệnh và từng lãnh trọng trách tổ chức những Toà án Đặc biệt của Bộ Tư pháp. Kể như lãnh tụ cốt cán cho đến khi bị chính Lenin gạch bỏ và từ cương vị Chưởng lý buộc tội biến thành kẻ thù lớn của nhân dân! Để hiểu rõ không khí những phiên toà những ngày đầu tiên sau Cách mạng (1918 – 1922) thì hồ sơ Krylenko quả là tài liệu giá trị số một.


Phải chi còn giữ lại được những biên bản tốc ký ghi không sót một lời đối đáp của nạn nhân, lời chất vấn hay buộc tội của những ông Toà đầu tiên giờ đã ra người thiên cổ, ở vào một giai đoạn bất trắc, không ai dám ngờ sẽ đốt cháy không tha một ai, kể cả những ông Toà Cách mạng!


Chưởng lý Krylenko giải thích vì rất nhiều lý do trở ngại kỹ thuật không thể công bố toàn bộ biên bản. Chỉ cần đăng cáo trạng buộc tội và bản án là đủ. Ông Chưởng lý còn chê tất cả biên bản tốc ký giữ trong Văn khố Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa và Toà Cách mạng Tối cao cho đến 1922 đều ghi vô trật tự đọc lại không hiểu nổi, đoán không ra! Có những vụ án quan trọng như xử đảng viên Xã hội Cách mạng, xử Đô đốc Schhastny hoàn toàn không có biên bản tốc ký.


Sau Cách mạng tháng 2, Cách mạng tháng 10, thì vụ trừng phạt đảng viên Xã hội Cách mạng kể như khúc quanh quan trọng thứ ba trong lịch sử Nga, đánh dấu sự chuyển hướng sang độc đảng, số tử hình khá cao. Vậy mà Toà không giữ lại biên bản, hay không làm biên bản?


Năm 1919, Cheka phát giác và dập tắt âm mưu khuynh đảo của nhóm tướng lãnh, sĩ quan. Theo Krylenko thì bắt được trên một ngàn phản động hiển nhiên phải có âm mưu thật, do đó Cheka phải xử chúng “bên lề Toà án”. Số phản động đông như vậy Toà xử sao cho xuể?


Cũng nhờ tài liệu Krylenko mới hay thời đó Ủy ban Hành pháp Trung ương có quyền can thiệp vào bất cứ vụ án nào, có thói quen ân xá hay tăng án vô hạn định. Gọi là Ủy ban Hành pháp Trung ương nhưng thực tế chỉ một mình Chủ tịch Sevrdlov quyết định nên ông Chủ tịch cũng đồng ý với ông Chưởng lý là “Hành pháp và Lập pháp của chúng ta không mắc bức tường giả dối thẩm quyền như Âu Mỹ nên chúng ta làm hữu hiệu hơn, giải quyết công việc cấp kỳ”. Nghĩa là việc gì cũng giải quyết gấp bằng điện thoại được, ngồi văn phòng ông Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương, vẫn có thể tăng án từ 6 tháng lên 10 năm.


Thảo nào trong các cáo trạng, Chưởng lý Krylenko từng vạch rõ nhiệm vụ của Toà án Liên Sô vừa đẻ ra luật và là võ khí chính trị. Dù đẻ ra luật mà cầm quyền được 4 năm, vứt hết những bộ luật cũ của thời quân chủ, chế độ mới vẫn chưa có luật, xét vì “Toà Cách mạng thời đại Cách mạng không bó buộc phải dựa hoàn toàn vào những đạo luật có sẵn, mà cũng chẳng phải nơi khoe luật, đấu luật. Chúng ta tạo luật mới, đặt bình diện luân lý mới… không câu nệ ý thức nào công lý, nào sự thật mà vì nó chúng ta suýt phải trả giá đắt.


Quan điểm Krylenko là Toà Cách mạng không phải Toà mà là bộ phận tranh đấu của Công nông chống thù địch, đặt quyền lợi Cách mạng lên trên hết và phục vụ Công nông trước hết cho nên Toà không đặt vấn đề bị can có tội hay không theo quan niệm trưởng giả lỗi thời. Yếu tố quyết định duy nhất phải là giai cấp. Toà Cách mạng không khoe luật, đấu luật, bao nhiêu lý luận pháp lý đều vô dụng một khi Toà không xử theo tinh thần một đạo luật, không đặt vấn đề giảm khinh mà căn bản là phải tiêu diệt kẻ thù giai cấp, không phải vì tội mà nó đã phạm nhưng có thể phạm sau này, nếu không tiêu diệt bây giờ.


Vậy thì tìm hiểu thêm làm gì buổi bình minh của Công lý khi quan điểm Krylenko đã rõ ràng như vậy và tự nó đã nói lên đầy đủ vai trò và công dụng của Toà án những năm đầu tiên sau Cách mạng? Hãy nhắm mắt một phút để tưởng tượng một phiên toà có ông Chưởng lý Krylenko ngồi buộc tội, chiếc áo vét lao động mở cổ để lộ áo lót kẻ sọc kiểu thủy thủ. Ngôn ngữ Krylenko thì điển hình ưa chơi chữ, lâu lâu xài điển tích Latinh (một nhà cách mạng có học, có chuyên môn mà). “Đặt vấn đề sự kiện đi”, “Yếu tố khuynh hướng cần định rõ trong trường hợp này”. Tuy nhiên, ông Chưởng lý cũng có thể có phản ứng rất bình dị để bật ra trước mặt bị can: “Quân vô loại chuyên nghiệp!”


