Chương 001 : Phi đao gặp khoái kiếm
Gió lạnh như dao chém xuống, dùng mặt đất làm cái thớt, mọi loài sinh vật như cá thịt nằm trên thớt chịu dao. Ngàn dặm tuyết bay, vũ trụ như một lò lửa hừng, nung vạn vật chảy ra sáng trắng như bạc lỏng.
Tuyết sắp dừng rơi, nhưng gió chưa ngưng thổi. Một cỗ xe ngựa chạy từ phương bắc đến, bánh xe nghiến nát băng tuyết nghe rào rào, nhưng không nghiến nổi trời đất tịch mịch tiêu sơ.
Lý Tầm Hoan ngáp một cái, duỗi thẳng chân ra, gác lên tấm da điêu mềm mại. Trên xe tuy ấm áp thư thái, nhưng con đường lại dài, quá dài, quá cô đơn. Trên thế gian này, chàng chán ghét nhất là cô đơn, nhưng lại phải thường xuyên làm bạn với cô đơn.
“Kiếp sống của con người vốn đầy mâu thuẫn, ai không chịu thì cũng chẳng làm gì được.”
Lý Tầm Hoan thở dài một tiếng, lôi một bầu rượu trong góc xe ra, vừa hớp một ngụm lớn đã ho sặc sụa. Cơn ho làm sắc mặt của chàng biến sang màu đỏ đầy bệnh hoạn, tựa như thể xác lẫn linh hồn chàng đang bị lửa địa ngục thiêu đốt từ bên trong, đã đỏ ra tới ngoài da.
Bình rượu đã cạn, chàng lấy dao ra bắt đầu khắc một hình người, mấy ngón tay thon dài đầy khí lực điều khiển mũi dao vừa mỏng vừa bén ngót.
Đây là hình một nữ nhân được khắc rất thuần thục, nét mặt vừa thùy mị vừa mỹ lệ, trông rất sống động.
Chàng không chỉ tạo cho nàng một dáng vẻ động lòng người, mà còn tạo cho nàng linh hồn và sinh mạng, dường như sinh mạng và linh hồn của chàng đã theo lưỡi dao từ từ truyền vào hình tượng.
Chàng không còn trẻ nữa.
Khóe mắt của chàng đầy nếp nhăn, mỗi nếp nhăn như chứa đầy lo âu và bất hạnh của kiếp người. Nhưng đôi mắt của chàng còn rất trẻ.
Đôi mắt này thật là kỳ dị, xanh biếc long lanh tựa như cành liễu lay động trước gió xuân dịu dàng linh hoạt, lại tựa như nước biển dưới mặt trời mùa hạ đầy sức sống, làm cho người ta vui vẻ.
Dường như đôi mắt tinh anh này đã giữ chàng sống được đến tận ngày nay.
Hình đã khắc xong, chàng chầm chậm ngắm nhìn đầy vẻ luyến tiếc. Chàng ngắm nhìn không biết đã bao lâu, rồi vụt đẩy cửa ra nhảy xuống xe.
Đại hán đánh xe vội quát lên một tiếng, dừng cỗ xe ngựa lại.
Đại hán này mặt râu quai nón, ánh mắt sắc bén như mắt chim ưng, nhưng khi nhìn vào mặt Lý Tầm Hoan thì lập tức ánh mắt dịu hẳn lại, đầy vẻ trung thành và cảm thông, như ánh mắt của một con chó dữ nhìn chủ nhân.
Lý Tầm Hoan khoét một lỗ sâu trên mặt băng tuyết, chôn vùi hình tượng vừa điêu khắc xuống, rồi đứng sững nhìn ngôi mộ tuyết.
Mười ngón tay chàng đã đông cứng, mặt mũi lạnh đến đỏ hồng lên, cả thân mình bám đầy hoa tuyết, nhưng chàng như không biết lạnh, vẫn đứng trước ngôi mộ tuyết, tựa như trong đó có một người thân, tựa như khi chàng chôn vùi “nàng” trong đó rồi, sinh mạng chàng sẽ không còn ý nghĩa nữa.
Nếu là một ai khác chứng kiến hành động của Lý Tầm Hoan thì nhất định sẽ rất kinh ngạc, nhưng đại hán đánh xe có vẻ đã quen rồi. Gã dịu giọng nói: “Trời sắp tối rồi, đường hãy còn xa lắm, thiếu gia mau lên xe đi.”
Lý Tầm Hoan chậm chạp quay mình lại, chợt phát hiện bên vết bánh xe lại còn có một hàng dấu chân, cô độc từ phương bắc đến đây, lại cô độc đi về phía trước.
Dấu chân hằn rất rõ, hiển nhiên người đó đã đi một quãng đường xa lắm, mệt mỏi lắm rồi, nhưng hắn vẫn tiếp tục đi, không chịu dừng lại nghỉ ngơi.
Lý Tầm Hoan lại thở dài, chậm rãi nói: “Thời tiết thế này, lại có người một mình đội tuyết mà đi. Ta nghĩ, nhất định hắn đang cô độc đáng thương lắm.”
Đại hán râu không nói gì, nhưng thầm than thở: “Chẳng lẽ thiếu gia không cô độc đáng thương sao? Sao thiếu gia cứ phải cảm thông cho người khác? Sao thiếu gia cứ quên mất bản thân mình...”
*
* *
Dưới sàn xe đầy những khúc gỗ thông rắn chắc, Lý Tầm Hoan lại bắt đầu khắc, thủ pháp cực kỳ tinh xảo, thuần thục, có thể vì bàn tay chàng vĩnh viễn chỉ khắc hình một người.
Người này không những đã chiếm cả trái tim, mà còn đã chiếm trọn thân thể chàng.
Tuyết cuối cùng cũng ngừng rơi, nhưng trời đất vẫn lạnh lẽo, vẻ thê lương tịch mịch càng dày. Cũng may mà trong luồng gió thổi từ phía trước đã có lẫn tiếng bước chân người.
Âm thanh này nhẹ hơn tiếng vó ngựa nhiều, nhưng đó lại là âm thanh Lý Tầm Hoan đang chờ đợi, nên dù âm thanh này có nhẹ hơn nhiều nữa, chàng vẫn nghe rất rõ ràng.
Chàng vén rèm cửa bằng da điêu, mở cửa sổ nhìn ra.
Trên mặt tuyết phía trước, hiện rõ một bóng người cô độc.
Người đó đi rất chậm, tuy nghe tiếng bánh xe lóc cóc và tiếng ngựa hí, nhưng tuyệt nhiên không quay đầu nhìn lại. Hắn không che dù, cũng không đội nón, tuyết rơi trên đầu trên mặt hắn theo cổ mà chảy xuống, ướt đẫm chiếc áo mỏng.
Lưng hắn thẳng băng, thân thể không run rẩy chút nào, tựa như đúc bằng đồng bằng sắt, mệt mỏi đói rét không khuất phục được hắn.
Dường như không gì có thể khuất phục được hắn!
Lúc cỗ xe ngựa vượt qua, Lý Tầm Hoan nhìn rõ được khuôn mặt hắn.
Lông mày hắn rất đậm, mắt rất to, đôi môi mỏng mím lại như sợi chỉ. Sống mũi thẳng càng làm nét mặt có vẻ ốm hơn.
Nét mặt này rất dễ làm người ta nghĩ đến đá hoa cương, quật cường, kiên định, lạnh nhạt, không quan tâm chuyện gì, thậm chí không quan tâm đến bản thân mình.
Nhưng đó lại là một khuôn mặt tuấn tú nhất mà Lý Tầm Hoan đã thấy. Tuy hắn còn trẻ, chưa chín chắn lắm, nhưng đã có sức mê hoặc người ta.
Ánh mắt của Lý Tầm Hoan dường như lộ vẻ cười. Chàng đẩy cửa xe ra, lên tiếng gọi: “Lên xe đi! Ta cho đi nhờ một đoạn.”
Một câu nói rất đơn giản nhưng rất có sức thuyết phục. Giữa vùng băng tuyết mênh mông không có chỗ tận cùng như thế này, đề nghị đó quả là không có ai từ chối được.
Nào ngờ gã thiếu niên chẳng hề nhìn lại, chân bước đều đều, tựa như không nghe thấy gì.
Lý Tầm Hoan hỏi: “Ngươi điếc ư?”
Gã thiếu niên đột nhiên đặt tay vào cán kiếm đeo lủng lẳng bên hông. Bàn tay gã bị giá lạnh làm trắng bệch như cá ch.ết, nhưng động tác cực kỳ linh hoạt thuần thục.
Lý Tầm Hoan cười: “Thì ra ngươi không điếc. Lên xe đi, uống một ly rượu cho ấm bụng. Đối với bất cứ ai thì một ly rượu cũng chẳng có hại gì.”
Gã thiếu niên đáp cộc lốc: “Ta không uống được!”
Cuối cùng thì hắn cũng mở miệng nói được một câu. Những nếp nhăn ở đuôi mắt Lý Tầm Hoan gợn lên nét vui tươi, nhưng chàng không cười ra miệng, chỉ dịu dàng nói: “Ta mời ngươi uống, không cần ngươi phải bỏ tiền mua.”
Gã thiếu niên đáp: “Không phải vật của ta mua thì ta không dùng, không phải rượu của ta mua thì ta không uống. Ta nói đủ rõ chưa?”
Lý Tầm Hoan gật đầu: “Rõ ràng lắm.”
Gã thiếu niên tiếp: “Tốt. Huynh đi đi.”
Lý Tầm Hoan im lặng một chút, chợt cười: “Tốt. Ta đi, nhưng lúc ngươi mua rượu thì có mời ta một ly không?”
Gã thiếu niên ngạc nhiên nhìn lại, đáp: “Có. Ta sẽ mời huynh.”
Lý Tầm Hoan cười to, cỗ xe đi nhanh vượt lên. Bóng gã thiếu niên dần dần mất hút.
Lý Tầm Hoan vẫn cười, cất tiếng hỏi: “Ngươi đã thấy một gã thiếu niên kỳ lạ như vậy chưa? Nhìn thì cứ tưởng hắn đã trải qua vô số giông bão trên đời, không ngờ hắn nói chuyện thật thà, ngây thơ đến thế.”
Đại hán đánh xe điềm nhiên đáp: “Hắn cũng chỉ là một đứa trẻ quật cường mà thôi.”
Lý Tầm Hoan hỏi: “Ngươi có thấy thanh kiếm hắn đeo bên hông không?”
Đại hán râu mỉm cười hỏi lại: “Cái đó mà gọi là một thanh kiếm sao?”
Nói đúng ra, vật đó không thể gọi là thanh kiếm, chỉ là một thanh sắt nhọn dài ba thước, không có lưỡi bén, không có miếng che tay, cũng không có chuôi kiếm. Ở một đầu thanh sắt chỉ có hai miếng gỗ mỏng kẹp vào để cầm, không lẽ đó gọi là chuôi kiếm hay sao?
Gã đánh xe cười cười nói tiếp: “Theo ta thấy thì đó là một món đồ chơi con nít.”
Lần này Lý Tầm Hoan không cười mà lại thở ra: “Theo ta thấy thì món đồ chơi ấy rất nguy hiểm, tốt nhất là không nên đùa với hắn.”
Cuối cùng thì cỗ xe cũng đến một thị trấn nhỏ. Thị trấn này có một khách điếm lại càng nhỏ, nhưng lúc này đầy khách đang bị kẹt lại vì bão tuyết, nên khá chật chội, thật là náo nhiệt.
Trước sân khách điếm có đến mười mấy cỗ tiêu xa trống rỗng, phủ chiếu cót, trên chiếu phủ đầy tuyết. Dưới mái nhà phía đông đang cắm một ngọn cờ bảo tiêu màu nâu sậm viền vàng, bị gió thổi phần phật nên thật khó mà nhận ra hình thêu kim tuyến trên đó là đầu cọp hay đầu sư tử.
Phòng trước khách điếm là nơi ăn uống, khách ra vào không ngớt, đều là những đại hán khoác áo da thú. Nhiều kẻ uống xong vài ly rượu lại phanh ngực áo ra, như muốn biểu diễn rằng ta đây không biết sợ lạnh là gì.
Lúc Lý Tầm Hoan đến đó thì phòng ăn khách điếm không còn chỗ nào trống cả. Nhưng chàng không lo lắng chút nào, vì chàng đã hiểu rằng trên thế gian này, chỉ cần có tiền là có thể mua được tất cả những thứ có thể mua được bằng tiền. Chàng len vào được một cái bàn trong hốc, gọi lấy một bình rượu, ngồi uống từ từ.
Lý Tầm Hoan uống không nhanh lắm, nhưng có thể uống mấy ngày mấy đêm không nghỉ. Chàng uống rượu không ngừng, ho cũng không ngừng. Bên ngoài trời đã tối sẫm.
Đại hán râu đi vào, tiến đến sau lưng chàng, khẽ nói: “Trên gác còn một cái phòng ở phía nam đã sửa soạn sạch sẽ, chừng nào thiếu gia mệt thì lên đó nghỉ.”
Lý Tầm Hoan tựa như biết trước gã đánh xe sẽ làm xong việc đó, chỉ gật đầu. Một lúc sau, gã đánh xe vụt nói: “Có khá đông người của Kim Sư tiêu cục trong khách điếm này, dường như họ mới giao hàng xong trở về.”
Lý Tầm Hoan hỏi: “Chà! Thủ lĩnh của chúng là ai?”
Gã đánh xe đáp: “Chính là Cấp phong kiếm Gia Cát Lôi.”
Lý Tầm Hoan chau mày, nhưng rồi lại cười: “Tên ngông cuồng đó sống đến ngày nay, kể ra cũng không phải dễ.”
Tuy nói chuyện với người đứng sau lưng, nhưng mắt của Lý Tầm Hoan cứ nhìn ra cửa lớn đang buông rèm kín mít, hình như đang đợi ai.
Gã đánh xe nói ngay: “Chú bé ấy không đi được nhanh, phải quá canh một mới đến đây.”
Lý Tầm Hoan cười: “Theo ta thì hắn không phải là không đi nhanh được, chỉ vì không muốn phí sức. Ngươi có thấy một con chó sói đi trên đất tuyết bao giờ chưa? Nếu phía trước không có mồi để đuổi và phía sau không có thú dữ hơn đuổi theo, thì sói nhất định không đi nhanh. Chắc hắn cho rằng dùng hết sức để đi đường thì thật là đáng tiếc.”
Gã đánh xe cũng cười: “Nhưng chú bé ấy không phải là một con sói.”
Lý Tầm Hoan không nói nữa, vì chàng đang bận ho.
Sau đó, chàng thấy ba người vừa nói chuyện oang oang vừa từ phía sau đi ra phòng ăn. Họ đang huyên thuyên về những chuyện không đâu vào đâu trên chốn giang hồ, dường như họ sợ người ta không nhận ra mình là người của Kim Sư tiêu cục uy danh lừng lẫy.
Lý Tầm Hoan nhận ra một gã béo mập, mặt đỏ tía là Cấp phong kiếm Gia Cát Lôi, nhưng chàng không muốn gã nhìn ra mình, bèn cúi đầu xuống, lại khắc hình người.
May mà những khi Gia Cát Lôi đến các thị trấn nhỏ bé như thế này thì hắn hiếm khi thèm nhìn ai. Bọn chúng gọi rất nhiều rượu thịt, bắt đầu nhậu nhẹt tưng bừng.
Rượu thịt nhiều thật, nhưng cũng không đủ trám kín miệng chúng. Gia Cát Lôi uống được mấy ly, hào khí cuồn cuộn đã bốc tới mây, lớn tiếng cười nói: “Lão nhị! Ngươi có nhớ vụ chúng ta gặp Thái Hành Tứ Hổ ở Thái Hành Sơn không?”
Một người vừa cười vừa đáp: “Sao lại không nhớ? Hôm đó bọn Thái Hành Tứ Hổ cả gan đến động vào món hàng của đại ca. Bốn tên đó lại còn diễu võ dương oai, bảo đại ca bò dưới đất thì mới cho qua núi, bằng không thì phải để lại cả thủ cấp kèm vào hàng hóa.”
Người thứ ba phì cười: “Thế mà chúng vừa rút đao là đã bị kiếm của đại ca xuyên qua yết hầu rồi.”
Người thứ hai càng nói lớn tiếng hơn: “Triệu lão nhị ta không thổi phồng đâu. Nói về chưởng lực uy mãnh, đương nhiên Tổng tiêu đầu Kim Sư Chưởng của chúng ta là số một, còn nói về kiếm pháp thần tốc thì bảo đảm trong thiên hạ không có ai bằng đại ca.”
Gia Cát Lôi nâng ly cười ha hả, nhưng tiếng cười chợt ngưng lại. Tấm màn cửa dày bằng vải bông bị gió cuộn lên.
*
* *
Có hai người dường như bị gió tuyết thổi từ ngoài cửa bay vào.
Hai người này đều khoác áo choàng màu đỏ tươi, trên đầu đội nón vành rộng. Hai người này hình dạng rất giống nhau, cao thấp cũng không phân biệt.
Tuy mọi người đều không thấy được diện mạo của họ, nhưng thấy khinh công xuất chúng cùng cách ăn mặc bắt mắt như thế, cũng đủ trố mắt lên rồi.
Chỉ có ánh mắt của Lý Tầm Hoan vẫn nhìn vào cánh cửa, vì vừa rồi khi gió thổi rèm cửa tốc lên thì chàng đã thấy gã thiếu niên cô độc đó.
Thiếu niên đó đứng ngay ngoài cửa, tựa hồ đã đứng rất lâu, giống như là một con sói cô đơn vậy. Con sói có thể quyến luyến sự ấm áp ở trong cửa nên không nỡ rời khỏi đây, nhưng lại sợ hãi ánh sáng chói mắt ở bên trong nên cũng không dám đi vào cái thế giới của con người.
Lý Tầm Hoan nhẹ nhàng thở ra một hơi, ánh mắt chuyển qua nhìn hai người kia.
Hai người này từ từ lấy nón xuống, lộ ra hai khuôn mặt vừa gầy gò vừa vàng vọt, xấu xí như hai cái đầu người làm bằng sáp ong vậy.
Tai chúng rất nhỏ nhưng mũi lại rất to, dường như choán hết một phần ba khuôn mặt, hất cặp mắt của chúng ra gần tới tai.
Ánh mắt của chúng rất sắc bén và độc ác, giống như ánh mắt của rắn đuôi chuông.
Sau đó chúng lại bắt đầu cởi áo choàng, lộ ra bộ y phục màu đen dính sát vào thân thể. Té ra thân thể của chúng cũng giống như rắn độc, ốm ốm dài dài, dẻo dai cứng cáp, linh hoạt như bất cứ lúc nào cũng có thể vọt đi được. Hai người này toát ra một vẻ ẩm ướt thế nào đó, người ta nhìn thấy không khỏi vừa sợ hãi vừa kinh tởm.
Dáng dấp chúng không khác nhau chút gì, nhưng người bên trái thì sắc mặt trắng hơn, người bên phải lại mặt đen như lọ chảo. Động tác của chúng rất chậm chạp, từ từ cởi áo khoác ra, từ từ xếp lại, từ từ đi vào phòng, rồi từ từ đi đến trước mặt Gia Cát Lôi.
Không khí trong khách điếm yên tĩnh đến nỗi nghe thấy cả những âm thanh gọt đẽo của Lý Tầm Hoan. Gia Cát Lôi rất muốn giả vờ không nhìn thấy hai người này, nhưng thật sự không giả vờ nổi.
Hai người này không nháy mắt cái nào, nhìn hắn trừng trừng. Ánh mắt chúng tựa như hai cái bàn chải đã thấm dầu, chà qua xát lại trên thân thể Gia Cát Lôi.
Gia Cát Lôi chỉ còn cách đứng dậy miễn cưỡng cười nói: “Xin hỏi cao tính đại danh hai vị là chi? Thứ lỗi vì tại hạ mắt kém không nhìn ra.”
