Chương 123 đông về hiểm đồ
Đệ 19 ngày tới tát lôi tháp cái ( đời sau Jill Cát Tư tư thản cảnh nội, tới gần trung cát biên cảnh ). Nơi này là một mảnh nằm ở khăn mễ nhĩ cao nguyên đông lộc cao độ cao so với mặt biển vùng núi, bị hưng đều kho cái núi non cùng a lại núi non kẹp trì, độ cao so với mặt biển ước 3000 mễ, bốn phía có thể thấy được quanh năm tuyết đọng ngọn núi, như đao tước tro đen sắc vách đá thẳng cắm tận trời. Sơn gian rải rác cổ sông băng lùi bước hình thành U hình cốc, đáy cốc chồng chất góc cạnh rõ ràng băng thích thạch, mùa hạ dung tuyết hối thành dòng suối, 9 cuối tháng đã kết miếng băng mỏng. Độ cao so với mặt biển so thấp chỗ có đoản đồng cỏ, 9 cuối tháng thảo sắc khô vàng, linh tinh điểm xuyết chịu rét long gan hoa tím cùng tuyết liên. Lúc này ban ngày nhiệt độ không khí ước 5-10°C, ban đêm sậu giáng đến -5°C dưới, buổi sáng sương giá bao trùm nham thạch. Sơn khẩu sức gió thường đạt 7-8 cấp, lôi cuốn cát sỏi cùng tuyết viên, như đao cắt gò má. 9 cuối tháng cao độ cao so với mặt biển khu vực đã có linh tinh tuyết rơi, lưng núi tuyến phủ lên bạc biên, cái bóng chỗ tuyết đọng nhưng không vó ngựa. Jill Cát Tư lều chiên linh tinh rải rác với đồng cỏ các nơi, lấy li lông trâu nỉ bao trùm, phụ nữ dùng mộc xử đảo chế nãi ngật đáp, khói bếp bị cuồng phong xé nát. Dương đàn cùng li ngưu duyên cổ đạo hướng thấp độ cao so với mặt biển đông mục trường dời đi, mục tiếng chó sủa quanh quẩn sơn cốc.
1892 năm nga quân chiếm đoạt khăn mễ nhĩ, tát lôi tháp cái trở thành nga thanh thế lực mơ hồ mang, thanh đình đóng quân lui giữ y nhĩ khắc cái thản sơn khẩu. Nga quân cho rằng “Nơi này vì khống chế Khách Thập Cát Nhĩ chi chìa khóa”, đang chuẩn bị từng bước hướng Tân Cương cảnh nội tằm ăn lên. Nơi đây sườn núi chỗ nga quân thành lập mộc chất thành lũy trạm gác, treo song đầu ưng kỳ, Kazaki kỵ binh cầm mạc tân - nạp cam súng trường tuần tra, vọng tháp mắc kính viễn vọng theo dõi thương đạo. Thiết có quan hệ tạp, thương đội quá cảnh cần chước “Tuyết tuyến thông hành thuế”, cự phó giả hàng hóa bị khấu. Lọt qua cửa tạp sau, đi trước đường núi rộng chừng dung một đà, ngoại sườn tức trăm trượng vực sâu, mặt băng giấu giếm kẽ nứt, đà đội cần lấy trường thằng xâu chuỗi phòng trụy nhai. Thương đội ở chỗ này toàn bộ đề phòng lên, bởi vì nơi đây Prudo ( Jill Cát Tư ) mã phỉ thường xuyên phục kích lạc đơn thương đội, kiếp hóa sau tức trốn vào tuyết sơn. Nga quân tắc lấy “Diệt phỉ” vì danh mở rộng khống chế khu, cho nên trên thực tế là nga quân vì mở rộng chính mình chiếm lĩnh khu cố ý túng phỉ cướp bóc địa phương, thương đội trông chờ không thượng nga thanh bất luận cái gì một phương quan quân, chỉ có thể tự bảo vệ mình.