Krylenko cũng chẳng phải giới thâm trầm, đạo đức giả. Trường hợp bắt gặp một bị can dám mỉm cười, người không ngần ngại dằn mặt thẳng thừng, không quanh co úp mở ngay trước khi buộc tội:


“Công dân Ivanova, chị sẽ trả giá nụ cười bằng thân phận của chị. Cố nhiên chúng tôi sẽ có cách để chị không bao giờ cười được nữa!”


Ở buổi bình minh của Công lý có nhiều bản án có thể gọi là điển hình của thời đại mà nhân vật chính là ông Chưởng lý Cách mạng Krylenko. Xin kể qua một vài vụ:
Vụ báo Russkiye Vedomosti


Đây là vụ án tự do báo chí đầu tiên, một thử thách của chế độ vừa làm xong Cách mạng. Nhật báo Russkiye Vedomosti nổi danh “chuyên nghiệp” ngày 28-3-1918 đăng bài “Lên đường” của Savinkov. Báo vừa ra là nhà nước muốn vồ tác giả gấp, nhưng không nổi vì Savinkov đã “lên đường” đúng lúc. Không có tác giả thì báo bị đóng cửa và ông Chủ nhiệm Yegorov ra toà để trả lời tại sao dám đăng bài ấy. Vì chế độ MỚI vừa vặn có 4 tháng nên ông chủ báo còn ngây thơ giải thích: “Bài do một cây viết lỗi lạc viết, nói lên một ý kiến mà toà soạn không nhất thiết phải đồng quan điểm”. Theo Yegorov thì “Lên đường” không hề mạ lỵ, xuyên tạc mà chỉ nói lên một sự thật là “nhóm Lenin, Natanson đã về nước qua ngã Bá Linh” nghĩa là nước Đức của Hoàng đế Wilhelm đã đưa giùm đồng chí Lenin về Mạc Tư Khoa làm cách mạng vô sản.


Chưởng lý Krylenko gạt bỏ, nói rõ là báo Vedomosti không bị truy tố về tội “mạ lỵ, xuyên tạc” mà vì “âm mưu gieo ảnh hưởng trong quần chúng”. Vì dám phạm tội ấy, tờ báo nhà nghề xuất bản từ 1864 trải qua bao giai đoạn khó khăn nhất đã bị Cách mạng đóng cửa vĩnh viễn. Chủ nhiệm Yegorov bị án biệt giam 3 tháng và ở tù như đi du lịch Hy Lạp vậy!


Nếu ông Chủ nhiệm còn sống lâu chút nữa chắc chắn sẽ còn vào tù ra khám hoài. Dầu sao cũng mới năm 1918 và dầu sao cũng có tiền!


Vì dù Cách mạng có bùng nổ ghê gớm thật thì hối lộ vẫn là “nếp sống” Nga từ thượng cổ thời đại. Như bây giờ và mãi mãi, người đưa vẫn đưa, người nhận vẫn nhận nhẹ nhàng. Lo lót nhiều nhất vẫn là ngành Tư pháp và Cheka! Sách sử vàng son cố nhiên không có ghi nhưng ông già bà cả sẵn sàng làm chứng rằng những năm đầu của chế độ Cách mạng vận mệnh tù chính trị nằm gọn trong một chữ tiền. Tiền đưa ra là người về một cách tự nhiên, vô tội! Giai đoạn 1919 – 1924, Krylenko xác nhận có khoảng 10 vụ, nhưng chỉ kể ra 2. Thực tế là ngay cả Toà Mạc Tư Khoa lẫn Tối cao Pháp viện cũng trưởng thành chật vật trên ngả đường quanh co của hơi đồng.


Vụ 3 thẩm vấn viên Tòa Cách mạng Mạc Tư Khoa


Tháng 3-1918 nhà buôn vàng khối Beridge bị bắt. Bà vợ chạy đi lo chuộc chồng, móc nối được một ông thẩm vấn viên Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa và kéo thêm 2 ông đồng nghiệp. Họ ra giá 250 ngàn đồng rúp nhưng kéo nài mãi thành giá 60 ngàn, đặt cọc ½ trước, tiền sẽ trao ở Văn phòng luật sư Grin. Thu xếp kín đáo vậy là xong, có đời nào vụ chuộc người lọt vào hồ sơ Krylenko và để Quốc hội bận tâm? Bao nhiêu vụ khác êm đẹp cả chứ? Nhưng phút chót mụ vợ chỉ mang tới 15 ngàn rúp tiền cọc cho luật sư Grin, đã vậy đêm về suy tính lại không chịu ông luật sư này. Sáng mai tới lo ông Yakulov. Cố nhiên ông đồng nghiệp này đầu cáo gấp.


Ngay tháng 4 nội vụ ra Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa. Nhân chứng chưa giác ngộ, cứ lo che giấu cho bị cáo làm Công tố viện khó xử. Họ bị Chưởng lý Krylenko cảnh cáo đầu óc chất hẹp, hủ bại với con buôn. (Nhưng họ đã dám đụng đến các thẩm vấn viên Toà Cách mạng quả đã liều lắm lắm!).


Điều đáng kể là cả 3 ông thẩm vấn vừa là cộng sự viên thân thiết của Toà Cách mạng, đồng chí và giúp việc đắc lực cho Công tố viện (như ông Leist từng nổi tiếng thẩm vấn quá gắt) nhưng vừa phạm tội là bị quật thẳng tay. Không phải vì tội tham nhũng, làm mất mặt Toà Cách mạng! Họ bị đào bới quá khứ, tới gốc gác nghĩa là vấn đề giai cấp được đặt ra.