Người rắn mặt trắng cất tiếng hỏi: “Ngươi chính là Cấp phong kiếm Gia Cát Lôi ư?”
Thanh âm của hắn vừa bén nhọn vừa gấp rút, lại không ngừng rung động như âm thanh bật ra từ con rắn đuôi chuông. Gia Cát Lôi vừa nghe đã đổ mồ hôi, tóc gáy dựng lên, đáp: “Không dám, không dám!”
Người rắn mặt đen cười lạnh: “Cái thứ như ngươi mà dám tự xưng là Cấp Phong Kiếm ư?”
Tay hắn rung lên một cái, trong tay đột nhiên có thêm một thanh nhuyễn kiếm đen tuyền vừa nhỏ vừa dài, rung cái nữa thì thanh nhuyễn kiếm vốn dùng làm thắt lưng bỗng trở thành thẳng tắp.
Hắn chỉ mũi kiếm vào Gia Cát Lôi, gằn từng tiếng: “Ngươi hãy để lại cái gói đồ đã mang từ quan ngoại về, ta sẽ tha mạng ngươi.”
Triệu lão nhị đột nhiên đứng dậy, cười nói: “E rằng hai vị đã lầm rồi. Chuyến này bọn tại hạ giao hàng ở quan ngoại, hiện nay xe tiêu trống rỗng, không có thứ gì. Hai vị... hai vị...”
Hắn chưa nói xong, thanh nhuyễn kiếm trong bàn tay người kia đã quấn quanh cổ hắn như một con rắn. Con rắn nhẹ nhàng uốn một cái, đầu của Triệu lão nhị văng lên không trung.
Rồi một luồng máu từ trong cổ hắn vọt ra, phun trúng vào cái đầu đang bay trên không trung, làm cái đầu xoay chuyển hai vòng. Sau đó máu tươi rơi xuống như những hạt mưa, lấm tấm bám trên người Gia Cát Lôi. Mọi người trong khách điếm nhìn thấy cảnh tượng này đều sợ đến trố mắt ra, chân không ngớt run rẩy như dây đàn tỳ bà.
Nhưng kẻ ngông cuồng như Gia Cát Lôi sống cho đến nay còn chưa ch.ết, tất cũng phải có đôi chút thủ đoạn. Đột nhiên hắn móc trong bọc ra một cái túi màu vàng, quăng lên trên bàn rồi nói: “Danh hiệu của hai vị hẳn là vang dội lắm. Nhưng lần này bọn tại hạ mang cái túi này từ quan ngoại về, hai vị muốn đem nó đi sao? Chỉ sợ không đơn giản thế đâu.”
Người rắn mặt đen cười nham hiểm: “Ngươi muốn như thế nào?” Gia Cát Lôi nói: “Dù sao thì hai vị cũng phải hiển thị một chút công phu, để khi trở về tại hạ còn biết đường nói chuyện.”
Hắn nói chưa hết câu đã lùi được bảy bước, đột nhiên rút kiếm đánh soạt một tiếng, làm ai cũng tưởng hắn sắp cùng đối phương thí mạng.
Nào ngờ hắn xoay tay một cái, mọi thứ chén bát trên bàn đều nhảy vọt lên. Cả những con tôm lăn bột trong chiếc đĩa cũng bay lên hết.
Hắn vung kiếm rẹt một tiếng, kiếm quang lóe lên, mười con tôm lăn bột đều bị chặt đôi. Sau đó cả chén đĩa lẫn tôm đều từ từ rơi xuống đất.
Gia Cát Lôi vênh mặt lên nói: “Giả tỉ hai vị có thể làm như tại hạ, thì tại hạ lập tức trao cho hai vị cái túi này. Nếu không thì xin hai vị biến ngay lập tức.”
Kiếm pháp của hắn thật ra không tệ lắm, lời nói cũng rất oai phong, nhưng Lý Tầm Hoan lại thấy buồn cười. Chẳng lẽ người ta chỉ có quyền chặt tôm lăn bột mà không có quyền chặt đầu của hắn? Bất luận thắng hay bại, tối thiểu cũng phải giữ tính mạng của mình, còn tính mạng thì mới nói chuyện được.
Người rắn mặt đen cười khà khà nói: “Đây là công phu của đầu bếp, có thể gọi là võ công hay sao?”
Hắn nói đến đây thì hít một hơi, hai chục miếng tôm lăn bột đang ở dưới đất lại từ từ bay lên, rồi một ánh chớp đen lóe qua. Hai chục miếng tôm đột nhiên không thấy nữa, té ra đã bị hắn xỏ hết lên lưỡi kiếm. Cho dù những người không biết võ công cũng có thể hiểu, chặt đôi mười con tôm lăn bột không phải là chuyện dễ, nhưng phải dùng kiếm để xâu một xâu tôm thì còn khó hơn không biết bao nhiêu lần. Thủ kình đã phải chính xác, nhãn lực lại càng ghê gớm.
Sắc mặt Gia Cát Lôi xám xịt như màu đất, vì hắn vừa thấy kiếm pháp này đã nghĩ đến hai người. Chân hắn bất giác lùi lại vài bước, nhẹ giọng hỏi: “Chẳng lẽ hai vị chính là Bích Huyết Song Xà ư?”
*
* *
Nghe bốn chữ Bích Huyết Song Xà, một gã tiêu sư hoảng hốt đến nỗi mặt không còn huyết sắc, đột nhiên chui tọt xuống gầm bàn để trốn.
Ngay cả gã đại hán râu đang đứng sau lưng Lý Tầm Hoan cũng bất giác chau mày. Hắn đã nghe đồn, trong đám hắc đạo ở vùng sông Hoàng Hà mấy năm gần đây, có rất ít người có thể tàn độc hơn hai tên này. Nghe nói, hai cái áo choàng màu đỏ khoác trên thân chúng đã nhuộm bằng máu tươi.
Tin đồn về Bích Huyết Song Xà cũng không xác thực lắm, vì trong những người đã tận mắt chứng kiến Bích Huyết Song Xà hành sự, đến chín phần mười đã bị mất thủ cấp.
Hắc Xà khẽ cười: “Ngươi còn nhận ra chúng ta, cũng coi như mắt chưa mù.”
Gia Cát Lôi nghiến răng: “Hai vị đã thích cái túi này, thì tại hạ chẳng còn gì để nói nữa! Hai vị hãy đem đi đi.”
Bạch Xà đột nhiên xen vào: “Nếu ngươi chịu bò dưới đất một vòng thì huynh đệ ta sẽ lập tức thả ngươi ra, còn nếu không, ngươi nhất định phải để lại thủ cấp kèm vào cái túi đó.”
Đây chính là câu nói huênh hoang của bọn Gia Cát Lôi khi nãy, bây giờ từ miệng của Bạch Xà nói ra thì mỗi chữ đều biến thành một con dao. Sắc mặt của Gia Cát Lôi lúc xanh lúc trắng, hắn đứng sững một lúc rồi đột nhiên nằm ẹp xuống đất, bò quanh bàn một vòng.
Đến lúc này thì Lý Tầm Hoan chịu không nổi, thở ra một hơi, rồi từ từ nói: “À! Thì ra tính khí của hắn đã thay đổi hẳn. Thảo nào hắn sống được đến bây giờ!”
Tiếng nói của chàng cực kỳ nhỏ nhẹ nhưng Hắc Bạch Song Xà đã lập tức nhìn sang. Chàng làm như không thấy gì, vẫn tiếp tục điêu khắc hình người.
Bạch Xà cười khẩy: “À! Té ra ở đây lại còn có cao nhân! Huynh đệ ta suýt nữa thì thất lễ!”
Hắc Xà cười nham hiểm: “Cái túi này là của người khác tình nguyện tặng cho chúng ta. Chỉ cần có ai kiếm pháp nhanh hơn, thì huynh đệ ta sẽ tình nguyện hai tay bưng cái túi này dâng lên!”
Bạch Xà rung tay một cái, đã cầm một thanh nhuyễn kiếm giống như rắn độc, kiếm quang trắng toát làm cho người ta hoa mắt. Thanh kiếm dường như phát ra gió lạnh, còn hắn cũng lạnh lùng nói: “Chỉ cần có ai kiếm pháp nhanh hơn, thì huynh đệ ta không những tặng cái bao này, mà ngay cả thủ cấp cũng tặng cho người đó.”
Mắt của chúng giống như mắt rắn độc, nhìn chằm chằm vào mặt Lý Tầm Hoan, nhưng Lý Tầm Hoan lại cắm cúi điêu khắc, hình như không nghe mà cũng không cần nghe chúng đang nói những gì.
Nhưng đột nhiên ở trước cửa lại có người lớn tiếng hỏi: “Thủ cấp của ngươi đáng giá bao nhiêu tiền?”
*
* *
Nghe thấy câu này, Lý Tầm Hoan vừa kinh ngạc vừa thích thú. Chàng ngẩng đầu nhìn lên, thấy gã thiếu niên đó cuối cùng cũng đã đi vào nhà.
Y phục của gã còn chưa khô ráo, thậm chí có chỗ còn đóng băng, nhưng thân thể của gã vẫn thẳng tắp, thẳng như một mũi tên. Sắc mặt của gã vẫn cô độc như thế, vẫn quật cường như thế.
Ánh mắt của gã lúc nào cũng như dã thú, bất khả khuất phục, hình như bất cứ lúc nào cũng chuẩn bị chiến đấu, làm cho người ta không dám gần gũi với gã.
Cái đáng chú ý nhất là thanh kiếm đang ở trên thắt lưng của gã.
Nhìn thấy cây kiếm này, ánh mắt của Bạch Xà chuyển thành nhạo báng. Hắn cười khà khà hỏi: “Mấy câu vừa rồi có phải là mi nói hay không?”
Thiếu niên đáp: “Phải.”
Bạch Xà nói: “Ngươi muốn mua thủ cấp của ta ư?”
Thiếu niên nói: “Ta chỉ muốn biết nó đáng giá bao nhiêu tiền. Ta muốn đem nó bán cho chính ngươi.”
Bạch Xà trừng mắt, khựng lại một tí rồi hỏi lại: “Bán cho chính ta ư?”
Thiếu niên nói: “Không sai! Chỉ vì ta không muốn lấy cái bao này, càng không muốn lấy cái thủ cấp này.”
Bạch Xà nói: “Nếu vậy, thì ra ngươi muốn đến tỉ thí kiếm pháp với ta ư?”
Thiếu niên trả lời: “Đúng thế.”
Bạch Xà nhìn lên nhìn xuống người gã mấy cái, rồi lại nhìn cây kiếm bên hông gã, đột nhiên cười ha hả. Bình sinh, hắn chưa thấy chuyện nào tức cười hơn chuyện này.
Thiếu niên vẫn im lặng đứng yên một chỗ, hoàn toàn không hiểu đối phương đang cười cái gì. Gã tự cảm thấy những lời nói của mình không đáng để người ta cười nhiều đến thế.
Đại hán râu thở ra một hơi, hình như cảm thấy đứa trẻ này thật quá ngông cuồng. Gia Cát Lôi cũng cảm thấy đầu óc của người này hình như bất bình thường.
Bạch Xà cười lớn tiếng: “Thủ cấp của ta ư? Ngàn vàng cũng khó mua!”
Thiếu niên nói: “Ngàn vàng thì nhiều quá! Ta chỉ có năm chục lượng bạc.”
Bạch Xà ngưng cười. Hắn phát giác thiếu niên này không điên khùng, cũng không ngu ngốc, lại càng không phải là đang đùa giỡn. Lời nói của gã vừa thận trọng vừa nghiêm chỉnh.
Nhưng Bạch Xà nhìn tới thanh kiếm thì lại không nín nổi, cười ồ lên: “Được! Chỉ cần ngươi làm được thế này thì ta sẽ cho ngươi năm chục lượng.”
Trong tiếng cười, kiếm quang của hắn lại lóe lên, hình như chém vào cây nến đang thắp trên bàn. Nhưng cây nến đó không nhúc nhích gì hết.
Mọi người đều cảm thấy kỳ quái. Nhưng Bạch Xà bỗng thổi ra một hơi, cây nến rớt ra thành bảy khúc. Kiếm quang lại lóe lên, bảy khúc nến đều được xâu lên kiếm, ở khúc trên cùng ánh sáng vẫn còn nhấp nháy, ngọn lửa vẫn chưa tắt. Té ra chiêu kiếm vừa rồi đã cắt cây nến thành bảy đoạn.
Bạch Xà kiêu ngạo nói: “Ngươi thấy chiêu kiếm của ta có nhanh hay không?
Sắc mặt của thiếu niên không động, chỉ đáp: “Rất nhanh.”
Bạch Xà cười dữ tợn: “Kiếm của ngươi thì sao?”
Thiếu niên đáp: “Kiếm của ta không dùng để chém đèn nến!”
Bạch Xà hỏi: “Nếu vậy thì thanh sắt rỉ của ngươi dùng để làm gì?”
Tay thiếu niên đặt lên chuôi kiếm, nói rõ ràng từng chữ một: “Kiếm của ta chỉ dùng để giết người!”
Bạch Xà cười: “Giết người? Ngươi có thể giết được ai nào?”
Thiếu niên đáp: “Ngươi!”
Tiếng nói vừa cất lên, kiếm đã đâm thẳng ra.
*
* *
Thanh kiếm vốn đang treo trên thắt lưng của chàng thiếu niên này, ai cũng nhìn thấy. Nhưng đột nhiên thanh kiếm đó đã đổi vị trí.
Ai cũng nhìn thấy thanh kiếm dài khoảng ba thước xuyên qua yết hầu của Bạch Xà, nhưng không một ai thấy rõ thanh kiếm đã làm như thế nào mà đâm được vào yết hầu.
Không có giọt máu nào chảy xuống, vì máu chưa kịp chảy.
Thiếu niên trừng mắt nhìn Bạch Xà, hỏi: “Kiếm của ngươi nhanh hay kiếm của ta nhanh?”
Trong cổ họng của Bạch Xà có tiếng òng ọc. Da thịt trên mặt hắn đang còn co giật, lỗ mũi của hắn ngày càng nở lớn ra, miệng cũng há hốc ra, rồi lưỡi thè ra.
Máu tươi đã bắt đầu từ trên đầu mũi của hắn nhỏ giọt xuống.
Thanh kiếm của Hắc Xà đã giương thẳng lên, nhưng không dám phóng ra. Mồ hôi ở trên mặt hắn chảy ròng ròng, thanh kiếm của hắn cũng không ngớt run rẩy.
Thiếu niên đột nhiên rút kiếm về, máu tươi từ yết hầu của Bạch Xà bắn ra như một mũi tên. Bạch Xà vừa thở hắt một hơi, vừa uất hận đáp: “Ngươi... nhanh...”.
Lời vừa nói ra, người hắn ngã xuống đất.
Đến bây giờ thiếu niên mới quay lại Hắc Xà, nói: “Hắn đã thừa nhận là thua rồi. Năm mươi lượng bạc đâu?”
Gã vẫn tiếp tục nói chuyện một cách thật thà như thế, thật thà đến mức như một thằng ngốc.
Nhưng lần này không ai dám cười gã nữa.
Hắc Xà đứng đó, ngay cả môi cũng rung lên, ngắc ngứ hỏi: “Ngươi... Ngươi... Ngươi thật sự vì năm chục lượng bạc đó mà giết người ư?”
Thiếu niên cười lãnh đạm: “Không sai!”
Hắc Xà biến sắc, không biết nên cười hay nên khóc. Đột nhiên hắn vứt thanh kiếm xuống, túm lấy cổ áo mình, bắt đầu xé nát y phục trên thân thể. Những thỏi bạc giấu bên trong rơi xuống dưới đất từng thỏi, từng thỏi. Hắn dùng sức đá hất những thỏi bạc đó về phía gã thiếu niên, vừa khóc òa lên vừa nói: “Là của ngươi! Tất cả đều là của ngươi!”
Rồi hắn giống như một gã điên, chạy ra ngoài. Thiếu niên không đuổi theo, cũng không vội vã, cúi xuống nhặt hai thỏi bạc, đặt lên mặt bàn của tên chưởng quỹ, hỏi: “Ngươi xem có đủ năm chục lượng hay không?”
Tên chưởng quỹ sợ đến hồn vía bay mất hết, hình như đang ước mơ được thấp lùn lại còn một nửa để nấp kín dưới quầy. Hai hàm răng hắn khua lên lách cách, không sao nói ra lời, ráng hết sức mới gật đầu được.
Lúc này Lý Tầm Hoan mới quay lưng lại, cười với đại hán râu: “Ta không nói sai chứ?”
Đại hán râu thở ra một hơi, nhăn nhó cười: “Một chút cũng không sai. Cái đồ chơi đó thật sự là quá nguy hiểm!
Đại hán râu nhìn thấy gã thiếu niên đi đến chỗ mình, nhưng chưa thấy động tác của Gia Cát Lôi.
Gia Cát Lôi từ lúc bò quanh bàn vẫn chưa hề đứng dậy, lúc này đột nhiên vung kiếm lên, hướng vào hậu tâm của thiếu niên mà đâm đến.
Chiêu kiếm của hắn không chậm. Thiếu niên lại tuyệt nhiên không hề nghĩ tới chuyện hắn động thủ ám toán mình.
Gã giết Bạch Xà, Gia Cát Lôi đáng lẽ phải cảm ơn gã. Tại sao Gia Cát Lôi lại ám toán gã?
Ai cũng nghĩ thanh kiếm nhất định phải xuyên thủng hậu tâm của thiếu niên. Nào ngờ ngay lúc đó, Gia Cát Lôi bỗng nhảy dựng lên một cái cao đến sáu thước, không la lên một tiếng. Thanh kiếm của hắn đã rời khỏi tay, văng lên cắm vào xà nhà, những cái tua trên chuôi kiếm rung động không ngớt.
Hai tay của Gia Cát Lôi chụp vào yết hầu, mắt trừng trừng nhìn Lý Tầm Hoan, hai tròng mắt như muốn lòi ra ngoài.
Lúc này Lý Tầm Hoan đã ngưng điêu khắc, vì con dao khắc gỗ không còn trong tay chàng nữa.
Máu tươi đã từng giọt, từng giọt từ cằm Gia Cát Lôi nhểu xuống. Hắn trừng mắt nhìn Lý Tầm Hoan, yết hầu kêu òng ọc. Lúc này, mới có người phát hiện con dao của Lý Tầm Hoan đang cắm ở yết hầu hắn.
Nhưng cũng không một ai đã thấy ngọn tiểu đao này đã cắm vào yết hầu của hắn như thế nào. Chỉ thấy mồ hôi trên đầu của Gia Cát Lôi chảy như mưa, sắc mặt bị đau đớn biến thành dị dạng. Đột nhiên hắn cắn răng, nhổ con dao nhỏ ấy ra, trừng mắt nhìn Lý Tầm Hoan, phẫn hận nói: “Té ra là ngươi! Lẽ ra ta phải sớm nhận ra ngươi!”
Lý Tầm Hoan nói: “Tiếc rằng đến bây giờ ngươi mới nhận ra ta. Nếu không ngươi sẽ không làm những chuyện mất thể diện như thế!”
Câu nói này Gia Cát Lôi không nghe thấy. Vĩnh viễn hắn không nghe thấy câu nói nào nữa.
Chàng thiếu niên quay lại nhìn. Trên nét mặt gã lộ ra một chút xíu kinh ngạc, tựa như nghĩ không ra tại sao người này lại muốn giết mình. Nhưng gã cũng chỉ nhìn qua một cái rồi thôi, lại đi tiếp đến trước mặt Lý Tầm Hoan. Nhãn quang của gã vẫn chứa đầy lòng hiếu thắng, nhưng đã lộ ra một chút xíu ấm áp, tựa như sắp cười.
Hắn chỉ nói một câu: “Ta mời huynh uống rượu.”