Từ tát lôi tháp cái đi trước nga thanh giờ phút này thật khống biên giới y nhĩ khắc cái thản sơn khẩu phải trải qua rắc hồ ( đời sau Jill Cát Tư tư thản cảnh nội, gần trung cát biên cảnh ), nằm ở khăn mễ nhĩ cao nguyên đông duyên, độ cao so với mặt biển ước 3900 mễ, là sông băng yển tắc hồ, diện tích ước 380 km vuông, bị tuyết sơn vây quanh như khảm với vòm trời mặc ngọc. Hồ bồn từ cổ sông băng ăn mòn hình thành, nam ngạn vì đẩu tiễu vách đá, bắc ngạn rải rác băng thích thạch đôi cùng đá sỏi than, giữa hồ có hai tòa núi lửa nham đảo, giống nhau cự thú sống lưng trồi lên mặt nước. Hồ nước hơi hàm, 9 cuối tháng tầng ngoài thủy ôn chỉ 2-3°C, mặt hồ phiếm chì màu xám lãnh quang, sâu không lường được, chỗ sâu nhất siêu 2 30 mét. Mặt hồ bên cạnh đã kết miếng băng mỏng, lớp băng hạ ám lưu dũng động, băng nứt thanh như sấm rền, chính ngọ ánh mặt trời chiết xạ băng lăng, biến ảo bảy màu vầng sáng. Siberia dòng nước lạnh cùng cao nguyên dòng khí đối hướng, mặt hồ thường quát 7-8 cấp gió mạnh, cuốn lên băng tr.a như lưỡi đao cắt mặt, thương đội cần phủ phục dán mà tránh gió. Ban ngày ngắn ngủi ánh sáng mặt trời hạ nhiệt độ không khí ước 5°C, ban đêm sậu giáng đến -15°C, đà đội thở ra bạch khí nháy mắt ngưng tụ thành băng tinh.
Đốm nhạn đầu đàn cùng hắc cổ hạc đàn tập nam ngạn chỗ nước cạn, lông chim kết sương vẫn đứng ngạo nghễ gió lạnh, minh thanh thê lương như bài ca phúng điếu. Nhân hồ nước nhiệt độ thấp cùng cao độ mặn, trừ chịu rét vi sinh vật ngoại mấy vô bầy cá, hồ ngạn ngẫu nhiên thấy báo tuyết truy tìm dê rừng đến thủy tân lưu lại trảo ấn. Vương Nguyệt Sinh màn đêm buông xuống hồn xuyên đời sau khi tr.a đến rắc hồ độ mặn tùy sông băng tan rã từng năm lên cao, 21 thế kỷ đã mất loài chim tê cư.
Bắc ngạn đá sỏi than rơi rụng đà cốt, đoạn viên cùng mảnh sứ, phía trước thương đội hóa rương tẩm thủy sau trầm đế, trăm năm sau vẫn có thể thấy được thanh hoa hoa văn. Hồ đông mặt băng từng hãm lạc chỉnh chi Ba Tư thương đội, lúc này vẫn có phá lều nỉ cùng tiền đồng nửa chôn lớp băng, nga quân đinh thi hài vì mốc bờ “Biển cảnh báo”. Sa Hoàng ở Hồ Nam ngạn thiết mộc thạch bảo lũy, Kazaki kỵ binh cầm súng xua đuổi gần hồ thương lữ, tháp đỉnh mắc khắc lỗ bá pháo uy hϊế͙p͙ thanh quốc tạp luân. Hồ Đông Bắc giấu giếm nửa thanh tàn bia, âm khắc “Đại Thanh Càn Long 41 năm khám giới”, bị nga quân tạp hủy cận tồn “Càn”, “Giới” hai chữ, sau đó ở bị tạp chỗ tạc khắc song đầu ưng huy cùng tiếng Nga “1892” ( nga quân chiếm lĩnh khăn mễ nhĩ niên đại ), đồ hắc than đá hôi hiện hình.
Ven hồ có Jill Cát Tư dân chăn nuôi đôi thạch gò đống tế hồ thần, triền phai màu mảnh vải thượng viết Đột Quyết như ni văn đảo từ: “Thủy là thiên thần nước mắt, băng là vong hồn giáp”. 9 cuối tháng hồ băng chưa kiên, thương đội lúc này có hai loại lựa chọn, một là vòng Hồ Nam ngạn nga quân trạm gác chước trọng thuế, một là đánh cuộc mệnh đạp miếng băng mỏng thẳng xuyên giữa hồ, nhưng trốn thuế cũng tỉnh ba ngày lộ trình. Cuối cùng quyết định xuyên hồ mà qua. Đà đội lấy trường thằng xâu chuỗi, tiêu sư cầm mộc trượng dò đường, vẫn có một phong lạc đà trụy động băng, hóa rương chìm nghỉm. Kazaki kỵ binh mượn kính viễn vọng phát hiện băng thượng thương đội, nổ súng cảnh báo, nhưng không dám đuổi theo mặt băng.