Thẩm vấn viên Leist bị moi gốc tích: nguồn gốc trí thức thụ động, cha là giáo sư đại học Mạc Tư Khoa, nổi tiếng phản động từ 20 năm, không chịu sinh hoạt chính trị! Sự thối nát, tham nhũng đã bị bới tận gốc.


Thẩm vấn viên Podgaisky bị moi gốc con công chức cao cấp Toà án chế độ cũ, có ông cha phản động từng cộng tác với chế độ bảo hoàng 20 năm và điều nổi bật là bị cáo đang học Luật đã vận động, luồn lọt vào được Toà Cách mạng với dụng tâm phá hoại.


Bị truy gốc nặng hơn cả là Gugel trước khi lọt vô Toà Cách mạng đã làm nghề xuất bản. Hắn làm sách không phục vụ cho Công nông, không in tác phẩm Marx mà chỉ chuyên cho ra những thứ văn chương đồi bại của bọn trưởng giả có đầu óc thân Tây phương, cố tình đầu độc tinh thần quần chúng.


Theo Krylenko, cả 3 tên Leist, Podgaisky, Gugel đều không phải cán bộ tốt mà là phường sâu bọ trí thức, chui vô cơ sở để bôi bẩn Toà Cách mạng. Trong khi đó, luật sư Grin nổi tiếng có gốc lớn, bồ bịch ăn có với giới chức cao cấp Công tố – một chuyên viên vớt người ra khỏi tù đày – thì bị Krylenko liệt vào hạng “trí thức hoạt đầu, một con đỉa sống bám vào cơ cấu tư bản chủ nghĩa”.


Do đó, Chưởng lý Krylenko yêu cầu Toà Cách mạng trừng trị gắt các bị can, không phải chỉ vì tội nhận hối lộ, tham nhũng mà thôi! Vậy mà Toà Cách mạng chỉ chịu tuyên án quá nhẹ: các thẩm vấn viên mỗi người 6 tháng tù còn ông luật sư “móc nối” chỉ phạt vạ. Lập tức Krylenko chạy lên ông Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương để xin can thiệp mạnh. Bản án tức thì được đổi: 3 ông thẩm vấn viên bị tăng án – theo thẩm quyền của Ủy ban Hành pháp Trung ương – lên mỗi người 10 năm tù. Luật sư Grin chỉ bị 5 năm nhưng tịch thu toàn bộ gia sản.


Vụ án 3 ông thẩm vấn viên Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa cho thấy 2 điều:
“Lập trường Công tố căn cứ thuần túy ở “giai cấp tính”.


“Bản án Toà đã tuyên xử không có nghĩa gì trước quyết định “thẩm quyền” của Ủy ban Hành pháp Trung ương.
Vụ thanh tr.a đoàn Cheka hủ hóa, tham nhũng


Kosyrev và ba bồ bịch Libert, Rothenberg, Solovyev, là cán bộ Ủy ban Cung cấp Thực vật liệu chiến trường miền Đông. Trước Toà Cách mạng ngày 15-2-1919 cả bọn nhìn nhận đã lợi dụng chức vụ, nuốt nhiều số tiền từ 70 ngàn đến 1 triệu đồng rúp tậu nhà, sắm xe hơi, tiệc tùng xa xỉ, chơi ngựa đua và giải trí bằng đàn bà đẹp! Toà Cách mạng không truy cứu tội tham nhũng đó, dù Ủy ban bị giải tán tức thời. Cả ba từ mặt trận miền Đông về, không bị hạ công tác mà còn được cử vô Thanh tr.a đoàn của Cheka cùng với Nazacenko, cựu tù nhân khổ sai, từng đi đày Tây Bá Lợi Á cùng Kosyrev.


Điều làm mọi người kinh ngạc là không hiểu sao thành tích như vậy mà cả năm người lại được cử vào một chỗ quá nhiều quyền hành? Trong nội bộ Cheka Thanh tr.a đoàn đứng cao hơn hết, chỉ đứng dưới có Chủ tịch đoàn gồm 5 ông lớn: Dzerhinsky,Urilsky, Peters, Latsis, Menzhinsky và Yagoda. Có quyền điều tra, giám sát tất cả các Nha Sở trừ Chủ tịch đoàn. Bất cứ lúc nào cũng có thể mở hồ sơ công tác kiểm soát, toàn quyền bác bỏ mọi quyết định của các cấp kia mà.


Nếp sống của 5 ông Thanh tr.a Cheka được mô tả cực kỳ hào hoa. Cùng với một nhóm bà hủ hoá không phải đảng viên, họ lập nhiều “Câu lạc bộ du hí” có rượu, có đàn bà và có sòng bài ăn thua hàng ngàn đồng rúp. Ông Kosyrev còn có “tổ quỹ” riêng, trị giá 70 ngàn rúp, mỗi lần tiệc tùng bày toàn muỗng nỉa bạc, ly pha lê. Không lẽ ý thức hệ, biện chứng hay cơ quan đã cung phụng ngần ấy thứ? Không, ông Thanh tr.a được hưởng phần gia tài, cỡ 200 ngàn rúp để trương mục nhà hàng Chicago!