2 - Trên đời còn tri kỷ
Trong cỗ xe ngựa chất đầy những hũ rượu. Rượu này là của gã thiếu niên mua, nên gã uống hết chén này đến chén khác, lại còn uống khá nhanh. Lý Tầm Hoan đang nhìn gã, ánh mắt vui tươi. Rất ít khi chàng gặp được những người mà chàng cảm thấy hứng thú, nhưng thật sự chàng đã có hứng thú với thiếu niên này.
Tuyết rơi trên đường đã đóng kết lại thành băng cứng ngắt. Xe đi trên đường băng rất dễ bị trơn trượt, dù là ngựa tốt cũng khó mà điều khiển được. Nhưng gã đại hán râu ria bờm xờm kia đã quấn vào bánh xe mấy sợi dây xích sắt, cho đỡ trơn khi đi trên băng tuyết.
Những sợi dây xích nghiến trên băng tuyết, phát ra những âm thanh rào rào liên tục. Đột nhiên, thiếu niên để chén rượu xuống, nhìn Lý Tầm Hoan: “Tại sao huynh nhất định phải kêu ta lên xe ngựa mới chịu uống rượu?”
Lý Tầm Hoan cười, rồi nói: “Vì khách sạn đó không phải là nơi chúng ta có thể lưu lại lâu.”
Thiếu niên hỏi: “Tại sao thế?”
Lý Tầm Hoan đáp: “Bất luận là ai, sau khi đã giết người, nhất định cũng ít nhiều bị phiền phức. Ta không sợ giết người, nhưng bình sinh sợ nhất là phiền phức.”
Thiếu niên im lặng hồi lâu, rồi múc trong hũ rượu ra một ly, ngửa đầu lên, nốc cạn. Lý Tầm Hoan mỉm cười nhìn gã, tựa như đang thưởng thức kiểu cách uống rượu của gã.
Lát sau, thiếu niên thở ra một hơi dài rồi nói: “Tuy giết người không phải là một chuyện vui vẻ, nhưng cũng có một số người thật sự đáng giết. Vì vậy, ta không thể không giết người.”
Lý Tầm Hoan mỉm cười hỏi: “Có thật là ngươi giết Bạch Xà vì năm chục lượng bạc không?”
Thiếu niên đáp: “Không có năm chục lượng bạc, ta cũng giết hắn. Nhưng có năm chục lượng bạc thì càng tốt.”
Lý Tầm Hoan hỏi: “Tại sao ngươi chỉ lấy năm chục lượng bạc?”
Thiếu niên trả lời: “Vì hắn chỉ đáng giá năm chục lượng bạc.”
Lý Tầm Hoan cười: “Trên giang hồ còn lắm người đáng giết, trong số đó có nhiều kẻ đáng giá hơn năm mươi lượng. Sau này có lẽ ngươi sẽ trở thành một đại phú ông, và ta sẽ thường xuyên có rượu để uống.”
Gã thiếu niên nói: “Tiếc rằng ta đang quá nghèo, nếu không thì ta cũng sẽ tặng huynh năm mươi lượng.”
Lý Tầm Hoan hỏi: “Vì sao?”
Gã thiếu niên nói: “Vì huynh đã giết một người giùm ta.”
Lý Tầm Hoan cười ha hả: “Ngươi nói sai rồi! Con người đó không những không đáng giá tới năm chục lượng, mà một đồng cũng không đáng.”
Rồi đột nhiên Lý Tầm Hoan lại hỏi: “Ngươi có biết vì sao Gia Cát Lôi muốn giết ngươi không?”
Gã thiếu niên lắc đầu: “Không biết.”
Lý Tầm Hoan nói: “Bạch Xà chưa giết hắn, nhưng đã làm cho hắn mất chỗ đứng trên giang hồ. Ngươi lại giết Bạch Xà, thì hắn chỉ còn cách giết ngươi để lấy lại thể diện. Hắn đã tự thổi phồng chính mình, nên hắn không thể không giết ngươi để được nở mày nở mặt. Trong giang hồ, lòng người rất hiểm ác, chỉ sợ ngươi không ngờ hết được.”
Thiếu niên trầm ngâm hồi lâu, rồi lên tiếng, tựa như tự nói với mình: “Con người có khi còn ác độc hơn lang sói. Khi lang sói muốn giết anh, thì tối thiểu cũng cho anh biết trước.”
Gã lại uống một ly rượu, đột nhiên nói tiếp: “Ta chỉ từng nghe con người nói lang sói ác độc nhưng chưa từng nghe lang sói nói con người ác độc. Thật ra, lang sói vì phải sống nên mới giết người. Còn con người thì có thể giết người mà không biết tại sao phải giết. Theo ta biết, số người bị con người giết thì nhiều hơn so với bị lang sói giết rất nhiều.”
Lý Tầm Hoan nhìn chằm chằm vào gã thiếu niên, rồi từ từ hỏi: “Vì thế mà ngươi thích kết bạn với lang sói ư?”
Thiếu niên lặng thinh một lát, đột nhiên vừa cười vừa nói: “Chỉ tiếc là lang sói không biết uống rượu.”
Đây là lần đầu tiên Lý Tầm Hoan nhìn thấy nụ cười của chàng thiếu niên này. Chàng chưa từng nghĩ, một nụ cười lại làm cho gương mặt người ta biến đổi nhiều như thế. Gương mặt của thiếu niên vốn lạnh lùng cô độc, lại rất quật cường, thường làm cho Lý Tầm Hoan liên tưởng đến một con chó sói lưu lạc một mình giữa vùng băng tuyết. Nhưng khi khóe mắt chàng thiếu niên này lộ vẻ cười, thì cả con người gã liền thay đổi, ôn hòa, thân thiết, khả ái vô cùng.
Lý Tầm Hoan chưa từng thấy một nụ cười nào có thể làm động lòng người đến thế.
Gã thiếu niên cũng đang nhìn kỹ Lý Tầm Hoan. Đột nhiên, gã hỏi: “Huynh có phải là một người có danh tiếng không?”
Lý Tầm Hoan cười đáp: “Có danh tiếng không phải là một chuyện tốt.”
Gã thiếu niên nói: “Nhưng ta hy vọng có được danh tiếng. Ta hy vọng trở thành người nổi danh nhất trong thiên hạ.”
Lúc gã nói câu này, vẻ mặt thật thà như một đứa trẻ nói rằng nó đang khao khát một món đồ chơi.
Lý Tầm Hoan cười: “Đã là con người thì trong thâm tâm ai cũng muốn nổi danh. Ít ra thì ngươi cũng thành thật hơn rất nhiều người khác.”
Gã thiếu niên lắc đầu: “Ta khác với những người khác. Ta không thể không thành danh được, nếu không thành danh, ta chỉ có con đường ch.ết mà thôi.”
Lý Tầm Hoan hơi sửng sốt, không nhịn được bèn hỏi: “Tại sao lại thế?”
Gã thiếu niên không trả lời, ánh mắt lộ ra vẻ bi thương, phẫn nộ.
Lý Tầm Hoan chợt phát giác, gã thiếu niên này có lúc ngây thơ thật thà như một đứa trẻ, nhưng có lúc lại tiềm ẩn rất nhiều bí mật. Thân thế của gã chắc hẳn giống như một mê cung, đầy rẫy bất hạnh và bi thương đan chéo lẫn nhau.
Lý Tầm Hoan nhẹ nhàng nói: “Ngươi muốn nổi danh, thì ít nhất cũng phải cho mọi người biết danh tính của mình trước.”
Trầm ngâm một lúc khá lâu, thiếu niên mới chậm rãi nói: “Những người quen biết ta đều gọi ta là A Phi.”
A Phi?
Lý Tầm Hoan cười cười, hỏi lại: “Chẳng lẽ ngươi họ A sao? Trên thế gian đâu có họ này?”
Thiếu niên lắc đầu: “Ta không có họ.”
Trong ánh mắt của hắn, đột nhiên có một ngọn lửa cháy bừng lên. Lý Tầm Hoan cảm thấy ngọn lửa ấy ngay cả nước mắt cũng khó mà dập tắt được, bèn không nhẫn tâm hỏi thêm.
Nhưng gã thiếu niên A Phi đột nhiên nói tiếp: “Đến khi ta nổi danh, ta sẽ công bố danh tánh, còn bây giờ...”
Lý Tầm Hoan dịu dàng nói: “Bây giờ, ta cứ gọi ngươi là A Phi.”
A Phi nói: “Hay lắm! Bây giờ huynh cứ gọi ta là A Phi. Thật ra, cho dù gọi ta bằng cái tên nào, cũng không sao.”
Lý Tầm Hoan cười: “A Phi! Ta mời ngươi một ly.”
Mới hớp nửa ly, Lý Tầm Hoan đã nổi ho sặc sụa. Trên nét mặt trắng bệch của chàng lại nổi lên những vệt đỏ hồng bệnh hoạn. Thế nhưng chàng vẫn điềm nhiên, ngẩng mặt lên uống cạn nốt nửa ly còn lại.
A Phi kinh ngạc nhìn Lý Tầm Hoan, tựa hồ không ngờ được một hiệp khách giang hồ lại có thể chất suy nhược như thế. Gã không nói gì, chỉ nhìn một cái rồi ngửa cổ uống cạn ly rượu của mình nhanh như chớp.
Lý Tầm Hoan chợt nhìn A Phi, rồi cười nói: “Trong số bằng hữu của ta, khi nhìn thấy ta ho hen, ngươi là người đầu tiên không khuyên ta cai rượu.”
A Phi hỏi: “Ho hen thì không nên uống rượu ư?”
Lý Tầm Hoan cười: “Đụng đến rượu cũng không nên.”
A Phi chau mày hỏi: “Thế sao huynh lại uống? Phải chăng huynh có rất nhiều chuyện thương tâm?”
Ánh mắt sáng loáng của Lý Tầm Hoan chợt mờ đi, nhìn thẳng A Phi, nói: “Ta chưa từng hỏi những điều ngươi không muốn trả lời. Ta đã hỏi cha mẹ ngươi là ai, võ công ngươi do ai truyền thụ, ngươi từ đâu đến và ngươi sẽ đi đâu hay chưa?”
A Phi lắc đầu: “Chưa. Chưa hỏi.”
Lý Tầm Hoan lại nói: “Thế thì sao ngươi lại hỏi ta?”
A Phi im lặng ngồi nhìn Lý Tầm Hoan khá lâu, rồi mỉm cười: “Đúng thế. Ta không hỏi huynh nữa.”
Lý Tầm Hoan cũng cười, hình như định mời A Phi một ly rượu nữa. Nhưng chàng vừa rót rượu ra thì đã lại gập mình xuống ho sặc sụa, hai vai co rút lên, ho không kịp thở.
A Phi vội mở cửa sổ cho thoáng khí, nhưng lúc ấy cỗ xe đột nhiên dừng lại.
Lý Tầm Hoan quay đầu nhìn ra cửa sổ, hỏi: “Có chuyện gì thế?”
Gã đại hán râu xồm nói: “Có người cản đường.”
Lý Tầm Hoan hơi cau mày: “Là người như thế nào?”
Đại hán râu cười khẽ: “Là người tuyết.”
Lý Tầm Hoan cùng A Phi nhìn ra, thấy giữa đường có một người tuyết khá lớn, không biết con nít nhà ai đã dựng lên. Người tuyết có cái bụng tròn vo, trên mặt có nhét hai viên than làm đôi mắt.
Hai người bước xuống, đứng dựa vào thành xe nhìn người tuyết.
A Phi chăm chú nhìn, dường như gã chưa từng thấy người tuyết bao giờ.
Lý Tầm Hoan nhìn gã, mỉm cười hỏi: “Ngươi chưa từng dựng người tuyết hay sao?”
A Phi lắc đầu: “Ta chỉ biết tuyết là thứ đáng ghét. Chẳng những tuyết làm cho con người lạnh lẽo mà còn làm cho cây cỏ tiêu điều, muông thú tuyệt tích. Tuyết làm cho muôn vật đói rét.”
Gã vốc lên một nắm tuyết, ném ra xa. Cục tuyết vỡ ra, biến mất trong sa mù. Gã nhìn xa xa, chầm chậm nói: “Đối với hạng người được ăn no mặc ấm, tuyết có thể là đáng yêu. Họ không những có thể đắp người tuyết để chơi mà còn có thể thưởng thức cảnh tuyết rơi, nhưng đối với những người như ta...”
Đột nhiên gã trừng mắt nhìn Lý Tầm Hoan: “Huynh có biết không? Ta là một kẻ lớn lên giữa vùng hoang dã, cho nên mưa, gió, tuyết đều là thù địch của ta.”
Thần sắc Lý Tầm Hoan thoáng vẻ ảm đạm. Chàng cũng vốc một nắm tuyết, rồi nói: “Ta không ghét tuyết, nhưng ghét nhất là có kẻ cản đường.”
Chàng vừa nói vừa ném cục tuyết vào mặt người tuyết.
Tuyết văng tứ tung, nhưng người tuyết không ngã xuống. Hai con mắt bằng than rơi xuống, khuôn mặt đắp bằng tuyết cũng vỡ ra, để lộ một khuôn mặt khác bên trong. Khuôn mặt bên trong lớp tuyết lại là mặt người.
Lại là mặt người ch.ết.
*
* *
Sắc mặt của người ch.ết vốn đã chẳng có gì dễ coi, khuôn mặt này lại càng ghê gớm đặc biệt, khó mà nhìn lâu được. Đôi mắt trên mặt trông rất ác độc, giống như mắt cá ch.ết bị ép lồi ra ngoài.
A Phi buột miệng kêu lên: “Chính là Hắc Xà!”
Tại sao Hắc Xà lại bị giết ở đây? Tại sao kẻ giết hắn lại đem hắn nhồi lại thành người tuyết, rồi đặt đứng giữa đường?
Đại hán râu bước lại, khom mình xuống thi thể Hắc Xà, xem xét cẩn thận dường như muốn tìm xem vết thương chí mạng ở đâu.
Lý Tầm Hoan trầm tư, vụt hỏi A Phi: “Ngươi có biết ai đã giết Hắc Xà không?”
A Phi lắc đầu: “Không biết!”
Lý Tầm Hoan cười: “Chính là cái túi vải ấy!”
A Phi chau mày: “Cái túi đó ư?”
Lý Tầm Hoan gật đầu: “Từ lúc Gia Cát Lôi lấy cái túi ra để trên bàn, ta cũng không để ý lắm, nhưng đến khi Hắc Xà chạy đi rồi thì không thấy cái túi ấy đâu nữa. Cho nên ta nghĩ rằng Hắc Xà đã cố ý làm bộ điên cuồng, để lén đem cái túi đi mà không ai chú ý.”
A Phi nói: “Đúng lắm.”
Lý Tầm Hoan nói: “Nhưng hắn không ngờ đem cái túi ấy đi là rước lấy họa diệt thân. Người ta giết hắn có lẽ cũng chỉ vì cái túi ấy.”
Không biết chàng đã cầm ngọn tiểu đao trên tay từ lúc nào, nhẹ nhàng vuốt ve lưỡi dao, chầm chậm hỏi, như tự hỏi: “Không hiểu cái túi ấy đựng vật gì? Sao lại lắm kẻ hứng thú với nó như thế? Đáng lý lúc ấy ta phải mở ra xem.”
A Phi đang im lặng để nghe, đột nhiên nói: “Nếu người ta giết hắn là vì cái túi ấy, tại sao khi đoạt được vật rồi lại còn phải dùng xác hắn làm người tuyết để cản đường làm gì?”
Lý Tầm Hoan hơi có vẻ kinh ngạc.
Chàng vẫn tưởng gã thiếu niên này chẳng hiểu nhân tình thế sự gì lắm, nhiều lúc ngây thơ như một đứa trẻ. Thế nhưng chỉ một nhận xét này đủ chứng tỏ gã cũng cao về trí tuệ, nhanh về phản ứng, ngay kẻ lịch lãm giang hồ như mình cũng chưa chắc đã bằng.
A Phi lại hỏi tiếp: “Phải chăng hung thủ đã đoán biết huynh sẽ là người đầu tiên đi qua con đường này? Phải chăng hắn làm thế để chặn cỗ xe này lại?”
Lý Tầm Hoan không trả lời, lại hỏi: “Ngươi đã tìm ra vết thương chí mạng của hắn chưa?”
Đại hán râu chưa kịp đáp thì Lý Tầm Hoan lại nói: “Thôi! Ngươi khỏi cần tìm nữa.”
A Phi cũng gật đầu: “Không sai! Người ta đã tới rồi, còn tìm nữa làm gì.”
Thị giác và thính giác của Lý Tầm Hoan có thể gọi là mẫn cảm số một thiên hạ, nhưng bây giờ chàng thấy thính giác của gã thiếu niên này ít nhất cũng tinh nhạy bằng chàng.
A Phi tựa như bẩm sinh đã có một bản năng tự nhiên như dã thú, có thể nhận ra những chuyện mà người thường không nhận ra được.
Lý Tầm Hoan mỉm cười khen ngợi gã, rồi dõng dạc cất tiếng: “Quý vị đã đến, tại sao không ra đây uống rượu?”
Bên ven đường chợt có tiếng động, tuyết trên cây rào rào rơi xuống. Một người lớn tiếng cười nói: “Mười năm không gặp, không ngờ phong độ của Lý Thám Hoa vẫn y hệt như xưa. Thật là đáng chúc mừng!”
Trong tiếng cười, một người gò má nhô cao, sắc mặt trắng bệch, mắt sáng như mắt chim ưng, chỉ còn một tay, bước những bước dài từ ven rừng bên trái tiến ra.
Ven rừng bên phải cũng xuất hiện một người ốm tong teo, gầy như que củi, trên mặt không có thịt. Tưởng như chỉ một cơn gió thoảng cũng có thể thổi hắn bay đi mất.
A Phi nhận ra ngay bước chân của lão ốm không lưu lại dấu vết gì trên mặt tuyết. Tuyết tuy đã đóng thành băng, nhưng trên mặt băng vẫn có một lớp tuyết mới rơi.
Người này bước trên tuyết không để dấu tích, một phần là nhờ thân thể gầy gò, nhưng không ai dám phủ nhận khinh công của lão rất cao cường.
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Tại hạ mới nhập quan chưa đầy nửa tháng, không ngờ tr.a tổng tiêu đầu của Kim Sư Tiêu Cục và Thần hành vô ảnh Ngu Nhị tiên sinh đã biết mà đến thăm. Thì ra thể diện của tại hạ thật là không nhỏ.”
Lão già ốm nhom cười âm hiểm: “Tiểu Lý Thám Hoa danh bất hư truyền, chỉ thoáng nhìn qua là không quên được. Chúng ta chỉ gặp nhau một lần mười ba năm về trước, không ngờ Thám Hoa còn nhớ được lão què Ngu Nhị này.”
A Phi lúc này mới nhìn xuống chân lão ốm, thật không tưởng tượng nổi một người có khinh công cao minh như vậy lại tàn phế một chân. Gã hiểu, Ngu Nhị bị tàn phế bẩm sinh, nên từ nhỏ phải khổ luyện khinh công hơn người để bù đắp chỗ khuyết tật.
A Phi không nhịn nổi, lộ vẻ thán phục lão già này.
Lý Tầm Hoan lại mỉm cười: “Nhị vị còn mấy người bạn nữa, sao lại không mời ra một lượt, vì tại hạ mà giới thiệu một chút?”
Ngu Nhị đáp: “Không sai. Bọn họ đã được nghe đại danh của Tiểu Lý Thám Hoa từ lâu, cũng muốn gặp mặt các hạ một lần.”
Lúc đó trong rừng lại có bốn người tiến ra. Tuy giữa ban ngày ban mặt, nhưng Lý Tầm Hoan vừa thoáng thấy bốn người này đã thấy hơi hơi lạnh gáy.