Hồ thượng khó nhất chính là khuyết thiếu nhiên liệu, đà phân cùng bụi cây căn cần ướt đông lạnh khó châm, vẫn là tiêu sư dùng hỏa dược chất dẫn cháy. Thủy cũng là khó khăn, nơi này hồ nước là hàm thủy, tạc băng pha trà cần trộn lẫn tỏi nước phòng đi tả, trời giá rét chén sứ nứt vỏ, sửa dùng dương dạ dày thịnh thủy, đại gia uống lên đều sứt môi thấm huyết. Trên đường một vị tiêu sư đột phát phổi có nước, Vương Nguyệt Sinh mèo ba chân công phu đối phó loại này bệnh bộc phát nặng không hề biện pháp, chỉ có thể dùng nha phiến đính cầu được tiêu sư nửa khắc thần chí thanh tỉnh, lưu lại di ngôn “Đem ta trầm hồ, hồn về núi tây” sau khí tuyệt, thi bọc vải nỉ lông táng băng khích.
Đệ 20 ngày, thương đội xuyên qua rắc hồ, tới rồi y nhĩ khắc cái thản sơn khẩu. Sơn khẩu trước Cole khắc tư dân chăn nuôi đôi thạch tế Sơn Thần gò đống phai màu kinh trên lá cờ dùng hán, Đột Quyết, nga tam ngữ kỳ nguyện: “Quá này giả, hồn về cố thổ”. Cách đó không xa Kazaki binh lính mộ đàn lập chính giáo thiết giá chữ thập, văn bia mơ hồ, duy “1892” cùng “Vì Sa Hoàng” chữ nhưng biện.
Nga quân ở sơn khẩu tây sườn trúc mộc chất thành lũy, Kazaki kỵ binh cầm mạc tân - nạp cam súng trường tuần tra, nóc nhà song đầu ưng kỳ bị phong xé thành toái điều, tường đinh Thanh quân tàn khôi ( tả tông đường tây chinh di vật ) thị uy. Đông sườn còn sót lại nửa thanh tấm bia đá, âm khắc “Đại Thanh Quang Tự giới”, bia thân vết đạn chồng chất. Đồn biên phòng Kazaki trung úy lấy “Vượt biên mậu dịch tội” uy hϊế͙p͙ khấu lưu hóa đội, tác đi trà bánh trăm khối, tơ lụa hai mươi cuốn.
Nơi này nằm ở khăn mễ nhĩ cao nguyên đông duyên, độ cao so với mặt biển ước 3200 mễ, là liên tiếp trung á Fell làm nạp bồn địa cùng Trung Quốc Tân Cương Khách Thập Cát Nhĩ thiên nhiên cửa ải, giống nhau cự thần phách nứt lưng núi khe hẹp. Sơn khẩu hai sườn vì tro đen sắc đá phiến vách đá, đáy cốc chồng chất cổ sông băng khuân vác băng thích thạch, mùa hạ dung tuyết hình thành chảy xiết dòng suối, 9 cuối tháng đã phúc miếng băng mỏng. Ải nói hiểm trở, nhất hẹp nhất chỉ 3 mễ khoan, đà đội cần dán vách tường đi từ từ, ngoại sườn tức trăm mét vực sâu, trụy nhai đà cốt cùng hóa rương hài cốt rơi rụng đáy cốc, theo gió truyền đến chuông đồng trầm đục. Ngày đêm độ chênh lệch nhiệt độ trong ngày đạt 30°C, ban ngày cuồng phong bọc tuyết viên như đao, ban đêm nhiệt độ không khí sậu giáng đến -20°C, băng sương phúc thạch như khải. Báo tuyết trảo ấn lạc với nham phùng, kên kên đàn tê vách đá sào huyệt, chịu rét tuyết liên cùng hồng cảnh thiên điểm xuyết thạch khích, cành lá phúc băng tinh. Vách đá thượng đinh đà xương sọ, cằm cốt chỉ hướng Khách Thập phương hướng, răng phùng nhét đầy lui tới thương đội danh thiếp, làm đồng hành giả sinh tử bia. Mảnh sứ khảm nhập vùng đất lạnh, tơ lụa tàn điều quải thứ bách chi đầu, trà rương gỗ mục rơi rụng. Một tiêu sư trụy nhai bỏ mạng, ngã xuống trước hô câu 『 cấp yêm nương mang cái lời nói 』, Lý chưởng quầy khắc mộc bài “Sơn Tây vương thiết trụ qua đời với này”, cắm với nham phùng, phúc tuyết vì trủng. Quay đầu lại đối ở bên một mình thần thương Vương Nguyệt Sinh ảm đạm nói, “Đáng thương oa, này lập tức tới rồi Đại Thanh địa giới, cư nhiên không có”.
Vương Nguyệt Sinh đếm đếm lạc đà an thượng khắc ngân, tính một chút, hôm nay là dương lịch 1899 năm ngày 30 tháng 9. Dựa theo Lý chưởng quầy cách nói, đi ra này đoạn hẻm núi, qua đông sườn Thanh quân tạp luân, chính là Trung Quốc quốc thổ.