Cấp “thẩm quyền” Thanh tr.a đoàn như Kosyrev thì thiếu gì cơ hội can thiệp ra tiền. Buổi giao thời Cách mạng bọn có tiền của vòng vàng, châu báu bị cơ quan chiếu cố quá nhiều. Thân nhân muốn chuộc mạng chỉ cần tìm cho đúng trung gian. Còn tay trung gian nào “dẫn mời” đắc lực bằng người đẹp Uspenskaya, hai mươi hai tuổi… nữ sinh tốt nghiệp trung học, mật báo viên tình nguyện của Cheka? [9] . Người đẹp xác nhận trước Toà làm mật báo viên chỉ để lấy tiền thưởng nhiều ít tùy từng vụ và có áp phe còn được “chia hai”. Chia với ai Toà không bắt khai (để bảo vệ bí mật công tác!). Nhưng Krylenko vạch rõ nữ mật báo viên Uspenskaya có lãnh tiền Cheka là lãnh tiền thưởng chứ không phải lương vì không phải nhân viên chính thức [10] . Số lương tháng 500 rúp của Hội đồng Kinh tế Tối cao nào có nghĩa gì so với số tiền áp phe 5 ngàn đồng (xin cho một nhà buôn một con dấu của Hội đồng Kinh tế Tối cao thôi!) và 17 ngàn rúp do vợ tù nhân Meschherskaya Grevs “đền ơn”!


Vụ Thanh tr.a đoàn Cheka tham nhũng đổ bể cũng vì mật báo viên Uspenskaya hướng dẫn mụ Grevs đi gặp Godelyuk, bồ bịch tin cậy của Thanh tr.a Kosyrev để xin hạ bớt số tiền chuộc 600 ngàn đồng rúp chạy không nổi! Móc nối bí mật thế nào mà bị ông luật sư Yakulov đánh hơi ra và đầu cáo tức khắc [11] với Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa. Chánh thẩm Toà Cách mạng cũng đang bận vì Cơ quan can thiệp với Ủy ban Hành pháp Trung ương quất 3 thẩm vấn viên bản án quá nặng nên mượn dịp này chơi lại Cheka. Nên thay vì gác hồ sơ, thông báo thân thiện cho xếp lớn Dzerhinsky để “giải quyết êm đẹp nội bộ” thì hắn quyết làm lớn chuyện.


Ông Chánh thẩm bèn đích thân thẩm cung Godelyuk, có tốc ký viên núp sau màn ghi lại đầy đủ chi tiết những lời khai của trung gian Godelyuk về vụ móc nối ăn chia với Thanh tr.a Kosyrev, thanh tr.a Solovyev. Biên bản ghi rõ trong Cheka những ông nào ăn, ăn bao nhiêu và sau khi lãnh tiền cọc 12 ngàn rúp hắn đã đưa mụ Grevs vô trong Cơ quan “nhờ vả” Libert và Rottenberg như thế nào. Phiếu nhập sở của mụ Grevs còn rành rành chữ ký của hai ông Thanh tr.a nằm ở Phòng Điều tr.a vừa được Thanh tr.a đoàn buộc chuyển gấp lên kiểm chứng lại.


Chứng cớ phạm pháp rành rành vậy, cả 5 ông Thanh tr.a cao cấp nhất cơ quan dính một lượt, nội vụ lại diễn tiến ngay trong sở và đang bị Toà Cách mạng lập biên bản chi tiết do chính kẻ móc nối phun ra thì còn gì là thanh danh, còn gì màu áo xanh da trời cao đẹp của Cheka? Đồng ý lâu nay vẫn có “xúc động công vụ” dài dài giữa Cơ quan và Toà án Cách mạng, nhưng không lẽ cùng phục vụ Cách mạng vô sản mà cán bộ cao cấp hai bên cứ rình từng cơ hội để gài chơi nhau sát ván? Gã chánh thẩm chỉ vì ganh tức, bực bội mà dám quất một lượt 5 cán bộ Thanh tr.a đoàn hay chính hắn cũng có liên hệ gì đó trong vụ này?


Những vụ lẻ tẻ đó khỏi bàn. Vấn đề lớn là thể diện, uy tín của Cheka. Không thể để Cheka mất mặt nặng như vậy!


Không hiểu cố ý hay tình cờ mà Toà Cách mạng gởi phạm nhân Godelyuk vô khám Taganka thay vì Lubyanka, nhà giam “ruột” của Cơ quan. Nhưng Thanh tr.a Solovyev vẫn xin phép Toà cho vô thăm Godelyuk. Toà khước từ. Với tài nghệ cá nhân, Solovyev vẫn lọt vô được xà lim của hắn để “nói chút chuyện”, Không cần phép Toà. Sau đó phạm nhân Godeyuk bỗng lâm bệnh, bệnh nặng. Trước khi hấp hối, biết khó sống hắn đã thành tâm phản tỉnh, rất lấy làm hối hận đã vu cáo Cơ quan nên năn nỉ xin mảnh giấy để tự tay viết bản tự thú. Hắn đã bôi nhọ cán bộ Cơ quan nhất là Kosyrev và biên bản tốc ký ghi sau màn hoàn toàn không có thật.


Còn tấm giấy nhập sở có chữ ký Libert và Rottenberg cho mụ Grevs vô thì sao? Thì bỏ! Có ai đưa, ai tổ chức đưa Solovyev vô khám Taganka để có chút chuyện nói với Godelyuk? Ông Chưởng lý Krylenko cho rằng thiếu bằng chứng phạm tội, cũng như Solovyev có thể được đưa vô bởi nhóm người nào đó có liên hệ và còn tại đào.