*
* *
Tuổi tác bốn người này không nhỏ, nhưng chúng ăn mặc y như trẻ nít. Quần áo màu sắc sặc sỡ khác nhau, đôi giày cũng là giày trẻ con có thêu đầu cọp, trên lưng lại quấn những tấm vải thêu hoa kết tua. Cả bốn đều là đại hán mắt to mày rậm, diện mạo hung tợn, nhưng lại làm bộ chau mày chu mỏ, cười giỡn bi bô như con nít nghịch ngợm, trông thật là chướng mắt, cơm đã ăn hai ngày cũng muốn nôn ra. Cổ tay cổ chân chúng lại đeo đầy vòng bạc sáng loáng, cứ mỗi bước đi lại chạm vào nhau khua lên leng keng.
Đại hán râu vừa thấy bốn tên này, lập tức xanh mặt, hạ giọng: “Hắc Xà không phải bị người ta giết ch.ết.”
Lý Tầm Hoan “À” một tiếng.
Đại hán râu nói tiếp: “Hắn bị bò cạp và rắn rết cắn ch.ết đấy!”
Lý Tầm Hoan biến sắc, trầm giọng hỏi: “Thì ra chư vị là Ngũ Độc Đồng Tử, môn hạ Cực Lạc Động ở Miêu Cương.”
Một trong bốn tên, gã Hoàng y đồng tử ngửa mặt cười ha hả: “Bọn ta cực khổ lắm mới đắp được một người tuyết tuyệt đẹp. Thế mà ngươi làm hư mất, ta phải bắt đền.”
Chữ “đền” vừa dứt, Hoàng y đồng tử đã xồng xộc lao thẳng tới. Các loại chuông khánh gắn đầy trên vòng bạc ở cổ tay, cổ chân của hắn khua lên leng keng nhức óc đinh tai.
Lý Tầm Hoan chỉ nhìn hắn cười cười, không nhúc nhích chút nào. Nhưng Ngu Nhị bỗng vọt lên không, chụp tay gã đồng tử áo vàng, kéo nghiêng qua một bên.
Kim sư tr.a Mãnh vội cười lớn: “Lý Thám Hoa gia tài thiên vạn, cho dù người vàng đi nữa cũng thừa sức đền bù, chứ đừng nói chi người tuyết. Xin bốn vị đừng gấp gáp, để tr.a mỗ giới thiệu đã.”
Hồng y đồng tử cười hi hí: “Biết rồi, biết rồi... Ta biết hắn họ Lý, gọi là Lý Tầm Hoan.”
Hắc y đồng tử tiếp: “Ta còn biết hắn tinh thông đủ bốn món tứ đổ tường, từ lâu đã muốn bắt hắn dẫn đi tìm những nơi vui chơi khoái lạc.”
Lục y đồng tử nói: “Học vấn hắn cũng rất cao, đã từng thi đỗ Thám Hoa. Nghe đâu cả cha lẫn ông nội hắn cũng từng đỗ Thám Hoa.”
Hồng y đồng tử cười lớn: “Chỉ tiếc là Tiểu Lý Thám Hoa không thích làm quan, lại thích làm cường đạo.”
Bọn chúng nói qua nói lại toàn chuyện cũ rích, chỉ có A Phi chăm chú nghe. Gã thật không ngờ cuộc đời của người bạn mới quen này lại có nhiều góc độ như thế. Nhưng gã lại chưa hiểu, bọn này chỉ biết một phần nhỏ trong cuộc sống của Lý Tầm Hoan mà thôi. Mà một phần đó cũng đủ nói đến ba ngày ba đêm chưa hết.
A Phi cũng không phát giác được, nét mặt của Lý Tầm Hoan vẫn tươi cười, nhưng trong lòng lại cực kỳ buồn bã. Cứ mỗi lần Lý Tầm Hoan nghe thiên hạ nhắc tới chuyện đời mình là lại đau như xé ruột.
Đột nhiên, Ngu Nhị trầm mặt xuống nói: “Các vị biết về Lý Thám Hoa cũng khá nhiều đấy, nhưng chắc chưa nghe nói đến thần đao của Tiểu Lý là đệ nhất thiên hạ, phóng ra chưa trật đao nào.”
Hoàng y đồng tử cười khì khì, nói: “Phóng ra chưa trật đao nào... Ha ha, té ra ngươi sợ ta ch.ết vì ngọn đao ấy nên kéo ta lại phải không? Ngươi sợ khó nói chuyện với sư phụ ta, nên ngăn chặn không cho ta ch.ết đấy ư?”
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Xin các vị cứ yên tâm, đao thứ hai của tại hạ chưa chắc đã phóng ra được. Chỉ một đao thì dứt khoát không thể giết ch.ết cùng lúc sáu người.”
Bỗng nhiên họ Lý trầm mặt xuống, trừng mắt nhìn tr.a Mãnh: “Nếu các vị muốn báo thù cho Gia Cát Lôi, xin cứ việc ra tay.”
Kim sư tr.a Mãnh cười khan hai tiếng rồi nói: “Gia Cát Lôi quả là đáng ch.ết, sao có thể trách Lý huynh được?”
Lý Tầm Hoan nói: “Quí vị không báo thù cho Gia Cát Lôi, vậy chẳng lẽ tìm tại hạ để mời đi uống rượu sao?”
tr.a Mãnh trầm ngâm, chưa biết phải nói ra sao.
Ngu Nhị cười lạnh lẽo: “Chúng ta chỉ muốn Lý Thám Hoa vui lòng trao cái túi ấy lại mà thôi.”
Lý Tầm Hoan chau mày: “Cái túi ư?”
tr.a Mãnh gật đầu: “Phải, cái túi ấy là của người ta giao cho Kim Sư Tiêu Cục. Nếu lỡ bị mất, thì thanh danh mấy mươi năm qua của tiêu cục chúng tôi cũng mất theo trong một sớm một chiều.”
Đưa mắt về phía thi thể Hắc Xà, Lý Tầm Hoan hỏi: “Cái túi ấy không có trong mình hắn sao?”
tr.a Mãnh cười lớn: “Lý huynh nói giỡn rồi. Có mặt Lý huynh ở đó thì làm sao Hắc Xà lấy được?”
Lý Tầm Hoan chau mày, thở dài, lẩm bẩm: “Bình sinh ta sợ nhất là phiền phức, mà sao những chuyện phiền phức lại cứ tìm ta...”
Không nghe rõ, tr.a Mãnh nói tiếp: “Chỉ cần Lý huynh trao cái túi ấy lại, không những tại hạ lập tức đi ngay, mà còn phải hậu tạ để Lý huynh uống rượu tiêu sầu nữa.”
Lý Tầm Hoan nhẹ vuốt con dao nhỏ trong tay, đột nhiên cười: “Không sai! Cái túi ấy đích xác ở trong tay ta, nhưng ta chưa quyết định được có nên trao lại cho các vị hay không. Tốt nhất là các vị để cho ta suy nghĩ một chút.”
Mặt tr.a Mãnh hơi đổi sắc nhưng Ngu Nhị đã vội hỏi: “Không biết các hạ cần suy nghĩ bao lâu?”
Lý Tầm Hoan nói: “Chỉ cần một giờ cũng đủ. Sau một giờ chúng ta sẽ gặp nhau ở đây.”
Không cần suy nghĩ, Ngu Nhị nói ngay: “Được, cứ như thế.”
Hắn không nói gì nữa, vẫy tay gọi đồng bọn đi ngay.
Hoàng y đồng tử cười hi hí: “Nửa giờ cũng chạy đủ xa rồi, sao phải chờ đến một giờ?”
Ngu Nhị nghiêm giọng: “Sau khi bước vào giang hồ, trước khi lui về ẩn dật, Tiểu Lý Thám Hoa đã giao chiến hơn ba trăm trận lớn nhỏ, chưa từng chạy trốn bao giờ.”
*
* *
Chúng đến đã mau, mà rút đi lại càng mau hơn nữa. Trong nháy mắt, những tiếng vòng bạc khua leng keng đã xa ngoài mười trượng.
A Phi đột nhiên nói: “Cái túi ấy nhất định không có trong tay huynh.”
Lý Tầm Hoan im lặng gật đầu.
A Phi lại hỏi: “Đã không có thì sao lại thừa nhận?”
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Dù ta nói không có, thì họ cũng không tin, sớm muộn gì rồi cũng phải đánh nhau. Vì thế ta đành phải nhận bừa cho đỡ phiền phức.”
A Phi lại hỏi: “Đã biết sớm muộn gì rồi cũng phải đánh nhau, thì còn phải hẹn lại làm gì?”
Lý Tầm Hoan nói: “Trong vòng một giờ, ta phải tìm ra một người.”
A Phi hỏi: “Người nào?”
Lý Tầm Hoan nói: “Kẻ lấy cắp cái túi đó!”
A Phi hỏi: “Huynh biết kẻ ấy là ai không?”
Lý Tầm Hoan nói: “Đêm qua nơi khách điếm có mặt ba người của Kim Sư Tiêu Cục. Gia Cát Lôi và Triệu lão nhị đã ch.ết, còn lại một người. Ta cần tìm người ấy.”
A Phi nghĩ ngợi một lúc rồi hỏi: “Tên đó lùn tịt, mặc áo da màu tím thêu hoa, lưng đeo nhuyễn tiên, bên mép tai có một chùm lông đen, có đúng không?”
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Ngươi chỉ nhìn thoáng qua hắn, không ngờ nhớ được tỉ mỉ đến thế!”
A Phi cũng cười: “Bộ dạng như hắn, chỉ nhìn bằng một mắt cũng đủ nhớ rồi.”
Lý Tầm Hoan nói: “Không sai! Ta muốn tìm con người đó. Hôm qua ở khách điếm, chỉ có hắn mới biết giá trị của cái túi ấy. Từ lúc đầu hắn đã cố ẩn nấp, rồi nhân lúc không ai để ý lén đoạt lấy. Hắn muốn đánh lạc hướng tr.a Mãnh, bèn đổ trách nhiệm ấy lên đầu Lý mỗ.”
A Phi trầm ngâm một lúc, chỉ “À” một tiếng.
Lý Tầm Hoan cười buồn, nói tiếp: “May mà đây không phải là lần đầu tiên ta bị người khác giá họa.”
A Phi nói: “tr.a Mãnh biết chúng ta đi theo đường này, chắc cũng do chính hắn báo tin?”
Lý Tầm Hoan gật đầu: “Không sai.”
A Phi nói: “Để tránh sự hoài nghi của tr.a Mãnh, có lẽ tạm thời hắn chưa dám trốn.”
Lý Tầm Hoan lại nói: “Không sai.”
A Phi nói: “Nhất định hắn đang ở một chỗ với bọn tr.a Mãnh. Chúng ta chỉ cần tìm được tr.a Mãnh là có thể tìm được hắn.”
Lý Tầm Hoan vỗ vỗ vai A Phi, cười: “Chỉ cần ba đến năm năm đi lại giang hồ, nhất định không còn ai qua mặt ngươi được. Nếu còn cơ hội gặp nhau, mong rằng chúng ta vẫn là bằng hữu.”
Họ Lý cười ha hả rồi tiếp: “Cũng vì ta thật sự không muốn có một địch thủ như ngươi.”
A Phi im lặng một chút, rồi nhìn chàng, hỏi: “Bây giờ huynh muốn ta đi ư?”
Lý Tầm Hoan nói: “Đây là việc của ta, không liên quan đến ngươi. Bọn chúng không thể tìm ra ngươi, tại sao ngươi lại không đi?”
A Phi hỏi: “Ngươi sợ liên lụy đến ta, hay là không muốn đi chung với ta?”
Ánh mắt Lý Tầm Hoan lộ vẻ đau khổ nhưng miệng vẫn cười tươi: “Thiên hạ không buổi tiệc nào không tàn, gặp nhau trước sau rồi cũng chia tay. Sớm muộn đôi ngày không thành vấn đề.”
Trầm ngâm một lúc, A Phi thò tay vào trong xe, rót đầy hai ly rượu: “Ta mời huynh thêm một ly nữa.”
Lý Tầm Hoan đón lấy ly rượu uống cạn một hơi, rồi cười: “Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu, dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu. Ha ha! Mời anh uống cạn chén này; nỗi sầu vạn cổ thả bay cuối trời.”
Ngừng một lát, chàng lại cười rồi gập mình xuống ho sặc sụa.
A Phi lặng nhìn Lý Tầm Hoan một lúc, rồi quay bước bỏ đi.
Lúc này, ở phía chân trời xa xa, tuyết lại lả tả rơi. Trong khoảnh khắc, trời đất thật là tĩnh mịch, nghe được cả tiếng hoa tuyết rơi xuống mặt đất.
Nhìn theo dáng thẳng tắp của gã thiếu niên từ từ khuất trong gió tuyết, nhìn theo hàng dấu chân cô độc dài dằng dặc đang mờ dần trên mặt tuyết, Lý Tầm Hoan rót đầy một ly rượu, nâng lên, khẽ thở dài, lẩm bẩm: “Tiểu bằng hữu, chúng ta hãy cạn thêm một ly nữa. Thật tình ta không muốn ngươi đi, nhưng tương lai của ngươi còn dài, đi theo ta chẳng có lợi gì. Con người Lý mỗ luôn gắn với rủi ro, phiền phức, nguy hiểm và bất hạnh. Tốt nhất là ta không nên kết bạn với người nào nữa.”
Dĩ nhiên A Phi không nghe được câu nói ấy của Lý Tầm Hoan.
Từ nãy đến giờ, gã đại hán râu xồm vẫn đứng như một tượng đá, tựa vào thành xe, không nói một lời. Tuyết rơi đầy đầu đầy mặt, gã cũng không buồn đưa tay phủi.
Lý Tầm Hoan uống cạn ly rượu rồi quay qua nhìn gã nói: “Ngươi ở đây đợi ta. Tốt nhất là nên chôn cất thi thể con rắn này cho tử tế. Một giờ sau, ta sẽ trở lại.”
Đại hán râu cúi đầu nói: “Ta biết Kim sư tr.a Mãnh thành danh nhờ vào chưởng lực mãnh liệt, nhưng chẳng qua chỉ có hư danh. Thiếu gia chỉ trong bốn mươi chiêu đã có thể lấy được thủ cấp của hắn.”
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Có thể không cần dùng đến mười chiêu.”
Đại hán râu lại hỏi: “Còn Ngu Nhị?”
Lý Tầm Hoan nói: “Khinh công của hắn không tồi, nghe đâu ám khí cũng rất ác độc, nhưng ta vẫn thừa sức đối phó.”
Đại hán râu nói: “Nghe nói môn hạ của Cực Lạc Động cũng có mấy thứ công phu tà môn. Vừa rồi chúng đã xuất thủ, quả nhiên chiêu số võ công rất khác ở Trung Nguyên...”
Lý Tầm Hoan mỉm cười, ngắt lời gã: “Ngươi cứ yên tâm! Số người đó không đủ làm ta phải bận tâm.”
Sắc mặt gã đại hán chợt trầm trọng, chậm rãi nói: “Thiếu gia đừng giấu, ta biết chuyến đi này hung hiểm lắm. Nếu không, nhất định thiếu gia sẽ không chia tay với gã A Phi ấy đâu!”
Lý Tầm Hoan chau mày: “Ngươi đã biến thành nhiều chuyện như thế từ lúc nào?”
Đại hán râu không nói gì nữa, đầu lại càng cúi thấp hơn. Khi gã ngẩng mặt lên thì Lý Tầm Hoan đã đi khuất vào rừng rậm, chỉ có tiếng ho còn vọng lại.
Tiếng ho kéo dài, lẫn trong tiếng gió tuyết nghe thật là não ruột.
Cuối cùng, tiếng gió tuyết át hẳn tiếng ho.
Đại hán râu đầm đìa nước mắt, gọi thầm đầy vẻ thê lương: “Thiếu gia! Chúng ta đang sống yên lành nơi quan ngoại, sao lại phải nhập quan để chịu đau khổ chứ? Mười năm qua, chẳng lẽ thiếu gia vẫn chưa thể quên được nàng hay sao? Còn muốn gặp nàng hay sao? Gặp nàng rồi có nói được câu nào chăng? Thiếu gia!... Sao thiếu gia lại khổ đến thế...”
Vừa vào đến rừng, Lý Tầm Hoan hoàn toàn thay đổi, từ một con người uể oải bần thần, đột nhiên trở nên nhẹ nhàng nhạy bén như một con chó săn. Tai, mắt, mũi, tay chân, mọi cơ bắp mọi giác quan đều vận dụng đầy hiệu quả trên đất tuyết, giữa các cành khô, thậm chí ở trên không trung. Chỉ cần có một chút xíu vết tích của địch nhân để lại, có một chút hơi hướm khác thường, là chàng tuyệt nhiên không bỏ qua. Hai mươi năm nay, không có một người nào trên thế gian có thể trốn tránh được khi chàng truy tìm. Hành động của chàng giống như một con thỏ, linh hoạt nhưng không gấp rút chút nào, cũng giống như một vũ công tuyệt đỉnh, bất kể tiết tấu nhanh đến mấy vẫn có thể duy trì động tác nhu hòa đẹp đẽ.
Mười năm về trước, chàng đã bỏ tất cả những gì đang có, thản nhiên đi ra quan ngoại. Lúc đó chàng đã từng đi qua nơi này, nhưng lúc đó đang là tiết xuân ấm áp, đất đầy hoa nở.
Chàng còn nhớ rõ, đâu đó quanh vùng này có một tửu điếm nho nhỏ, từ xa đã có thể nhìn thấy màn cửa màu xanh treo phía trên tửu điếm. Chàng cũng đã từng dừng xe lại đó, vào uống mấy cân rượu.
Rượu tuy không ngon lắm, nhưng vùng này non xanh nước biếc, vào tiết xuân thu hút khá nhiều người du ngoạn. Chàng đã thấy rất nhiều thanh niên nam nữ ăn mặc tươi đẹp đang ăn uống vui đùa, còn bản thân mình thì đang uống từng ngụm rượu đắng, từ đây cáo biệt bụi trần. Những ấn tượng này thật là vĩnh viễn không thể quên được.
Khi đó chàng không thể tưởng tượng nổi, sau mười năm trời mình lại trở về nơi đây. Con người chắc chắn cũng đã thay đổi nhiều, những thiếu nữ tóc bím năm nào, nay có thể đã xuất giá làm dâu nhà khác; những lứa đôi ân ái năm nào, nay có thể đã chôn vùi dưới huyệt sâu. Ngay cả những hoa cỏ ngày xưa, hôm nay cũng lấp trong băng tuyết. Nhưng chàng vẫn hy vọng, cái tửu điếm nho nhỏ vẫn còn ở đó.
Chàng hy vọng như thế, không phải vì muốn đến tìm lại những hồi ức năm nào, mà vì cho rằng bọn Kim sư tr.a Mãnh không chừng cũng ở trong tửu điếm đó.
Thế giới của băng tuyết dĩ nhiên có nhiều cái khác với thế giới mùa xuân. Lý Tầm Hoan đi trở lại con đường này, trong lòng không nén nổi, chợt thấy nhói lên.
Phú quí, sản nghiệp, quyền thế, danh dự, địa vị, đôi khi người ta dễ dàng bỏ được. Chỉ có ký ức, chỉ có ký ức chua xót như những xiềng xích ràng buộc, mới khiến người ta vĩnh viễn không thể nào quên.
Lý Tầm Hoan lấy trong bọc ra một bình rượu nhỏ, ngửa cổ uống cạn. Đợi cho cơn ho chấm dứt, chàng mới bước đi.
Cuối cùng, chàng đã nhìn thấy tửu điếm thấp thoáng xa xa. Đó là một căn nhà đơn sơ nằm dưới chân núi, chỉ có vài gian, xung quanh là hành lang tương đối rộng, lan can được sơn màu đỏ đậm, còn rèm cửa thì màu xanh bích.