Dĩ nhiên Toà Cách mạng phải cho đòi 2 Thanh tr.a Libert, Rottenberg. Có trát bắt buộc nhưng họ không ra. Họ lánh mặt. Đòi đến mụ Grevs thì đến mụ cũng không thèm ra mà Toà Cách mạng cũng chẳng có cách nào dẫn giải! Gốc trưởng giả phản động mà dám coi thường cả trát Toà Cách mạng thì lạ quá. Nhân chứng kiêm phạm nhân Godelyuk ch.ết dở thì phản cung. Chánh phạm Kosyrev không chịu nhận bất cứ một tội gì. Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa còn ai nữa mà xét xử?


Ngay lúc đó có 2 nhân chứng không được Toà vời ra cũng “tình nguyện” làm chứng cho Kosyrev! Một là đồng chí Phó Tổng giám đốc Peters. Hai là đích thân đồng chí Tổng Giám đốc Feliks E. Dzerdzinsky. Nội sự hiến dâng của đồng chí Tổng Giám đốc Cheka bằng xương bằng thịt trước Toà cũng làm mấy ông Toà Cách mạng rầu quá! Ông Tổng Giám đốc quả quyết Thanh tr.a Kosyrev vô tội. Một đồng chí trung kiên, tinh thần phục vụ cao, chuyên môn lỗi lạc. Cố nhiên đây là một vụ vu cáo.


Vu cáo thật, nếu giở lại tiểu sử của đồng chí Thanh tr.a Kosyrev lỗi lạc, trung kiên của Cheka! Thành tích ở tù trước Cách mạng của Kosyrev lẫy lừng đô thị Kostroma với mấy bản án sát nhân: bẻ cổ giết bà già Smirnova, toan giết cha, sát hại một đồng đội để đoạt giấy thông hành. Số còn lại toàn án lừa đảo. Nhờ lệnh đại xá của Nga hoàng hắn mới được phóng thích chớ Kosyrev thì hết đi đày đến chịu án khổ sai. (Có dịp ăn chơi là ông Thanh tr.a chơi bằng thích cũng phải!).


Đặc biệt trong vụ án này Chưởng lý Krylenko nghiêng hẳn về phía chống tham nhũng, thối nát, dù được nghe ông Tổng Giám đốc Cheka doạ dẫm: “Kosyrev có thể là nạn nhân oan uổng của sự tranh chấp quyền hành giữa các Cơ quan”. Nhưng dù sao cũng xác định thái độ để tránh mọi hậu quả vì phải có lý do gì tay tổ Cheka mới hối hả ra toà làm một nhân chứng tầm thường chứ? Nên nhất quyết buộc tội sau khi rào đón:


“Tôi không bao giờ muốn và cũng không đủ thẩm quyền để muốn biến vụ án Thanh tr.a đoàn này thành vụ án xét xử Cheka. Hãy quan niệm giản dị rằng chỉ kẻ nào có tội là kẻ ấy sẽ bị trừng phạt đích đáng và để làm công việc ấy, Công tố viện cương quyết làm cho ra lẽ”.


Có lẽ không dám phiêu lưu quá xa để bênh vực bọn thuộc cấp phạm pháp quả tang quá rõ nên Dzerdzinsky rút lui ngay để vận động ngả khác. Toà đình xử. Mấy ngày liền sóng gió tơi bời trong nội bộ Cheka. Phải chi cứ đà đó mà tiến thì ngày giờ này đâu còn Lubyanka? Chắc là ông Tổng Giám đốc Cheka đã phải xin gặp Lãnh tụ để “giải thích” không xong nên ngày 17 tháng 2 năm 1919 Lenin mới có lệnh đặc biệt tạm bãi bỏ quyền xét xử bên lề Toà án của Cheka.


Như vậy phải hiểu là Toà Cách mạng đã được bật đèn xanh, với điều kiện giới hạn. Tai hại là sau khi Toà tái nhóm có mật báo viên ngày nào và bây giờ là nhân viên Cheka đã phun bậy nhiều quá. Uspenskaya đã lồng lộn tố cáo giới thẩm quyền Cơ quan, kể cả đồng chí Phó Tổng Giám đốc Peters mà người đẹp đã mượn tên để hù ra tiền và từng nhiều lần ngồi vắt vẻo trên buya-rô trước mặt nhân viên dưới quyền! Lại còn tố cáo quá khứ Peters hồi ở Riga.


Mới có 8 tháng trời làm cho Cheka mà người đẹp đã nguy hiểm vậy! Đó là lý do Chưởng lý Krylenko lên tiếng trừ khử giùm một tai hoạ cho Cơ quan:


“Cho đến ngày chế độ ta vững mạnh, thì để bảo vệ cách mạng thiết tưởng không bản án nào thích hợp với nữ công dân Uspenskaya cho bằng bản án tối đa. Một bản án 10, 25 năm chắc chắn không đem lại kết quả nào hết. Một người như thế giam giữ không được!”


Đúng, Uspenskaya không phải là người giam giữ được. Một người biết quá nhiều nên quá nguy hiểm. Một người dám nói bừa.


Một người như vậy không để sống được. Phải thủ tiêu luôn cùng một lúc với bản án xử bắn Kosyrev. Phải hy sinh một ông Thanh tr.a để cứu gỡ những ông Thanh tr.a khác, cả thể diện Cơ quan chứ.


Sự thật bề trong của bản án như thế nào sau này chỉ có thể tìm trong Tổng văn khố Lubyanka. Nhưng cả núi tài liệu, hồ sơ đã ra tro trong lò lửa từ lâu.
Vụ án các hàng giáo phẩm Mạc Tư Khoa


Theo Chưởng lý Krylenko, đây là một vụ án sẽ ghi lại trong lịch sử án lệ Cách mạng Sô Viết. Nếu vụ Thanh tr.a đoàn Cheka tham nhũng chỉ cần 1 ngày để xin cái đầu Kosyrev thì vụ án tôn giáo kéo dài từ 11-1 đến 16-1 năm 1920 trước Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa.


Bị cáo chính là 4 cấp lãnh đạo Giáo hội:
A.D. Samarin, chức sắc cao cấp của Giáo hội Nga, từng chống lại giáo gian Rasputin, cứu Giáo hội khỏi ách thống thuộc của Nga hoàng, nguyên Chánh đại diện Đại hội Tôn giáo toàn quốc


Kuznetsov, học giả, Giáo sư Giáo luật Trường Đại học Mạc Tư Khoa


Uspensky và Tsvetkov, hai vị Giám mục địa phận Mạc Tư Khoa (Giám mục Tsvetkov được Krylenko công nhận là một nhà đại hiền, chức sắc Công giáo thuần túy nhất trong hàng giáo phẩm Nga)


Tội danh thứ nhất của các bị cáo là thành lập “Hội đồng liên giáo khu” nhằm kết hợp một số giáo dân từ 40 đến 80 tuổi tình nguyện chia phiên nhau thường xuyên canh chừng (không võ trang) tư dinh Giáo chủ Tikhon để phòng trường hợp những người bị nhà nước làm khó dễ. Nếu có động họ sẽ giật chuông nhà thờ cấp báo hay điện thoại tập hợp một số đông giáo đồ để cùng đi theo Giáo chủ và sẽ thỉnh cầu Hội đồng nhân dân Trung ương can thiệp, không cho bắt giữ Người.


Quan điểm công tố viện là Giáo chủ Tikhon có bị đe doạ gì đâu mà phải đề phòng sẵn để tập họp giáo chúng bảo vệ? Công tố viện không cần biết ngoài những vụ xử án bên lề Toà án của Cheka từ 2 năm nay, mới đây Đức Tổng Giám mục địa phận Kiev bị 4 Hồng quân hạ sát và “hồ sơ giáo chủ Tikhon” đã hoàn tất chỉ chờ ngày đưa ra Toà Cách mạng vì không thể để kẻ thù của quần chúng Công nông ung dung tự do mãi. Hai năm liền Giáo chủ gởi nhiều thông điệp cho Hội đồng Nhân dân, cho các hàng giáo phẩm và giáo dân, vạch rõ sự khủng bố, tàn sát người vô tội và hiểm hoạ đất nước lâm nguy. Thông điệp của người không nhà in nào dám đánh máy từng tờ gửi đi).


Tội danh thứ hai là Hội đồng Liên giáo khu đã phổ biến lời kêu gọi giáo dân chống lại sự kiểm soát, xung công tài sản Giáo hội sử dụng chuông nhà thờ để cấp báo. Sau khi đóng cửa các tu viện, truất hữu tài sản (kể cả những đồ thờ tự chứ không phải ruộng đất, nhà cửa mà thôi) đến lượt giáo đường toàn quốc phải kê khai tài sản để nhà nước kiểm soát.


Tội danh thứ ba là họ đã liên tiếp gởi nhiều thỉnh nguyện thư đến Hội đồng Nhân dân Trung ương yêu cầu can thiệp để chấm dứt nạn chính quyền địa phương miệt thị, vu cáo các cấp giáo quyền xúc phạm giáo đường, công nhiên xâm phạm tự do tín ngưỡng. (Theo hồi ký của Bronch Bruyevich, quản trị viên Hội đồng Nhân dân Trung ương thì Hội đồng đã gạt bỏ tất cả thỉnh nguyện thư, miễn cứu xét.)


Với ba tội danh lớn như vậy thì cố nhiên ông Chưởng lý Krylenko phải xin mấy cái đầu, ít nhất toà Cách mạng cũng phải xử bắn Samarin và Kuznetsov để triệt hạ bằng hết mầm mống phá hoại, nhân danh nhu cầu cách mạng. Krylenko nhấn mạnh: “Đồng ý là đồng chí Dzerdzinsky đã áp dụng sắc lệnh, thông tư cho các cấp Cheka hủy bỏ án tử hình – một vinh hạnh của chế độ ta – nhưng không phải bản án tối đa đã được quyết định hủy bỏ vĩnh viễn. Còn Toà án Cách mạng, còn thẩm quyền của Hội đồng Nhân dân Trung ương. Bản án tử hình vẫn còn duy trì ở đây!”.


Quả nhiên án tử hình được duy trì thật, để triệt hạ bằng hết mầm mống phá hoại! Gậy ông lại đập lưng ông – nên bản thân ông Chưởng lý cũng sắp có một “bản án tối đa” cùng với một số dấu chỉ. Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa đã kéo dài năm ngày để nghe các bị cáo chối tội và luật sư biện hộ trổ tài hùng biện. Kết quả Chưởng lý đã xin hai cái dầu “phản động và cần thanh trừng”, Samarin Kuznetsov thì Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa cũng thể theo… nhưng thòng thêm một ân xá: cho họ đi đày cho đến khi Cách mạng toàn thắng đế quốc. Giờ đây Cách mạng thế giới chưa hoàn thành mục tiêu thì hai người nếu sống sót hẳn còn nằm trong một trại cải tạo nào đó! Riêng Giám mục Tsvetkov, “vị đại hiền, chức sắc Công giáo thuần túy nhất trong hàng giáo phẩm Nga” thì lãnh án 15 năm, cho hưởng ân huệ còn 5 năm.