Lý Tầm Hoan còn nhớ rõ, tiết xuân năm ấy, hoa dại nở đầy triền núi, rực rỡ và thơm ngát. Chàng đã dựa vào cái lan can màu đỏ đậm đó, ngắm hoa uống rượu. Trong cảnh sắc hữu tình như thế, rượu nhạt cũng trở thành rượu ngon. Nhưng bây giờ lớp sơn đỏ cũng tróc đi theo thời gian, còn triền núi chỉ một màu tuyết trắng.
Trên mặt tuyết còn in vài vết bánh xe cùng những dấu chân ngựa xen nhau. Sau nhà, thỉnh thoảng vọng lên tiếng ngựa hí vang hòa quyện cùng gió đông.
Lý Tầm Hoan biết mình đoán không sai. Nhất định bọn tr.a Mãnh đang dừng ở nơi đây, vì trong thời tiết này, nơi đây không thể có du khách nào khác.
Lý Tầm Hoan thận trọng hơn, tiến nhanh về phía tửu điếm. Bốn bề im lặng, trong tửu điếm cũng không có tiếng người. Thoáng chau mày, chàng lại vọt tới nhanh như tên bắn. Gần đến nơi, chàng phát giác tửu điếm tĩnh mịch khác thường. Không một động tĩnh gì, ngoài tiếng hí của ngựa.
Những tấm ván lót nơi hành lang cũng đã mục nát, Lý Tầm Hoan vừa đặt chân lên là nghe một tiếng “két”. Họ Lý giật mình, bắn người lui lại mười thước.
Nhưng trong tửu điếm vẫn lặng im.
Trầm ngâm giây lát, Lý Tầm Hoan nhẹ bước ra phía sau nhà, thầm nghĩ có lẽ bọn Kim sư tr.a Mãnh chưa về đến đây. Nhưng chàng lập tức nhìn thấy tr.a Mãnh. tr.a Mãnh đang trừng mắt nhìn chàng.
*
* *
Mắt của tr.a Mãnh hầu như lồi hết ra ngoài. Mặt hắn không còn một giọt máu, nhưng đầy vẻ dữ tợn khiến người ta phải sợ hãi. Hắn đang đứng dựa vào một cây trụ trước tàu ngựa.
Trong tàu, ngựa vẫn hí nho nhỏ, giậm vó nhè nhẹ xuống nền. tr.a Mãnh vẫn đứng yên, không nói một lời mà cũng không cử động, giống như một cục đất sét, như một pho tượng chưa được sơn phết.
Lý Tầm Hoan nhẹ thở một hơi: “Không ngờ...”
Chàng chỉ nói hai tiếng rồi im bặt, vì đã hiểu rằng tr.a Mãnh không thể nghe chàng nói, mà cũng không còn có thể nghe ai nói được nữa.
3 - Báu vật động lòng người
Lý Tầm Hoan nhìn qua một lượt, thấy yết hầu tr.a Mãnh thủng một lỗ. Người giết hắn có lẽ không muốn máu bắn ra lung tung, nên vừa rút kiếm ra thì đã ấn ngay vào đó một cục tuyết. Khi tuyết tan hết thì vết thương cũng đã đông máu lại rồi.
Thi thể tr.a Mãnh vẫn đứng thẳng, dựa vào trụ gỗ, không ngã xuống. Như vậy đủ thấy kiếm pháp của người giết hắn nhanh nhẹn vô tưởng, chỉ một kiếm là xuyên yết hầu, rồi lập tức rút kiếm ra, lực đạo vừa đủ không chút dư thừa, nên thi thể hắn vẫn còn đứng vững.
Có thể tr.a Mãnh cũng định chống cự, nhưng hắn chưa kịp động đậy thì đã bị đâm xuyên qua yết hầu, nên vẫn đứng thăng bằng ở đó.
Chiêu kiếm này nhanh quá!
Sắc mặt của Lý Tầm Hoan lộ vẻ kinh ngạc. Chàng biết Kim sư tr.a Mãnh thành danh đã hơn hai mươi năm nay, bôn tẩu giang hồ ít khi chịu lép vế.
Chiêu bài của Kim Sư Tiêu Cục cũng nổi tiếng là khó bắt nạt, đủ thấy tr.a Mãnh không phải là kẻ yếu. Nhưng lần này hắn không kịp phản kháng chút nào, chỉ một chiêu đã bị người ta xuyên thủng yết hầu.
Cho dù thay vào chỗ tr.a Mãnh là một người bằng gỗ, muốn một kiếm xuyên thủng yết hầu mà người gỗ không ngã ra, tuyệt nhiên không dễ dàng gì.
Lý Tầm Hoan xoay mình phóng vào tửu điếm. Trên cửa không buông rèm, bàn ghế chưa bày biện, hiển nhiên tửu điếm không buôn bán trong thời tiết như thế này.
Trong gian nhà rộng thênh thang, chỉ có một bàn bên cửa sổ là đã dọn thức ăn, nhưng chưa ai đụng đến, thậm chí ly rượu cũng còn nguyên chưa uống.
Bốn gã đồng tử đến từ Cực Lạc Động cũng đã biến thành bốn tử thi. Đầu tử thi hướng ra ngoài, chân hướng vào giữa phòng, thành hình chữ thập. Những chiếc lục lạc văng ra tứ tung bên cạnh, sắc mặt vẫn mang một nụ cười giả trá, yết hầu đều bị kiếm xuyên thủng.
Bên kia, Ngu Nhị ngã vào một góc cột, hai tay lão còn nắm cứng, hình như nắm đầy ám khí. Nhưng ám khí chưa kịp phóng ra thì đã bị kiếm xuyên thủng yết hầu.
Lý Tầm Hoan không rõ là kinh ngạc hay vui mừng, cứ lẩm bẩm: “Kiếm pháp nhanh quá! Kiếm pháp nhanh quá!”
Nếu là hai ngày trước, Lý Tầm Hoan không sao đoán nổi ai có thể sử kiếm nhanh như vậy. Năm xưa, Tuyết Ưng Tử ở Thiên Sơn xưng là đệ nhất kiếm khách, kiếm pháp tuy khinh khoái linh hoạt, nhưng không hiểm ác như thế này. Huống hồ, từ sau trận giao chiến ở thung lũng Ưng Sầu, vị kiếm khách tuyệt thế này đã gác kiếm qui ẩn. Đến nay không chừng xương cốt lão đã chôn vùi trên đỉnh núi Thiên Sơn, ngàn năm băng tuyết không tan.
Gần hơn, những danh hiệp tung hoành thiên hạ như Trầm Lãng, Hùng Miêu Nhi, Vương Lân Hoa... đã cùng biệt tích giang hồ. Nghe nói họ đã đóng thuyền ra biển để tìm một vị tiên sinh nơi hải ngoại. Huống hồ, những vị này đều không dùng kiếm.
Ngoài họ ra, Lý Tầm Hoan chưa biết kẻ nào có thể sử kiếm nhanh như thế. Nhưng bây giờ, chàng đã biết một người.
Đó là thiếu niên A Phi cô độc, vừa thần bí vừa u uất.
Lý Tầm Hoan nhắm mắt lại, hình dung lại khung cảnh ban nãy. A Phi uể oải đi vào tửu điếm, bọn hộ pháp Đồng Tử của Cực Lạc Động lập tức xông ra bao vây lấy gã.
Nhưng bọn chúng vừa rút lục lạc ra thì lưỡi kiếm của A Phi đã nhanh như điện xẹt, độc như rắn mổ, xuyên thủng yết hầu của bọn chúng, những nụ cười nham hiểm trên mặt còn chưa kịp tắt.
Ngu Nhị ở góc phòng bên kia muốn phóng ám khí. Hắn nổi tiếng về khinh công và ám khí, tất nhiên tay chân mau lẹ. Nhưng tay mới móc ám khí ra chưa kịp phóng, thì A Phi đã vọt đến, đâm lưỡi kiếm qua yết hầu.
Lý Tầm Hoan thở dài, nhẹ nói: “Đồ chơi ư? Thế mà có người nói thanh kiếm của hắn là một món đồ chơi.”
Lý Tầm Hoan đột nhiên phát hiện trên cột có mấy dòng chữ khắc bằng kiếm: “Huynh đã giúp ta giết Gia Cát Lôi, nên ta giúp huynh giết bọn người này. Ta không muốn nợ ngươi, vì ta nghĩ con người không nên mắc nợ.”
Xem đến đây, Lý Tầm Hoan không nén được, cười khổ, nghĩ thầm: “Ta giúp ngươi giết một người, ngươi giúp ta giết đến sáu mạng. Ngươi cũng biết con người không nên mắc nợ, thì sao lại để ta nợ ngươi?”.
Nhưng họ Lý lại đọc xuống dưới: “Ta giúp huynh giết bọn này, tuy số lượng đông hơn nhưng chất lượng có khác. Trường hợp huynh giết người có thể đổi ngang sáu người này, cho nên huynh không nợ ta. Ta cũng không muốn người khác nợ ta.”
Lý Tầm Hoan phá lên cười, nghĩ: “Tiểu bằng hữu tính toán nợ nần chưa được tinh vi, xem ra không thể buôn bán phát tài.”
Chữ trên cột chỉ có mấy hàng đó, nhưng bên dưới còn có khắc một mũi tên.
Theo hướng mũi tên chỉ, Lý Tầm Hoan đi qua một khung cửa. Bỗng chàng chợt nghe một tiếng la kinh hãi.
Rồi chàng thấy một thanh kiếm sáng ngời, mũi kiếm chỉ thẳng vào mặt mình. Mũi kiếm đang rung nhè nhẹ.
Người cầm kiếm là một lão già mập mạp, râu tuy chưa bạc, nhưng nếp nhăn trên mặt rất nhiều, có lẽ đã khá cao tuổi.
Hai tay lão cầm chặt thanh kiếm, lớn tiếng hỏi: “Ngươi... ngươi là ai?”
Tuy lão cố gắng nói lớn nhưng giọng vẫn run rẩy.
Lý Tầm Hoan đột nhiên nhận ra lão, mỉm cười hỏi lại: “Lão không nhận ra ta ư?”
Lão lắc đầu.
Lý Tầm Hoan tiếp: “Ta nhận ra lão. Lão là chủ nhân tửu quán này. Mười năm trước, lão đã uống với ta mấy chén rượu!”
Mắt lão già bớt vẻ cảnh giác nhưng hai tay vẫn giữ chặt chuôi kiếm, hỏi tiếp: “Xin hỏi quí tính của khách quan.”
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Ta họ Lý!”
Lão thở một hơi dài, buông kiếm rớt xuống đất nghe “cạch” một tiếng, mặt mũi tươi tỉnh hẳn lên: “Thì ra là Lý Thám Hoa! Lão phu đã đợi các hạ ở đây hơn nửa ngày.”
Lý Tầm Hoan hỏi lại: “Đợi ta ư?”
Lão chủ quán gật đầu: “Vừa rồi có một vị công tử anh hùng đã giết khá nhiều ác nhân, nhưng còn chừa lại một tên, giao cho lão phu canh giữ, có bảo rằng Lý Thám Hoa lát nữa sẽ đến. Công tử đó dặn lão phu giao tên ấy cho Lý Thám Hoa, nếu có gì sơ xuất thì sẽ lấy mạng lão phu.”
Lý Tầm Hoan hỏi gấp: “Tên ấy đâu?”
Lão chủ quán đáp: “Dưới bếp!”
*
* *
Nhà bếp không nhỏ lắm nhưng thu dọn rất sạch sẽ, quả nhiên có một người đang bị trói ngược vào ghế. Hắn rất nhỏ con, cạnh tai có một chùm lông màu đen.
Lý Tầm Hoan thì đã sớm biết A Phi giữ lại tên này để mình tr.a hỏi, nhưng tên này lại không ngờ gặp Lý Tầm Hoan. Ánh mắt hắn lộ rõ vẻ kinh hãi, cơ bắp nơi khóe miệng không ngừng giần giật, không nói nên lời. Thì ra A Phi không những trói mà còn nhét giẻ vào miệng hắn.
Có lẽ A Phi sợ hắn dùng lời lẽ dụ dỗ hay uy hϊế͙p͙ lão chủ quán nên mới nhét giẻ vào miệng. Lý Tầm Hoan càng cảm thấy thiếu niên này rất cẩn thận. Nhưng sao A Phi lại không điểm huyệt hắn?
Ngọn tiểu đao trên tay Lý Tầm Hoan lấp loáng. Tay chàng cử động chỉ để lấy giẻ trong họng hắn ra, nhưng hắn hoảng sợ đến ngất đi.
Hắn định mở miệng xin tha ch.ết, nhưng quai hàm đã tê liệt, một chữ cũng không nói ra được.
Lý Tầm Hoan không thúc giục hắn, thong thả ngồi xuống ghế đối diện, rồi nhờ lão chủ quán dọn rượu thịt trên bàn ngoài kia vào trong bếp. Lý Tầm Hoan từ từ rót một chén, uống cạn rồi mỉm cười hỏi: “Xin hỏi quí tính.”
Sắc mặt hắn vàng khè, đưa cái lưỡi khô cằn ɭϊếʍƈ quanh đôi môi rồi mới mở miệng nói: “Tại hạ là Hồng Hán Dân.”
Lý Tầm Hoan nói: “Ta đã thấy ngươi uống rượu. Dùng một ly nhé?”
Lý Tầm Hoan cắt đứt dây trói, rót một ly rượu đưa cho hắn. Hắn cả kinh, mắt trợn lên, dùng sức xoa bóp hai cánh tay vừa bị trói chặt đến tê cứng, chưa dám đưa tay đón lấy ly rượu, nhưng cũng chưa dám từ chối.
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Nếu có người mời ta uống rượu, nhất định ta không cự tuyệt.”
Hồng Hán Dân không còn cách nào khác, đành nhận lấy. Tay hắn run rẩy, chỉ uống được phân nửa, còn một nửa làm đổ lên áo.
Lý Tầm Hoan thở ra, nhẹ nhàng nói: “Đáng tiếc, đáng tiếc. Ngươi hãy bắt chước ta, tìm một con dao nhỏ để tập khắc gỗ, sẽ hết run tay ngay. Điêu khắc có thể làm cho bàn tay ổn định không run, đó là bí quyết của ta.”
Rót thêm hai chén rượu nữa, Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Giai nhân không thể đường đột, rượu ngon không thể bỏ phí. Hai việc này nhất định ngươi nên nhớ kỹ.”
Hồng Hán Dân dùng cả hai tay bưng ly rượu, sợ rượu lại sóng ra ngoài, nên vội chúi đầu tới, kề miệng uống cạn.
Lý Tầm Hoan nói: “Tốt lắm! Những điều khác trong cuộc đời ta đều không nên học, chỉ có hai điều này đáng học, bây giờ đã nói cho ngươi biết hết. Ngươi phải làm gì để cảm tạ ta chứ?”
Hồng Hán Dân lắp bắp: “Tại hạ... tại hạ...”
Lý Tầm Hoan nói: “Ngươi không cần phải làm gì nhiều, chỉ cần trao lại cái túi ấy là ta vừa ý rồi.”
Hai tay Hồng Hán Dân run lẩy bẩy, rất may là ly không còn rượu.
Hít một hơi rất dài, hắn hỏi lại: “Cái túi nào?”
Lý Tầm Hoan nheo mắt: “Ngươi không biết ư?”
Hồng Hán Dân cố hết sức hé môi mỉm cười: “Tại hạ quả thật không biết!”
Lý Tầm Hoan lắc đầu than thở: “Ta cứ tưởng những kẻ thích uống rượu đều khẳng khái ngay thẳng, nhưng ngươi... ngươi thật làm ta thất vọng.”
Hồng Hán Dân cười nói: “Lý... Lý... Lý đại hiệp có lẽ đã hiểu nhầm. Tại hạ quả thật...”
Lý Tầm Hoan đột nhiên trầm giọng: “Ngươi đã uống rượu của ta mà lại dối ta. Hãy mau đem rượu trả lại cho ta.”
Hồng Hán Dân vội đáp: “Vâng, vâng... Tại hạ đi mua ngay.”
Lý Tầm Hoan lắc đầu: “Ta chỉ cần hai ly rượu ngươi vừa uống. Ta không cần ngươi mua rượu khác.”
Hồng Hán Dân chững lại, lấy tay áo gạt mồ hôi, nhỏ giọng hỏi: “Nhưng... nhưng rượu đã uống rồi thì làm sao trả lại?”
Lý Tầm Hoan điềm nhiên: “Dễ lắm.”
Ánh dao nhoáng lên, mũi tiểu đao ấn ngay giữa ngực Hồng Hán Dân.
Lý Tầm Hoan lãnh đạm nói: “Rượu còn trong bụng ngươi. Ta chỉ cần mổ bụng ngươi là lấy được.”
Hồng Hán Dân tái mặt, nhưng cố gượng cười: “Lý đại hiệp hà tất phải đùa giỡn với tiểu nhân như thế.”
Lý Tầm Hoan hỏi: “Ngươi tưởng ta đùa giỡn ư?”
Lý Tầm Hoan nhẹ nhàng ấn mũi dao xuống, chỉ muốn làm hắn rách một chút da, chảy một chút máu.
Chỉ có kẻ hèn nhát mới nói dối, nhưng khi kẻ hèn nhát thấy máu mình đổ ra, thì chắc chắn sẽ sợ hãi mà nói ra sự thật. Đạo lý này không ai hiểu rõ hơn Lý Tầm Hoan.
Nhưng chàng có cảm giác mũi dao chạm vào ngực Hồng Hán Dân như chạm vào đá. Gương mặt hắn vẫn cười giả trá, tựa như không có cảm giác gì cả.
Lý Tầm Hoan chớp chớp mắt, dừng tay lại. Không ngờ con quỉ nhát gan này lại đao thương chém không vào.
Thế mà Lý Tầm Hoan không chút kinh ngạc. Ngược lại, chàng mỉm cười hỏi: “Ngươi vào chốn giang hồ chắc cũng đã lâu?”
Hồng Hán Dân không hiểu vì sao chàng đột ngột hỏi câu này. Hắn hơi sửng sốt, rồi nói: “Đã hai mươi năm rồi!”
Lý Tầm Hoan nói: “Vậy chắc ngươi biết, trong giang hồ có những bảo vật rất thần kỳ. Tuy ít người mắt thấy, nhưng đã đồn đãi nhiều năm, trong đó có một cái chính là...”
Mắt Lý Tầm Hoan nhìn thẳng vào Hồng Hán Dân, nói từng chữ một: “... chính là Kim Ty Giáp. Nghe nói vật này đao chém không vào, lửa đốt không cháy. Ngươi ở trên giang hồ đã hai mươi năm, chắc đã từng nghe qua.”
Sắc mặt Hồng Hán Dân trở nên trắng bệch như tấm khăn trải bàn, nhổm dậy lao mình ra cửa.
Thân pháp của hắn không chậm, vừa nhoáng lên một cái đã ra đến cửa, nhưng Lý Tầm Hoan đã chặn sẵn ngoài cửa rồi.
Hồng Hán Dân nghiến răng, xoay người rút cây Liễn Tử Thương sáng loáng ra. Ánh bạc nhấp nhoáng, sợi xích trên cây thương này như con độc xà, lao đến Lý Tầm Hoan.
Xem ra hắn đã luyện Liễn Tử Thương tối thiểu cũng hai ba chục năm. Sợi xích mềm mại được kình lực biến thành thẳng tắp, rít gió vù vù phóng thẳng vào yết hầu của Lý Tầm Hoan.
Chỉ nghe “coong” một tiếng, chén rượu trong tay Lý Tầm Hoan đã đón lấy mũi thương đâm đến.
Không hiểu sao, mũi thương không làm ly rượu bể nát.
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Sau này nếu có người khuyên ta bỏ rượu, nhất định ta sẽ nói cho họ biết uống rượu có nhiều ích lợi. Chén rượu cũng có thể cứu mạng ta.”