Cũng lồng trong một vụ án “các hàng giáo phẩm Mạc Tư Khoa” còn một số bị can được kể như những vai trò phụ, tiện việc mang ra xử luôn cho rồi. Vụ tu viện Zvengiorod xảy ra từ mùa hè 1918, tính ra các bị can đã bị giam cứu chờ xử trên 18 tháng chớ đâu có ít?


Nguyên một hôm các viên chức địa phương đột nhập Tu viện Zvengiorod, cho đòi Cha Bề trên Ion. Ông này nổi danh trong Giáo hội Nga, nguyên là Firguf, sĩ quan Kỵ binh trong đội Ngự lâm quân Nga hoàng được ơn trên kêu gọi nên bỏ địa vị, phân phát hết của cải cho dân nghèo rồi xin vô nhà tu kín. Họ bảo: “Mời quá bộ ra đây có chút việc” và yêu cầu ông Cha Bề trên giao nạp cho họ bộ hài cốt của Thánh tử đạo Savva. Mấy người nhà nước vô giáo đường vẫn phì phèo hút thuốc, ngay cả trước bàn thờ Chúa. Dĩ nhiên họ vẫn đội nón và một ông còn nhấc xương sọ của ông thánh lên, thử nhổ bãi nước bọt để coi Thánh có làm gì nổi. Họ còn xúc phạm nhiều nữa khiến các tu sĩ phải kéo chuông báo động. Giáo dân đổ xô tới và sau một chầu xung sát có 1 hay 2 ông thiệt mạng.


Trước Toà Cách mạng, các viên chức nhà nước không nhìn nhận có hành động xúc phạm tôn giáo. Họ khai như vậy và Công tố viện chấp nhận, chớ họ đâu phải ra toà? Chỉ có mấy ông tu sĩ bị áp giải.


Thông thường hồi đó Toà trung ương xử thế nào thì các Toà địa phương chỉ việc đúng tiêu chuẩn trung ương mà tuyên án cho thống nhất lề lối làm việc. Kể như một bản án mẫu. Sau “vụ án các hàng giáo phẩm” của Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa thì các toà án tỉnh bắt đầu xử dồn dập như sóng trào, đúng danh từ của Chưởng lý Krylenko. Không địa phương nào không có một vụ án tôn giáo để “triệt hạ bằng hết phản động”, nghĩa là tu sĩ, linh mục, con chiên hàng loạt bị đưa ra toà. Trước vụ tu viện Zvengiorod bị xâm nhập, Đức Giáo chủ Tikhon từng nhiều lần phản kháng nhà nước cấm giảng đạo, bắt bớ tu sĩ hoàn toàn với tội danh mơ hồ “phản Cách mạng”. Chỉ có một thời gian công tác triệt hạ Giáo hội tạm lơi vì nhà nước còn lo lấy lòng tín đồ Chính thống giáo để rảnh tay thanh toán nội chiến. Dẹp xong Denikin và Kolchak là những phiên toà lại dồn dập như sóng trào.


Ngọn sóng cao nhất có lẽ là vụ lục soát Đại tu viện Ba Ngôi Thánh Sergius ở Radonezh năm 1920. Ngay hài cốt của Đức Thánh Sergius cũng bị nhà nước tịch thu để đưa về trưng bày ở Bảo tàng viện Mạc Tư Khoa. Đây là đòn nặng cuối cùng của nhà nước giáng lên bộ phận đầu não tượng trưng của Giáo hội Nga, dù Bộ Tư pháp đã có thông tư từ ngày 25-8-1920 về việc thanh toán, triệt hạ bằng hết di tích cũ, những chướng ngại vật cản đường tiến tới một xã hội mới cao đẹp. Xưa nay, Đại tu viện St. Sergius vẫn là di tích gợi nhớ công cuộc dựng nước hào hùng của nhà Đại ái quốc Sergius, vẫn được toàn dân ngưỡng mộ, thờ kính. Theo Klyuchevsky thì cửa lớn tu viện chỉ có thể bị đóng, đèn thờ trên phần mộ của Sergius chỉ có thể tắt khi nước Nga mất hết sức mạnh tinh thần, đạo đức. Nào ngờ, chính Giáo chủ Tikhon đã thân hành xin yết kiến ông Chủ tịch Hội đồng Nhân dân để xin can thiệp đừng đụng chạm đến di tích lịch sử của Giáo hội và mớ xương tàn của Thánh Sergius nhưng vô hiệu, chỉ vì ông Chủ tịch Hội đồng Nhân dân bận công tác, chưa thể tiếp kiến ngay.


Vụ án trí thức khuynh hữu phản động


Tháng 8 năm 1920, một vụ án đặc biệt lại xảy ra trước Toà Cách mạng Mạc Tư Khoa, lần này 28 người có mặt nhưng vắng mặt thì rất nhiều và Toà cũng phải xử từ ngày 16 đến ngày 20-8. Vụ án mệnh danh “Trí thức phản động”, một thành phần Cách mạng đã lưu ý từ lâu nay đã tới lúc phải thanh toán sau khi đã thanh toán xong tư bản, địa chủ.


Ngay từ ngày 15-9-1919, trả lời thư của Maxim Gorky xin can thiệp cho một số trí thức bị bắt giữ, Chủ tịch Lenin đã thẳng thắn liệt họ vào hạng người bỏ đi, thay vì là tinh hoa của xã hội, một bọn cận thị phóng túng, thối nát phản lại quyền lợi Công Nông. Vì ông chủ tịch đã đánh giá trí thức không hơn một bọn vị kỷ, không xương sống, luôn luôn đi lùi lại sau thế hệ nên các nhà báo lập tức nhao nhao chĩa mũi dùi vào giai cấp trí thức. Ông Chưởng lý Krylenko dĩ nhiên còn đi mạnh hơn, vạch rõ Cách mạng là một dịp lớn để định lại giá trị xã hội và trí thức Nga đã chạy theo một số tướng lãnh phản động làm công cụ và đi ở mướn cho đế quốc Âu châu nên tự đánh mất giá trị, vùi sâu tên tuổi xuống đám bùn nhơ.


Quan điểm của Krylenko là xã hội không cần phải khai tử từng phần tử một trong hàng ngũ trí thức nữa vì cả giai cấp đã bị vượt qua, không bắt kịp đà tiến của xã hội. Lần này sở dĩ xã hội phải đụng đến họ vì họ đã kết hợp thành một khối, ít nhất cũng có 28 người (như những khối đã bị triệt hạ là khối Menshevik, khối Trostky, khối Zinoviev, khối Bukharinc). Đã lập khối là hiển nhiên có tư tưởng phản bội hay chạy theo làm công cụ đế quốc, một tổ chức hữu khuynh.


Nhóm 28 trí thức bị đưa ra Toà Cách mạng có phải một tổ chức không? Họ đâu có quy chế, đâu có chương trình hành động, đâu có thu tiền nguyệt liễm, niên liễm? Nhưng vẫn bị coi như tổ chức vì nhiều người hay tụ họp và cùng nhau trao đổi quan điểm, thế thôi!


Tội danh của họ được trình trước toà: một bọn phản động chống chế độ mà bằng chứng cụ thể là hai bức thư của Myakotin và Fyodorov. Đồng ý là hai người này đã ra khỏi nước Nga, họ chỉ có thể tuyên xử căn cứ theo 2 bức thư đó, xét vì hồi trước Cách mạng họ cùng một nhóm, cùng sinh hoạt với Myakotin và Fyadorov.


Điều nguy hiểm cho 28 người hiện diện là vì hai bức thư ấy đã được gởi cho tướng phiến loạn Denikin từ thời nội chiến để bài bác một số vấn đề căn bản, chẳng hạn như vấn đề nông dân, vấn đề Do Thái, vấn đề quốc tịch của các nước liên bang, vấn đề cơ cấu Chính quyền.


Toà không xét nội dung những lá thư đó mà chỉ kết tội 28 trí thức hiện diện đã có liên hệ và liên lạc thư từ với Denikin, như vậy là rõ ràng là có tội rồi. Ngoài ra chính họ cũng có liên lạc thư từ với những người bạn ở Kiev (tuy vẫn ở trong nước Nga nhưng quân Cách mạng chưa chiếm được thì cũng kể như ở ngoại quốc). Đối với Toà Cách mạng, những lá thư đó là những tang chứng buộc tội phản bội.


Ấy là chưa kể tới những bài báo, những tác phẩm họ đã sáng tác trong thời kỳ nội chiến. Dĩ nhiên chẳng phải những sáng tác căn cứ theo Lenin, Trotsky, Bukharin! Giáo sư Xã hội học Kotlyarevsky viết về cơ cấu tổ chức liên bang, Stempkovsky viết về vấn đề cải cách ruộng đất, Muralevich viết về tổ chức giáo dục tương lai ở Nga Sô. Nhà sinh vật học Koltsov còn bị lên án nặng hơn là đã cho mượn cơ sở để cả nhóm lấy chỗ hội họp.


Nói chung, cả nhóm 28 người bị kết tội “dám tụ họp nhau lại, bàn bạc, thảo luận những cơ chế tổ chức chính quyền trong tương lai, trường hợp chế độ Xô Viết sụp đổ” thay vì ngồi một chỗ gậm khúc bánh mì. Ngồi một chỗ không hoạt động là đã có tội huống hồ có liên lạc với phản loạn Denikin?


Đó là lý do sau khi nhóm họp, đình nghị án 5 ngày liên tiếp Công tố viện yêu cầu xử tử các chính phạm về tội phản loạn và Toà Cách mạng cũng đồng quan điểm, tuy nhiên sau này ân xá cho đi đày trại cải tạo cho đến dứt nội chiến.


Cũng ngồi trên băng bị cáo còn có 3 nhân vật đặc biệt, không hề có hoạt động chính trị gì nhưng suýt bị treo trên cổ một bản án tử hình vì chỉ tham gia sinh hoạt chung với nhóm.


Hoạt động xã hội thuần túy, tổ chức Hội Hồng thập tự để trợ giúp những phạm nhân chính trị như Khruscheva cũng lãnh đủ: tại sao dám đi quyên tiền, gởi phẩm vật vào khám Byturky giúp tù?


Alexandra, cô con gái của đại văn hào Tolstoi trước toà khai không làm gì hơn là lo phụ trách cơm nước, tiếp khách cũng bị nằm trại cải tạo 3 năm trời.


Nhân vật được ưu đãi nhất trong bọn là Savva Morozov, một Mạnh Thường Quân từng tán gia bại sản vì ủng hộ cách mạng Bolsêvich. Riêng với nhóm trí thức hữu khuynh, Morozov cũng có đóng góp ít tiền. Do đó cũng lãnh 3 năm đi đày, coi như một cảnh cáo nên được hưởng án treo. Tuy nhiên ông Mạnh Thường Quân lại là người chịu án nặng hơn cả: về đến nhà Morozov đã tự lấy lưỡi lam cắt đứt cuống họng để giã từ cuộc đời vĩnh viễn.


Bản án 28 trí thức hữu khuynh có thể coi như chấm dứt ở đây.






Truyện liên quan