Hồng Hán Dân đứng sững như tượng đá, mồ hôi đổ ra như mưa.
Lý Tầm Hoan tiếp: “Nếu không muốn đánh nhau, ngươi hãy cởi Kim Ty Giáp ra để trả tiền rượu. Như vậy cũng tạm trả được món nợ hai ly rượu khi nãy.”
Hồng Hán Dân run giọng: “Các hạ... các hạ thật sự cần...”
Lý Tầm Hoan ngắt lời: “Ta không cần vật đó. Ngươi có thể thừa lúc không ai chú ý mà đánh cắp đồ vật, đó là bản lãnh của ngươi. Nhưng ngươi không nên nói với kẻ khác là ta lấy. Ta không thích bị vu oan.”
Hồng Hán Dân đáp: “Không sai, tiểu nhân đã lấy cái túi ấy. Trong túi ấy đích thị là Kim Ty Giáp. Nhưng... nhưng...”
Hắn không nói được nữa, nước mắt chực trào ra...
Lý Tầm Hoan nói: “Kim Ty Giáp là vật chí bảo phòng thân, nhưng ngươi đoạt nó để làm chi? Cho dù ngươi có mặc mười bộ Kim Ty Giáp, một dao của ta cũng lấy được mạng ngươi. Ngươi hà tất phải vì nó mà mất mạng!”
Chàng thở dài rồi tiếp: “Những bảo vật trên thế gian, chỉ người có đức mới nên giữ. Loại người như ngươi không nên giữ những vật thế này. Ngươi nên đem nó tặng cho ta, còn có thể sống thêm vài năm nữa.”
Hồng Hán Dân hạ giọng: “Tiểu nhân cũng biết mình không xứng với vật ấy, nên cũng chưa bao giờ muốn chiếm làm của riêng...”
Lý Tầm Hoan hỏi: “Chẳng lẽ ngươi muốn đem nó tặng cho người khác? Ai thế?”
Hồng Hán Dân cắn răng, môi rướm máu.
Lý Tầm Hoan điềm nhiên: “Ta rất có nhiều cách buộc người ta phải nói thật, nhưng ta vốn không thích dùng. Hy vọng ngươi không buộc ta phải dùng đến.”
Cuối cùng, Hồng Hán Dân thở ra: “Được. Ta nói.”
Lý Tầm Hoan gật đầu: “Tốt nhất là ngươi nên nói từ đầu.”
Trầm ngâm giây lát, Hồng Hán Dân nói: “Lý đại hiệp có biết một tên siêu trộm tên Đái Ngũ hay không? Cái loại đạo chích thấp kém ấy, có lẽ Lý đại hiệp không biết đâu.”
Lý Tầm Hoan cười: “Chẳng những ta biết tên mà còn biết mặt hắn. Người đó khinh công rất giỏi, bản lãnh ăn trộm cũng rất khá, hơn nữa, tửu lượng cũng không tồi.”
Hồng Hán Dân nói: “Bộ Kim Ty Giáp này vốn là của hắn, không hiểu đã đánh cắp từ đâu.”
Lý Tầm Hoan hỏi: “Thế sao nó lại lọt vào tay bọn ngươi?”
Hồng Hán Dân đáp: “Hắn và Gia Cát Lôi vốn là bạn cũ. Bọn tiểu nhân gặp hắn trong một quán rượu ở Trương Gia Khẩu. Khi say túy lúy, hắn đem Kim Ty Giáp ra khoe. Gia Cát Lôi nhìn thấy thì đỏ mắt, thế rồi... thế rồi...”
Lý Tầm Hoan trầm mặt xuống: “Các ngươi đã làm chuyện không quang minh chính đại, lại còn dám trách người khác ư?”
Hồng Hán Dân cúi mặt thở dài: “Đái Ngũ chắc chắn phải biết Kim Ty Giáp là vật mà cả giang hồ muốn đoạt lấy. Hắn đã mặc cái áo ấy thì đáng lý không nên uống rượu.”
Lý Tầm Hoan lạnh lẽo nói: “Không phải là hắn không nên uống rượu, mà đúng ra là không nên giao kết với loại bằng hữu như các ngươi.”
Vì hổ thẹn, da mặt của Hồng Hán Dân từ trắng xanh hơi đỏ dần lên.
Lý Tầm Hoan tiếp: “Kim Ty Giáp tuy được gọi là một trong Võ Lâm Tam Bảo nhưng thực ra cũng không có lợi ích gì mấy, chỉ trừ lúc hai cao thủ võ công xấp xỉ nhau giao tranh. Tất cả những người đoạt được nó đều khó tránh khỏi mất mạng. Ta không biết tại sao nó lại hấp dẫn mọi người như thế, chắc phải còn một nguyên do khác nữa.”
Hồng Hán Dân nói: “Không sai, trong đó còn có một bí mật. Nhưng bây giờ thì bí mật này không còn là bí mật nữa rồi, bởi vì...”
Hắn vừa nói đến đây thì lão chủ quán đã bưng vào hai hũ rượu, tươi cười: “Rượu mới hâm, xin Thám Hoa đại nhân uống một chén cho nóng rồi hãy chuyện trò.”
Lý Tầm Hoan cười buồn: “Nếu lão muốn sau này ta còn ghé tới, thì hãy bỏ lối xưng hô ấy đi. Nghe đến bốn tiếng Thám Hoa Đại Nhân đó là ta nuốt rượu không trôi.”
Cái ly hãy còn nằm trong tay Lý Tầm Hoan, lão rót đầy vào. Hương rượu xông phưng phức lên mũi, sắc mặt Lý Tầm Hoan tươi hẳn lên.
Lý Tầm Hoan cười: “Rượu ngon!”
Chàng ngửa cổ uống cạn, rồi lại gập mình xuống ho sù sụ.
Lão chủ quán thở dài, kéo một chiếc ghế lại, dìu Lý Tầm Hoan ngồi xuống: “Ho hen rất thương tổn đến thân thể, Thám Hoa phải cẩn thận hơn.”
Lão chợt mỉm cười, nói tiếp: “Rượu này chuyên trị ho hen, quí khách uống vào đảm bảo sẽ không còn ho nữa.”
Lý Tầm Hoan cười: “Rượu mà có thể trị ho thì quả là thập toàn thập mỹ. Lão cũng nên uống một ly.”
Lão chủ quán lắc đầu: “Lão phu không uống.”
Lý Tầm Hoan nhướng mắt, hỏi: “Tại sao? Người bán sủi cảo thà ăn màn thầu chứ không muốn ăn sủi cảo, chẳng lẽ người bán rượu cũng chỉ muốn uống nước chứ không uống rượu hay sao?”
Lão chủ quán đáp: “Bình thường thì lão phu cũng uống mấy ly, nhưng rượu trong hũ này thì lão phu không thể uống!”
Ánh mắt lờ đờ của lão ta đột nhiên trở nên sắc bén, gian xảo.
Lý Tầm Hoan không lưu ý, chỉ mỉm cười hỏi: “Sao thế?”
Lão chủ quán nhìn vào ngọn tiểu đao trên tay Lý Tầm Hoan, từ tốn nói: “Bởi vì nếu lão phu uống chén rượu này, chỉ cần vận động chân lực là chất độc sẽ bộc phát, thất khiếu ứa máu mà ch.ết.”
Lý Tầm Hoan há hốc miệng, cứng họng, cực kỳ sửng sốt.
Hồng Hán Dân vừa sợ vừa mừng: “Không ngờ lão trượng lại giúp ta. Sau này nhất định Hồng mỗ sẽ hậu tạ.”
Lão chủ cười nhạt: “Ngươi không cần cảm ơn ta.”
Hồng Hán Dân hơi biến sắc nhưng vẫn cười nói: “Tiền bối thật là chân nhân bất lộ tướng, chẳng lẽ cũng muốn...”
Miệng hắn vẫn nói nhưng tay đã vung ra ngọn Liễn Tử Thương.
Lão chủ quán nổi giận quát lên một tiếng, thân hình gầy còm tự nhiên cao lên một thước, tay trái vừa lật ra đã nắm được ngọn thương, lớn tiếng quát: “Cái thứ như ngươi mà cũng dám động thủ với lão gia hay sao?”
Lão già nhát gan chỉ trong nháy mắt đã biến thành con người khác, ngay cả sắc mặt cũng đổi thành đỏ tía, ẩn hiện ánh hồng quang.
Hồng Hán Dân nhìn thấy sắc diện kỳ lạ đó, chợt nhớ ra một người, kinh hãi la lên: “Tiền bối tha mạng... Tiểu nhân không biết tiền bối là...”
Đã trễ mất rồi. Quyền bên phải của lão chủ quán đã phóng ra, nghe “bình” một tiếng là thân hình Hồng Hán Dân bay ra ngoài, sợi xích trên tay cũng bị đứt đôi. Thân thể hắn va vào tường, rớt vào cái chảo đang để trên bếp.
Thần lực của phát quyền này thật sự kinh người.
Lý Tầm Hoan thở một hơi, khẽ lắc đầu: “Ta đã nói trước rồi. Ngươi mà có Kim Ty Giáp thì sẽ ch.ết sớm hơn.”
Lão chủ vứt nửa cây Liễn Tử Thương xuống đất, nhìn vào thi thể Hồng Hán Dân một cách xuất thần, từng nếp nhăn trên mặt hiện ra rõ mồn một, chậm rãi nói: “Đã hai mươi năm, ta không giết người.”
Rồi lão chớp mắt, nói tiếp: “Nhưng ta chưa quên cách giết người, phải không?”
Lý Tầm Hoan hỏi lại: “Ngươi vì những chuyện này mà giết người, thì có đáng không?”
Lão đáp: “Hai mươi năm trước, ta có thể giết người không vì chuyện gì cả!”
Lý Tầm Hoan nói: “Nhưng đến nay thì đã hai mươi năm rồi. Ngươi lánh mặt được suốt hai mươi năm kể cũng không phải là dễ, bây giờ nếu vì một chuyện như thế mà lộ mặt thì có đáng chăng ?”
Sắc mặt lão già hơi biến đổi, nói: “Thì ra ngươi đã biết ta là ai rồi.”
Lý Tầm Hoan cười: “Tử diện nhị lang Tôn Đạt hai mươi năm trước vốn là một nhân vật khét tiếng, cả gan dám dắt vợ của Dương Đại Hồ Tử, thủ lãnh bảy mươi hai bến bãi chạy trốn. Dũng khí đó đã làm ta thán phục.”
Lão giận dữ nói: “Lúc này ngươi vẫn còn dám ăn nói bừa bãi ư?”
Lý Tầm Hoan vẫn điềm nhiên: “Ngươi đừng nghĩ rằng ta đang trào phúng ngươi. Một nam nhân dám liều mạng trốn đi cùng nữ nhân mình yêu, mặc cho thiên hạ phỉ báng, thậm chí hy sinh tất cả không tiếc rẻ. Một nam nhân như thế tối thiểu cũng không thẹn là nam nhân, ta bội phục là phải. Nhưng bây giờ...”
Chàng lắc đầu, thở dài nói tiếp: “Bây giờ ta thật thất vọng. Bởi vì ta không ngờ Tử Diện Nhị Lang lại là một kẻ tiểu nhân co đầu rút cổ, chỉ dám âm thầm hạ độc, không dám dùng bản lãnh chân thực để quyết thắng bại với kẻ khác.”
Tôn Đạt nhìn Lý Tầm Hoan đầy phẫn nộ, nhưng chưa kịp nói gì thì đột nhiên có tiếng cười vang lên: “Ngươi nói như thế cũng là tâng bốc lão rồi. Muốn hạ độc thì cũng cần phải có học vấn, hắn chưa có bản lãnh đến thế.”
Đây là thanh âm của một nữ nhân, nghe thật êm tai.
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Không sai. Đáng lẽ ta phải sớm nhận ra đây là thủ đoạn của Tường Vi phu nhân. Lý Tầm Hoan được ch.ết dưới tay của người đẹp nổi tiếng giang hồ hai mươi năm trước, tính mạng cũng không uổng phí lắm.”
Tiếng cười hích hích đáp lại: “Cái miệng ngươi quả là biết nói chuyện. Nếu hai mươi năm về trước mà ta gặp ngươi, thì chắc không trốn theo hắn đâu.”
Trong tiếng cười, cô nàng yểu điệu bước ra. Hai mươi năm đã trôi qua, nhưng nàng cũng chưa già lắm. Đôi mắt hãy còn đầy nét phong tình, hàm răng vẫn còn trắng đẹp, nhưng vòng eo của nàng...
Nàng không còn eo nữa, thân hình giống như một cái thùng không lớn lắm, tàm tạm chứa đủ nước để tưới hai mẫu ruộng.
Lý Tầm Hoan nghẹn họng, tựa như đang cố nuốt chửng một quả trứng gà. Đây mà là Tường Vi phu nhân ư? Thật khó mà tin được.
Mỹ nhân tàn phai nhan sắc theo thời gian, vốn là một điều khiến người ta vừa nuối tiếc vừa thương cảm. Nhưng cựu mỹ nhân không biết mình không còn là gái đôi mươi nữa, cố gắng dùng dây cột siết lại những lớp mỡ dư thừa trên người, dùng phấn son để san lấp những nếp nhăn, thì không làm cho người ta thương cảm, mà làm cho người ta phì cười.
Đạo lý đó rất rõ ràng, nhưng thật kỳ lạ là phần đông nữ nhân trên đời không hề biết đạo lý ấy, đúng hơn là cố tình không muốn biết.
Tường Vi phu nhân khoác một áo da màu đỏ, tóc búi cao hình chữ vạn, từ xa đã ngửi thấy mùi nước hoa thơm nồng nặc.
Bà ta nhìn Lý Tầm Hoan, duyên dáng cười: “Thám Hoa thật phong lưu, quả là danh bất hư truyền. Đã hai mươi năm trời, ta chưa gặp được một nam nhân nào có thần khí như thế. Hai mươi năm trước...”
Bà ta thở dài nói tiếp: “Hai mươi năm trước nhà ta lúc nào cũng đầy khách. Những thiếu niên anh hùng, những kiếm khách phong lưu, không ai không muốn đến thăm ta. Chỉ cần trò chuyện với ta hai câu, nhìn ngắm ta một phút, thì họ cảm thấy giống như được ăn nhân sâm, vui lòng bỏ mạng. Ngươi không tin thì có thể hỏi lão.”
Tôn Đạt trầm mặt xuống, quyết định không nói câu nào.
Lý Tầm Hoan nhìn vào cổ Tường Vi phu nhân mà cứ tưởng đang nhìn một miếng mỡ treo lơ lửng ở bụi tường vi, rồi nhìn Tôn Đạt, khẽ thở dài.
Chàng cảm thấy cuộc sống hai mươi năm qua của lão thật khó mà chịu đựng. Tường Vi phu nhân cũng thở dài: “Hai mươi năm nay ta buồn bã vô hạn, trốn trong nhà không dám gặp ai. Ta thật hối hận, không hiểu tại sao lại theo một gã đàn ông vô dụng mà chạy trốn.”
Tôn Đạt không dằn được, cũng thở dài một tiếng, chậm rãi nói: “Ai không hối hận thì người đó là một con rùa!”
Tường Vi phu nhân quắc mắt nói: “Ngươi đang nói gì đó? Ngươi nói... Lão nương bỏ chốn lầu hoa tươi đẹp để theo ngươi tới chỗ khỉ ho cò gáy này chịu khổ, một mỹ nhân như hoa như ngọc đã vì ngươi mà dáng vẻ trở thành thế này, ngươi có gì hối hận? Ngươi nói đi, nói đi!”
Mũi Tôn Đạt thở hổn hển, miệng ngậm chặt không nói tiếng nào.
Tường Vi phu nhân nói tiếp: “Thám Hoa nghĩ mà xem. Hạng nam nhân như hắn thật vô lương tâm, nếu biết hắn trở thành như thế này thì hồi đó ta ch.ết đi còn hay hơn.”
Bà ta cố gắng dùng tay dụi mắt, nhưng một chút nước mắt cũng không có.
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Cũng may phu nhân không ch.ết, nếu không tại hạ phải hối hận suốt đời.”
Tường Vi phu nhân lại cười duyên: “Thật đấy à? Ngươi quả thật muốn gặp ta đến thế ư?”
Lý Tầm Hoan cười: “Đương nhiên là thật! Một mỹ nhân mập mạp như phu nhân, thì thế gian này làm sao tìm được người thứ hai kia chứ?”
Sắc mặt Tường Vi phu nhân tức giận đến trắng bệch lại. Lão Tôn nén không được, cười phì ra.
Lý Tầm Hoan thản nhiên nói tiếp: “Thật ra, phu nhân đoạt lấy Kim Ty Giáp cũng vô dụng, chẳng dùng được. Giả tỉ phu nhân có tự chẻ người làm đôi thì cũng không thể tròng nó vào được.”
Tường Vi phu nhân nghiến răng nói: “Nếu ta để ngươi ch.ết quá nhẹ nhàng thì thật là có lỗi với trời đất.”
Bà với tay lên búi tóc, rút ra một cây trâm rất nhỏ, rất nhọn, nghiến răng bước tới chỗ Lý Tầm Hoan.
Lý Tầm Hoan vẫn ngồi im, bất động như núi Thái Sơn.
Tôn Đạt chau mày: “Đoạt được Kim Ty Giáp rồi, chúng ta nên tính chuyện khác. Hà tất phải sinh sự với hắn.”
Tường Vi phu nhân hét lên: “Chuyện của lão nương, không cần ngươi xía vào!”
Lý Tầm Hoan không động đậy, chỉ trừng mắt nhìn.
Tường Vi phu nhân đến trước mặt Lý Tầm Hoan, đang định dùng cây trâm đó đâm mù mắt chàng, thì Tôn Đạt từ phía sau đã phóng lên, tung một cước đá bà ta văng tới mái nhà.
Mái nhà bị thân thể của bà ta chạm vào, rung chuyển như vừa nhận một đòn nặng ngàn cân, bụi bay mù mịt. Đến khi bà ta rớt xuống đất thì đã tắt hơi rồi.
*
* *
Lý Tầm Hoan kinh ngạc hỏi: “Tại sao ngươi lại giết mụ để cứu ta?”
Tôn Đạt vẫn còn giận dữ, đáp: “Suốt hai mươi năm nay, ta đã nhịn đủ rồi. Nếu không giết mụ, có lẽ trong vòng nửa năm ta sẽ bị mụ bức tử.”
Lý Tầm Hoan nói: “Nhưng chuyện này là do ngươi cam tâm tình nguyện mà? Chẳng lẽ ngươi đã quên chuyện hai mươi năm về trước...”
Tôn Đạt nhướng mắt: “Ngươi tưởng ta dụ dỗ mụ ư? Ngươi tưởng là ta dẫn mụ chạy trốn hay sao?”
Lý Tầm Hoan hỏi: “Chẳng lẽ không phải ư?”
Tôn Đạt thở dài: “Khi ta gặp mụ, ta không biết mụ là vợ Dương Đại Hồ Tử, cho nên mới cùng mụ...”
Lão ho hắng mấy tiếng rồi nói tiếp: “Ta đâu có biết mụ ta muốn lợi dụng ta, nhất định phải theo ta đi. Lúc đó, Dương Đại Hồ Tử kéo hai ba chục cao thủ đến, ta không chạy cũng không được.”
Lý Tầm Hoan nói: “Ít ra thì bà ta cũng thích ngươi. Nếu không thì tại sao bà ta phải làm như thế”
Tôn Đạt hừ một tiếng thật lớn: “Thích ta ư?...”
Hắn cắn răng, cười lạnh nhạt nói: “Sau này ta mới biết, ta chỉ là một người thế mạng mà thôi. Té ra, thừa cơ hội Dương Đại Hồ Tử xuất quan, mụ đã lén lút đi lại với một tên mặt trắng, hơn nữa lại sắp có con. Mụ sợ khi Dương Đại Hồ Tử trở về sẽ không thể giải thích được, bèn thu xếp hành trang, định cùng tên mặt trắng đó trốn chạy.”
Lý Tầm Hoan gật đầu: “Thì ra bên trong có những uẩn khúc ly kỳ đến thế.”
Tôn Đạt nói: “Nào ngờ thằng mặt trắng đó đã đánh cắp hơn phân nửa số châu báu của mụ lấy ở chỗ Dương Đại Hồ Tử. Mụ mất mát cả thân xác lẫn tiền tài, trong lúc không biết xoay xở thế nào thì gặp được một thằng xúi quẩy là ta đây.”
Lý Tầm Hoan cười: “Ngươi đã biết nội tình, tại sao không giải thích với mọi người?”
Tôn Đạt cười buồn: “Về sau khi say rượu, mụ ta mới tiết lộ chuyện này. Bấy giờ gạo đã nấu thành cơm, có muốn giải thích cũng hết kịp rồi.”
Lý Tầm Hoan hỏi: “Thế còn đứa trẻ ấy đâu?”
Tôn Đạt ngậm miệng không nói.
Lý Tầm Hoan thở dài hỏi tiếp: “Đã thế thì ngươi phải sớm giết mụ, sao phải đợi đến giờ?”
Tôn Đạt vẫn câm lặng.
Lý Tầm Hoan lại hỏi: “Dù sao ta cũng sắp ch.ết, ngươi nói với ta thì có sao đâu?”
Trầm ngâm một lúc, Tôn Đạt mới chậm rãi nói: “Mở tửu điếm cũng rất có ích, có thể thường xuyên nghe ngóng một số chuyện vui. Ngươi có biết gần đây giang hồ có chuyện gì hấp dẫn không?”
Lý Tầm Hoan cười: “Tại hạ đâu có mở tửu điếm.”
Tôn Đạt nhìn quanh bốn phía như sợ có người nghe trộm.
Sau đó lão hạ giọng: “Ngươi có biết không, ba mươi năm về trước có một người tung hoành thiên hạ, danh tính là Mai Hoa Đạo, nay đã tái xuất giang hồ!”
Ba tiếng Mai Hoa Đạo quả thật làm Lý Tầm Hoan thắc mắc.
Tôn Đạt tiếp: “Mai Hoa Đạo ngang dọc giang hồ lúc ngươi còn nhỏ, chắc ngươi không biết sự lợi hại của hắn đâu. Giang hồ khi ấy không ai không sợ hắn, ngay cả chưởng môn phái Điểm Thương, tự xưng là Giang hồ đệ nhất kiếm khách Ngô Thiên Vấn, cũng ch.ết dưới tay Mai Hoa Đạo.”
Lão ngưng một chút rồi tiếp: “Hơn nữa, hành tung của hắn rất bí ẩn, thần quỷ cũng khó đoán. Ngô Thiên Vấn vừa tuyên bố muốn tìm hắn, hai ngày sau đã bị hắn giết ch.ết ngay trong vườn nhà mình. Toàn thân không một vết thương, chỉ có....”
Nói đến đây, Tôn Đạt ngừng lại nhìn quanh quất, tựa như sợ Mai Hoa Đạo xuất quỷ nhập thần, đột ngột hiện ra sau lưng lão vậy.
Nhưng bốn bề vẫn tĩnh mịch, nghe rõ cả tiếng hoa tuyết rơi xuống mái nhà.
Tôn Đạt nói tiếp: “... Chỉ có năm vệt máu bầm nhỏ như năm đóa hoa mai ở ngực. Vết máu nhỏ như đầu mũi kim, người người đều biết đó là tiêu chí của Mai Hoa Đạo. Thật ra chưa ai biết hắn đã dùng thứ ám khí hay binh khí tà môn ngoại đạo gì lợi hại đến thế. Bởi vì những người từng giao đấu với hắn không một ai sống sót cả, do đó không ai biết được diện mạo của hắn như thế nào.”
Lão ngừng một chút, rồi tiếp: “Mọi người chỉ biết hắn nhất định là nam nhân.”
Lý Tầm Hoan “À” một tiếng.
Tôn Đạt tiếp: “Bởi vì hắn không những cướp tài mà còn đoạt sắc nữa. Trong giang hồ, bất luận là hắc đạo hoặc bạch đạo đều hận hắn thấu xương, nhưng không có cách nào đối phó. Ai nói ra miệng là muốn đối phó với hắn, chỉ trong vòng ba ngày là bị giết ch.ết, trước ngực nhất định phải có dấu hiệu của hắn.”
Lý Tầm Hoan hỏi: “Bất cứ ai ch.ết dưới tay hắn cũng mang vết thương chí mạng trước ngực ư?”
Tôn Đạt gật đầu: “Không sai! Trước ngực là yếu điểm, cũng là nơi người luyện võ phải phòng vệ cẩn mật nhất. Thế mà Mai Hoa Đạo lại chuyên môn hạ thủ ngay chỗ đó, không có ngoại lệ, giống như muốn biểu diễn cho giang hồ thấy hắn lợi hại cỡ nào.”
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Vì thế mà ngươi cho rằng chỉ cần mặc Kim Ty Giáp thì có thể chế phục Mai Hoa Đạo, chỉ cần chế phục được hắn là sẽ vang danh thiên hạ. Bạn hữu hắc bạch giang hồ cũng vì thế mà cảm kích ngươi, không ai tìm ngươi để tính nợ cũ, phải không?”
Ánh mắt Tôn Đạt lóe sáng: “Trong giang hồ ai ai cũng biết, chỉ cần thoát được một chiêu chí mạng trước ngực, thì có thể tìm cơ hội chế ngự hắn....”
Sắc diện lão hứng khởi cực kỳ.
Lão nhướng mày nói tiếp: “Bởi vì chiêu thức đó của hắn chưa từng thất thủ, hắn không cần tính đường lui, chuyện phòng vệ bản thân nhất định phải có sơ xuất.”
Lý Tầm Hoan nói: “Nghe cũng có lý.”
Tôn Đạt cười lớn: “Nếu không có lý thì sao trên giang hồ ai cũng muốn đoạt Kim Ty Giáp?”
Lý Tầm Hoan nói: “Nhưng nếu ngươi cứ ở đây trồng mấy chậu hoa, uống vài chén rượu, thì những địch thủ ngày xưa cũng đã quên mất ngươi rồi. Sống như thế lại chẳng thư thái ư? Tại sao phải chuốc lấy phiền hà?”
4 - Sắc đẹp mê người
Tôn Đạt cười nói: “Ngươi chẳng hiểu gì hết. Nếu ta giết được Mai Hoa Đạo thì chẳng những được nở mặt nở mày, mà còn không biết bao nhiêu lợi ích.”
Lý Tầm Hoan hỏi: “Lại còn những lợi ích gì nữa?”
Tôn Đạt nói: “Ba mươi năm trước Mai Hoa Đạo đột nhiên ẩn tích, trên giang hồ ai cũng tưởng hắn không thoát được lưới trời. Không ngờ nửa năm trước đây hắn lại xuất hiện, chỉ trong bảy tám tháng đã gây ra bảy tám mươi vụ án, ngay cả ái nữ của chưởng môn phái Hoa Sơn cũng bị hắn hãm hại.”
Lý Tầm Hoan thở dài: “Người này tính ra cũng đã trên dưới bảy mươi tuổi rồi. Ta không hiểu nổi, sao hắn vẫn còn có những hứng thú kiểu như vậy?”
Tôn Đạt nói: “Từ ngày hắn tái xuất giang hồ đến nay, ai có chút tài sản đều cảm thấy bất an, ai có con gái đẹp lại càng ăn ngủ không yên...”
Ngừng một chút, lão nói tiếp: “Cho nên đã có hơn chín mươi thế gia âm thầm hẹn ước, bất cứ ai giết được Mai Hoa Đạo, thì họ sẽ trích ra một phần tài sản để tặng cho người ấy, con số dĩ nhiên là rất lớn.”
Lý Tầm Hoan hỏi: “Đó chính là điều bí mật mà không còn bí mật nữa ư?”
Tôn Đạt gật đầu: “Ngoài việc ấy ra, vị đệ nhất mỹ nhân được giang hồ công nhận đã tuyên bố rằng, bất luận già trẻ tăng tục, ai trừ khử được Mai Hoa Đạo, nàng sẽ nguyện nâng khăn sửa áo.”
Lý Tầm Hoan thở hắt ra, cười buồn: “Tài sắc động nhân tâm. Không trách ngươi lại vứt bỏ những ngày tháng an nhàn để nhúng chân vào vũng nước đục. Không trách ngươi đang tâm giết vợ, xem ra bây giờ sắp đến lượt ta.”
Tôn Đạt nói: “Nói thật lòng, ta cũng thấy ngươi ch.ết oan uổng, nhưng tiếc là ta không giết ngươi không được.”
Lý Tầm Hoan chợt mỉm cười, ôn tồn đáp: “Nói thật lòng, ngươi có cảm thấy giết ta là chuyện dễ dàng không?”
Nắm đấm sắt của Tôn Đạt đang giơ lên, bây giờ lại hạ xuống, nhìn sững Lý Tầm Hoan một lúc rồi cũng mỉm cười: “Người nhiều chuyện như ngươi mà có thể sống đến bây giờ, thì giết ngươi cũng không phải là dễ. Nhưng...”
Từ ngoài cửa, đột nhiên bật lên giọng cười sang sảng.
Một người lớn tiếng nói: “Nói thật lòng, ngươi xem hắn có giống như người đã trúng độc hay không?”
*
* *
Tôn Đạt kinh ngạc quay lại. Tại khung cửa hẹp dẫn vào nhà bếp, không biết tự bao giờ, một người mặc áo xanh đang đứng ở đó. Tầm vóc của hắn không thấp lắm mà cũng không cao lắm, sắc thái nhàn hạ lịch sự, nhưng gương mặt xanh xám, tối sẫm như đang đeo mặt nạ, mà không chừng chân tướng của hắn cũng xanh xám, tối sẫm như thế.
Hắn chắp tay sau lưng ung dung đi vào, miệng than thở: “Thằng ngu nào muốn hạ độc vào rượu của một tên nghiện rượu, thì bất cứ một chuyện ngu xuẩn nào khác hắn cũng có thể làm. Ngươi thấy có đúng không?”
Câu cuối cùng hình như là để hỏi Lý Tầm Hoan. Bây giờ Lý Tầm Hoan mới phát hiện ánh mắt người này rất động lòng người. Khuôn mặt hắn ta và đôi mắt không hòa hợp chút nào. Đôi mắt đó như hai hạt trân châu gắn vào miếng thịt lợn đã ôi.
Nhìn thẳng vào đôi mắt ấy, Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Lừa gạt một tên bạc bịp, hạ độc trong ly của một con sâu rượu, khen nữ nhân khác đẹp trước mặt vợ mình, làm một trong ba chuyện ấy nhất định phải hối hận.”
Người áo xanh lạnh lùng: “Đáng tiếc là thông thường họ không kịp hối hận.”
Tôn Đạt ngơ ngác nhìn hai người, rồi đột ngột xông đến nắm lấy hũ rượu.
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Ngươi khỏi phải xem. Hũ rượu ấy có độc, ta không nói dối ngươi đâu.”
Tôn Đạt hạ giọng, như thì thầm: “Thế thì ngươi... “
Lý Tầm Hoan nói: “Trong rượu có độc hay không, người khác có thể không nhận ra. Nhưng kẻ nghiện rượu như ta, chỉ cần dùng mũi hít một cái cũng đủ biết rượu có mùi khác lạ rồi.”
Chàng vừa cười vừa nói tiếp: “Đó cũng là ích lợi của việc nghiện rượu. Người không nghiện rượu thì không thể hiểu được.”
Tôn Đạt nói: “Nhưng chính mắt ta thấy ngươi đã uống cạn ly rượu đó mà?”
Lý Tầm Hoan cười: “Tuy ta có uống, nhưng khi ho ta đã phun hết ra rồi.”
Tôn Đạt run rẩy, hũ rượu trên tay rơi xuống gạch nghe “bịch” một tiếng.
Người áo xanh nói: “Xem chừng bây giờ thì hắn hối hận rồi đấy, nhưng đã muộn rồi.”
Tôn Đạt vừa gầm lên một tiếng vừa nhắm về phía người áo xanh phóng ra ba quyền.
Hai mươi năm qua, võ công của hắn không lùi mà lại tiến. Mấy thoi quyền này không nhanh lắm nhưng cực mạnh, quyền phong đầy oai lực áp chế đối phương. Ai cũng phải thấy ba quyền của hắn tuy chưa đến mức đánh tảng đá nát thành bụi, nhưng nếu đánh vào đầu người thì chắc chắn hiệu quả có thừa.
Toàn thân người áo xanh nằm gọn trong quyền phong, xem ra muốn đỡ cũng không đỡ kịp, muốn tránh cũng không tránh kịp.
Nào ngờ hắn không đỡ mà cũng không tránh, chỉ nhè nhẹ phất tay. Rõ ràng hắn ra tay sau khi Tôn Đạt xuất quyền, nhưng không hiểu tại sao quyền của Tôn Đạt chưa đụng đến tay áo hắn, thì bàn tay của hắn đã đụng vào mặt Tôn Đạt.
Phát chưởng nhẹ nhàng như đuổi ruồi, thế mà Tôn Đạt hộc lên như heo bị chọc tiết, ngã ngửa xuống đất.
Đến lúc hắn giãy giụa đứng dậy được thì một bên mặt đã sưng lên nửa thước, da mặt tím bầm trong bóng, một mắt như bị dời lệch sang một bên.
Người áo xanh điềm đạm nói: “Nói thật lòng, ta cũng thấy ngươi ch.ết oan uổng, nhưng tiếc là bàn tay ta...”
Nửa mặt chưa sưng của Tôn Đạt trắng bệch không còn chút máu. Nửa mặt đã sưng thì da thịt giần giật trông như một miếng thịt có giòi lúc nhúc bên trong. Cái dáng vẻ ấy thật không thể diễn tả, đáng sợ khôn lường. Con mắt còn lại của hắn đầy vẻ sợ hãi, nhìn vào tay của người mặc áo xanh, miệng hét lên: “Tay... tay của ngươi... tay của ngươi...”
Người áo xanh đeo hai chiếc bao tay bằng sắt màu xanh sẫm, xấu xí thô kệch, nhưng người hiểu biết thì vừa nhìn thấy đã dựng tóc gáy.
Ánh mắt của Tôn Đạt từ kinh hoàng chuyển sang tuyệt vọng, giọng yếu dần, chầm chậm nói: “Không hiểu ta đã gây ra oan nghiệt gì, mà hôm nay phải gặp Thanh Ma Thủ... Lý... Lý Thám Hoa! Ngươi là người tốt, ngươi giết ta giùm đi... giết ta mau đi!”
Lý Tầm Hoan ngồi yên không động đậy, đôi mắt nhìn sững vào đôi tay của người áo xanh. Chàng chỉ dùng mũi chân khều phân nửa ngọn Liễn Tử Thương, hất về phía Tôn Đạt.
Tôn Đạt cố hết sức mới nhặt được ngọn thương, run giọng: “Đa tạ... đa tạ... Ta ch.ết cũng không quên lòng tốt của ngươi.”
Hắn gom hết tàn lực, đâm mũi thương ngược vào yết hầu mình. Máu tươi tuôn ra, nhưng không đỏ mà lại tím đen như nước thải từ cống rãnh chảy ra.
Lý Tầm Hoan nhắm mắt lại, thở dài, ảm đạm nói: “Trong võ lâm có bảy loại độc, độc nhất là Thanh Ma Thủ. Câu nói ấy thật là không khoa trương chút nào.”
Người áo xanh nhìn xuống tay mình, rồi cũng thở dài: “Võ lâm đồn rằng người bị Thanh Ma Thủ động tới thì sống không bằng ch.ết, chỉ muốn ch.ết càng sớm càng tốt. Câu nói ấy cũng thật là không khoa trương chút nào.”
Ánh mắt của Lý Tầm Hoan chuyển lên mặt người áo xanh, nói chậm rãi: “Nhưng các hạ không phải là Thanh Ma Y Khốc!”
Người áo xanh hỏi: “Tại sao ngươi biết ta không phải là hắn? Ngươi biết hắn ư?”
Lý Tầm Hoan mỉm cười, chỉ “À” một tiếng.
Người áo xanh hơi cười: “Ta thật không muốn mạo danh hắn, bất quá là hắn...”
Lý Tầm Hoan cắt lời: “Y Khốc không có đồ đệ.”
Người áo xanh nói: “Ai bảo ta là đệ tử của hắn? Hắn làm đệ tử của ta còn chưa đáng!”
Lý Tầm Hoan nhướng mắt: “Thế ư?”
Người áo xanh hỏi: “Ngươi cho rằng ta tự thổi phồng chăng?”
Lý Tầm Hoan điềm đạm: “Ta hoàn toàn không có hứng thú để tìm hiểu lai lịch và thân thế của các hạ.”
Đôi mắt rung động lòng người của người áo xanh bỗng lóe sáng như dao sắc, nhìn chằm chằm Lý Tầm Hoan: “Thế ngươi hứng thú với cái gì? Kim Ty Giáp ư?”
Lý Tầm Hoan không trả lời, mấy ngón tay cứ mân mê ngọn tiểu đao.
Ánh mắt của người áo xanh cũng nhìn xuống con dao đó: “Người ta đồn rằng Tiểu Lý Thần Đao, phóng ra không trật đao nào. Không hiểu câu nói này có khoa trương không?”
Lý Tầm Hoan thản nhiên đáp: “Trước kia cũng có nhiều người hoài nghi câu nói đó!”
Người áo xanh hỏi: “Thế còn bây giờ?”
Ánh mắt Lý Tầm Hoan chợt buồn buồn, từ tốn nói: “Bây giờ thì những người ấy đã ch.ết hết rồi.”
Lặng thinh một lúc, người áo xanh chợt bật cười.
Giọng cười của hắn thật kỳ lạ, nghe như cố rặn từ cổ họng ra, tiếng cười thật lớn, mà gương mặt thì y như con cá ch.ết. Hắn nói: “Nói thật lòng, ta cũng có ý muốn thử!”
Lý Tầm Hoan cười: “Ta khuyên ngươi, tốt nhất là không nên thử.”
Người áo xanh ngưng cười, trừng mắt nhìn Lý Tầm Hoan, vụt hỏi: “Kim Ty Giáp có phải đang ở trong cái thây nằm nơi chảo kia không?”
Lý Tầm Hoan gật đầu: “Đúng thế.”
Người áo xanh nói: “Bây giờ ta qua đó, như vậy thì... như vậy thì...”
Lý Tầm Hoan ngắt lời hắn, nói: “Như vậy chỉ sợ rằng ngươi cũng sẽ biến thành cái thây đó!”
Người áo xanh cười: “Ta không sợ ngươi, nhưng con người của ta bẩm sinh không thích đánh cược, cũng không thích mạo hiểm.”
Lý Tầm Hoan đáp: “Đây là một thói quen tốt, nếu ngươi giữ được thì nhất định sẽ trường thọ.”
Người áo xanh chớp mắt: “Ta có cách khiến ngươi nhường lại Kim Ty Giáp cho ta.”
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Thế ư?”
Người áo xanh nói: “Chắc ngươi biết, Thanh Ma Thủ là do Y Khốc luyện bằng thép ròng, sau đó tẩm bách độc tổng cộng bảy năm. Có thể nói nó là một trong những binh khí bá đạo nhất trong võ lâm.”
Lý Tầm Hoan nói: “Bá Hiểu Sinh viết tập Binh Khí Phổ đã liệt Thanh Ma Thủ vào hàng thứ chín, kể cũng là vật quí.”
Người áo xanh hỏi: “Thế thì nếu ta đem Thanh Ma Thủ tặng ngươi, ngươi có thể nhường Kim Ty Giáp cho ta không?”
Lý Tầm Hoan trầm ngâm một lúc, nhìn vào ngọn dao trên tay mình, chậm rãi nói: “Ngọn tiểu đao này làm bằng sắt thường, do một thợ rèn ở Đại Giả làm mất khoảng ba giờ. Nhưng Bá Hiểu Sinh đã viết: Phi đao họ Lý liệt vào hàng thứ ba.”
Người áo xanh hỏi lại: “Theo ý ngươi thì binh khí tốt xấu không quan hệ, chủ yếu là phải xem người dùng binh khí ấy là ai, có đúng thế không?”
Lý Tầm Hoan mỉm cười đáp: “Ngươi quả là thông minh.”
Người áo xanh hỏi: “Vì thế nên ngươi không bằng lòng?”
Lý Tầm Hoan nói: “Nếu ta muốn vật đó, thì bây giờ nó không còn nằm trong tay ngươi.”
Suy nghĩ một lúc lâu, người áo xanh bèn móc trong lưng ra một chiếc hộp dài dài.
Hắn chầm chậm đặt chiếc hộp lên bàn, sau đó dùng bàn tay đeo bao tay sắt thô kệch mở hộp ra một cách khó khăn. Lập tức một luồng kiếm khí lan tỏa ra không gian. Chiếc hộp đen đó đựng một thanh đoản kiếm, hàn quang kinh người.
Người áo xanh nói: “Thanh Ngư Trường Kiếm thiên hạ vô song có xứng để trao đổi với ngươi hay chăng?”
Sắc mặt Lý Tầm Hoan hơi đổi: “Không lẽ các hạ là đệ tử của Tàng Long Lão Nhân ở Tàng Kiếm Sơn Trang?”
Người áo xanh đáp: “Không phải! “
Lý Tầm Hoan hỏi: “Thế thì thanh đoản kiếm ấy các hạ từ đâu có?”
Người áo xanh đáp: “Lão Long đã ch.ết rồi. Đây là Du Long Sinh, con lão tặng tôi.”
Lý Tầm Hoan nói: “Ngư Trường Kiếm vốn là thượng cổ thần binh, là võ lâm chi bảo. Tàng Kiếm Sơn Trang vì nó mà nổi danh. Giả tỉ Tàng Long Lão Nhân không kết bạn sinh tử chi giao với chưởng môn các phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Côn Luân thì kiếm này cũng đã sớm bị kẻ khác đoạt mất. Tuy vậy Tàng Kiếm Sơn Trang cũng đã vì thanh kiếm này mà nhiều lần đổ máu. Vị thiếu trang chủ họ Du đó, sao lại phải đem bảo vật truyền gia này tặng cho ngươi?”
Người áo xanh cười nhạt: “Đừng nói thanh kiếm này, dù ta cần thủ cấp của hắn, hắn cũng không cự tuyệt. Ngươi có tin không?”
Trầm ngâm hồi lâu, Lý Tầm Hoan nói: “Giá trị thanh kiếm này còn cao hơn Kim Ty Giáp. Sao các hạ lại chịu lỗ lã như thế?”
Người áo xanh cười: “Ta đây vốn có tính khí kỳ lạ, vật càng khó thì ta lại càng muốn lấy.”
Lý Tầm Hoan cũng cười: “Thật là trùng hợp, ta cũng có tính khí như thế.”
Người áo xanh nói: “Ngươi vẫn không đồng ý ư?”
Lý Tầm Hoan đáp: “Không đồng ý.”
Người áo xanh hỏi gặng: “Nhưng sao ngươi nhất định phải lấy được Kim Ty Giáp?”
Lý Tầm Hoan nói: “Đó là chuyện của ta, không can hệ gì đến ngươi.”
Người áo xanh ngửa mặt lên trời cười ha hả: “Từ lâu đã nghe Tiểu Lý Thám Hoa không màng danh lợi, coi phú quí như phù vân, hai mươi năm trước đã ruồng bỏ công danh như bụi đất, mười năm trước đã bỏ hết gia sản, ra ngoài biên ải mai danh ẩn tích. Con người như thế mà lại xem trọng Kim Ty Giáp đến vậy ư?”
Lý Tầm Hoan nói: “E rằng nguyên nhân của ta rất giống các hạ.”
Người áo xanh khẽ liếc Lý Tầm Hoan: “Chẳng lẽ ngươi cũng vì thiên hạ đệ nhất mỹ nhân?”
Lý Tầm Hoan cười: “Có thể là vậy!”
Người áo xanh cũng cười: “Không sai. Ta cũng từng nghe ngươi chưa hề cự tuyệt giai nhân cùng mỹ tửu.”
Lý Tầm Hoan nói: “Tiếc rằng ngươi không phải tuyệt thế giai nhân.”
Người áo xanh cười nói: “Sao ngươi biết là không phải?”
Giọng cười của hắn chợt thay đổi, êm tai như tiếng khánh bạc. Hắn vừa cười vừa từ từ cởi đôi găng tay ghê gớm, để lộ hai bàn tay.
*
* *
Trước nay Lý Tầm Hoan chưa bao giờ thấy một bàn tay đẹp như thế.
Tiểu Lý vốn phong lưu, trong đời đã từng hò hẹn với không biết bao nhiêu mỹ nhân tuyệt sắc. Trong lúc tay chàng không cầm phi đao, không cầm ly rượu, thì đã cầm không biết bao nhiêu bàn tay đẹp, mềm mại như cọng hành non mùa thu.
Người đẹp thường cũng có bàn tay đẹp, nhưng chàng đã phát hiện ra rằng, bàn tay đẹp đến đâu thì ít nhiều cũng có khiếm khuyết, hoặc là làn da hơi sẫm, hoặc là ngón tay hơi lớn, hoặc hơi thô kệch, hoặc lỗ chân lông quá lớn... Kể cả bàn tay của người trong mộng của chàng cũng không phải là không có tì vết, vì cá tính của nàng mạnh mẽ nên bàn tay không khỏi to hơn mức bình thường.
Nhưng bàn tay đang đưa ra trước mặt Lý Tầm Hoan thì thật sự thập toàn thập mỹ, không một khiếm khuyết, như một miếng ngọc đẹp đã được thợ khéo điêu khắc, tinh túy hoàn toàn không có chút sắc khác nhiễm vào. Bàn tay này lại còn rất mềm mại, cân xứng đến mức thêm chút thịt là quá mập, giảm chút thịt là quá ốm, không quá dài mà cũng không quá ngắn.
Cho dù một con người khó tính đến đâu cũng không thể tìm được khiếm khuyết ở bàn tay này.
Người mặc áo xanh dịu dàng nói: “Ngươi xem, bàn tay ta có đẹp hơn cái Thanh Ma Thủ đó không?”
Thanh âm nàng đột nhiên trở thành dịu dàng trong trẻo, nếu hình dung bằng tiếng hoàng oanh thánh thót thì vẫn còn chưa xứng.
Lý Tầm Hoan thở ra: “Cô nương dùng hai bàn tay này để giết người, e rằng đã không ai chống cự nổi, hà tất phải đeo Thanh Ma Thủ làm gì.”
Người áo xanh cười: “Bây giờ ta với ngươi đàm phán chuyện trao đổi, có tốt hơn không?”
Lý Tầm Hoan nói: “Cũng chưa được tốt lắm.”
Người áo xanh dùng hai bàn tay không tì vết để cởi bớt một cúc áo, tay áo lụa rơi ra, để lộ một cánh tay tuyệt đẹp, đầy đặn mà không thấy thịt, thon thả nhưng không thấy xương. Bàn tay nàng khiến người ta ngưỡng mộ, cánh tay nàng khiến người ta hoa mắt.
Người áo xanh hỏi tiếp: “Bây giờ thì sao?”
Lý Tầm Hoan nói: “Vẫn chưa đủ!”
Người áo xanh cười khúc khích: “Bọn nam nhân các ngươi đều tham lam. Người càng có bản lãnh thì lòng tham càng lớn.”
Thân thể nàng nhẹ nhàng lay động, khi nói xong câu đó thì trên người chỉ còn lại một cái áo yếm bằng tơ mỏng. Cái thú ngắm hoa qua lớp sương mù, thật là tiêu hồn lạc phách.
Lý Tầm Hoan đã rót đầy một ly rượu không có độc, nâng lên cười: “Ngắm hoa không thể thiếu rượu, xin mời!”
Người áo xanh nói: “Ta biết ngươi hãy còn cảm thấy chưa đủ, phải không?”
Lý Tầm Hoan cười: “Nam nhân nào cũng tham lam!”
Người áo xanh cười, thanh âm trong trẻo như tiếng chuông bạc, rồi cởi cả giày tất.
Bất cứ ai đang cởi giày đều rất khó coi, nhưng nàng là một ngoại lệ. Bất cứ đôi chân của ai cũng có chỗ thô kệch, nhưng nàng là một ngoại lệ.
Bàn chân của nàng đã đẹp, trọn đôi chân càng hút hồn hơn. Nếu tất cả nam nhân trên thế gian đều đến sắp hàng, tình nguyện bị đôi chân này đạp ch.ết, chắc cũng không ai thấy ngạc nhiên.
Nàng đã để lộ toàn bộ đôi chân vừa thon vừa dài.
Trong thời khắc đó Lý Tầm Hoan dường như ngưng thở.
Người áo xanh nhẹ nhàng hỏi: “Bây giờ đã đủ chưa?”
Lý Tầm Hoan uống cạn ly rượu trên tay, cười: “Nếu bây giờ ta bảo là đủ, thì quả là một thằng ngốc.”
*
* *
Không ai có thể tưởng tượng trên thế gian này lại có một thân thể hoàn mỹ như thế. Bây giờ nàng không giữ lại chút nào, hiển thị toàn bộ trước mặt Lý Tầm Hoan.
Ngực nàng đầy đặn, đôi chân thẳng tắp, khép chặt...
Phía sau thân thể mê hoặc lòng người này có ba tử thi, nhưng chúng hoàn toàn không giảm được mức độ mê hoặc của nàng, lại còn gia thêm một sức khuấy động ma quái.
Sức mê hoặc này có thể làm cho bất kỳ nam nhân nào phải phạm tội.
Tuy vậy, nàng không hề cởi chiếc mặt nạ xanh sẫm ra.
Đôi mắt nàng nhìn Lý Tầm Hoan đầy quyến rũ, ngực thở ra nhè nhẹ, miệng nói: “Bây giờ đã đủ rồi chứ?”
Lý Tầm Hoan cười nói: “Cũng tương đối đủ, chỉ còn thiếu một chút.”
Người áo xanh hỏi: “Ngươi... ngươi phải biết thế nào là đủ chứ?”
Lý Tầm Hoan nói: “Người dễ thấy hài lòng, thì cũng dễ đánh mất nhiều thứ bảo vật.”
Bộ ngực của người áo xanh nhấp nhô theo hơi thở, hai đóa hoa kiêu ngạo sừng sững trước mặt Lý Tầm Hoan, dường như đang run rẩy.
Nàng nhè nhẹ run rẩy thêm: “Ngươi không nên biết mặt ta. Như thế sẽ tăng thêm vài phần tưởng tượng, vài phần hứng thú.”
Lý Tầm Hoan nói: “Ta đã biết nhiều nữ nhân có thân hình tuyệt mỹ, nhưng khuôn mặt lại giống như Trư Bát Giới.”
Người áo xanh hỏi: “Ngươi nghĩ ta có giống Trư Bát Giới không?”
Lý Tầm Hoan đáp: “Chưa chắc đã giống.”
Người áo xanh thở ra nói: “Ngươi cố chấp quá! Nhưng ta vẫn khuyên ngươi, không nên nhìn thấy mặt ta thì hơn.”
Lý Tầm Hoan hỏi: “Tại sao lại thế?”
Người mặc áo xanh nói: “Bởi vì sau khi trao đổi lấy Kim Ty Giáp, ta phải đi ngay lập tức, sau này vĩnh viễn không còn gặp lại. Ngươi trao cho ta Kim Ty Giáp, ta trao cho ngươi khoái lạc tột đỉnh của trần gian. Đây là một cuộc giao dịch công bằng, hai bên cùng có lợi. Cho nên từ nay trở đi, không ai cần thiết phải nhớ đến ai.”
Lý Tầm Hoan nói: “Cô nương nói có lý lắm.”
Người mặc áo xanh nói: “Nếu ngươi được thấy gương mặt ta, thì vĩnh viễn không thể quên ta được. Nhưng ta thì nhất định không thể cùng ngươi trò chuyện được nữa. Như vậy, ngươi sẽ không tránh khỏi nhớ nhung, có phải là tự chuốc lấy phiền não không?”
Lý Tầm Hoan khẽ cười: “Cô nương quá tự tin rồi đấy!”
Người áo xanh cho bàn tay thon thả trôi chầm chậm từ cổ xuống, nở một nụ cười quyến rũ rồi nói: “Chẳng lẽ ta không nên tự tin ư?”
Lý Tầm Hoan điềm đạm đáp: “Giả tỉ ta không chịu giao dịch với cô nương thì sao?”
Người áo xanh hơi khựng lại, nói: “Ngươi không chịu ư?”
Cuối cùng nàng cũng đưa tay lên, gỡ mặt nạ ra.
Sau đó, nàng đứng im lặng nhìn Lý Tầm Hoan, như thầm hỏi “Ngươi có chịu không?”
*
* *
Khuôn mặt này đẹp đến nỗi khiến người ta ngừng thở, không thể nhìn lâu. Lại đi kèm với một thân thể như thế này, thật khó có ai kháng cự nổi.
Dù là người mù cũng có thể ngửi thấy mùi hương dìu dịu tỏa ra từ thân thể của nàng, cũng có thể nghe thấy thanh âm du dương tiêu hồn lạc phách.
Đó là những thứ mà bất cứ nam nhân nào cũng không muốn kháng cự.
Lý Tầm Hoan chợt thở ra: “Không trách được Y Khốc đem Thanh Ma Thủ tặng cô nương. Không trách được Du thiếu trang chủ đem bảo vật truyền gia đặt dưới chân cô nương. Bây giờ, ta không thể không tin!”
Tuyệt thế giai nhân vẫn đứng đó mỉm cười, không nói. Có lẽ vì nàng biết là không cần phải nói thêm gì nữa.
Đôi mắt nàng biết nói, nụ cười nàng biết nói, bàn tay bàn chân của nàng, mỗi phân mỗi tấc trên thân hình nàng đều biết nói.
Nàng biết như thế cũng đã rất đủ rồi. Nếu nam nhân nào không hiểu được ý nghĩ của nàng, thì nhất định đó là một thằng ngốc.
Nàng đang chờ đợi, cũng đang mời gọi.
Nhưng Lý Tầm Hoan vẫn không đứng dậy. Chàng lại rót đầy ly rượu rồi chậm rãi uống cạn, lại rót tiếp ly khác, rồi nâng ly cười nói: “Đã lâu, ta không được hưởng nhãn phúc như thế! Đa tạ cô nương!”
Nàng cắn môi cúi đầu, không hiểu nổi vì sao một nam nhân thế này lại phải uống rượu để lấy can đảm.
Lý Tầm Hoan cười nói: “Ta biết, chiều chuộng được mỹ nhân cũng không phải dễ dàng.”
Nàng rên lên một tiếng, giống như con rắn trơn tuột, ngã vào lòng Lý Tầm Hoan.
Ly rượu rơi xuống đất đánh xoảng, mảnh vỡ tung tóe.
Một tay của Lý Tầm Hoan áp sát vào tấm lưng trần của nàng, nhưng tay kia vẫn nắm lấy cán dao, ngọn tiểu đao cực kỳ bén nhọn.
Thân thể nàng lay động, khẽ hỏi: “Những lúc như thế này, nam nhân có cần phải cầm dao hay không?”
Lý Tầm Hoan dịu giọng: “Cô nương cũng không nên ngồi vào lòng một nam nhân đang cầm dao.”
Mỹ nhân cười: “Chẳng lẽ ngươi vẫn có thể nhẫn tâm giết ta sao?”
Lý Tầm Hoan cười đáp: “Nữ nhân không nên quá tự tin, càng không nên cố gắng dụ dỗ nam nhân. Cô nương nên mặc y phục đàng hoàng để chờ đợi nam nhân đến dụ dỗ thì đúng hơn, nếu không thì nam nhân sẽ không cảm thấy hứng thú.”
Tay chàng đã đưa lên, lưỡi dao nhè nhẹ lướt trên cổ nàng. Máu tươi từng giọt từng giọt lăn xuống bộ ngực ngà ngọc, giống như mặt đất phủ tuyết nở ra từng nụ hồng mai tươi tắn. Nàng khựng lại, sợ hãi, thân thể đang mềm mại bỗng trở nên cứng đờ.
Lý Tầm Hoan mỉm cười nói: “Bây giờ cô nương còn tự tin nữa không? Còn cho rằng ta không thể nhẫn tâm giết cô nương nữa không?”
Lưỡi dao vẫn dừng nơi cổ của nàng.
Đôi môi nàng run rẩy, không nói nên lời.
Lý Tầm Hoan thở dài: “Ta chỉ mong sau này cô nương nên nhớ: thứ nhất, nam nhân không bao giờ thích bị động; thứ hai, thật ra cô nương không xinh đẹp như mình tưởng.”
Thiếu nữ cắn chặt môi, run giọng: “Ta... ta đã phục ngươi rồi, xin ngươi hãy cất dao đi...”
Lý Tầm Hoan nói: “Ta còn một việc cần hỏi cô nương.”
Thiếu nữ đáp: “Ngươi... ngươi cứ hỏi...”
Lý Tầm Hoan nói: “Nếu cô nương thích tài sản thì sẽ có rất đông nam nhân muốn dâng tặng, vì lẽ đó nhất định cô nương không phải là kẻ tham tiền tài. Cô nương là nữ nhân, chắc chắn không tham nữ sắc. Thế thì cô nương muốn gì mà hy sinh tất cả, nhất quyết muốn đoạt Kim Ty Giáp?”
Thiếu nữ đáp: “Ta đã nói rồi. Vật nào càng khó lấy được, ta càng muốn lấy...”
Trầm ngâm một chút, Lý Tầm Hoan cười: “Ta không lấy đao ra khỏi cổ cô nương, chẳng lẽ cô nương không lấy cổ ra khỏi đao hay sao?”
Thiếu nữ tức khắc chui từ trong lòng chàng ra, tựa như một con mèo bị chủ nhân trách mắng.
Lý Tầm Hoan lại nói: “Tiết trời rất lạnh. Cô nương nên mặc y phục vào, nếu không sẽ rất dễ bị cảm.”
Thiếu nữ trừng mắt nhìn Lý Tầm Hoan, đôi mắt kiều diễm như đang tóe lửa...
Nhưng qua một giây, nàng vụt cười: “Ta đã biết, ngươi không nỡ giết ta!”
Lý Tầm Hoan nhướng mắt: “Ái chà! Thật thế ư?”
Bàn tay chàng vẫn mân mê cán đao, thong thả nói: “Khi ta nói hết câu này, mà cô nương còn chưa đi, thì mũi đao sẽ xuyên qua cổ cô nương đấy. Cô nương có tin hay không?”
Thiếu nữ không nói thêm tiếng nào, nghiến răng, nhặt lấy y phục, chuồn đi nhẹ nhàng như một con mèo. Chỉ còn nghe những lời mắng nhiếc ác độc từ xa xa vọng lại: “Lý Tầm Hoan! Ngươi không phải là nam nhân, thậm chí không phải là con người... Ngươi cũng không có bản lãnh gì cả! Thảo nào hôn thê của ngươi, bằng hữu thân nhất của ngươi cũng xa lánh ngươi. Bây giờ thì ta biết vì sao rồi!”
*
* *
Mặt đất phủ đầy băng tuyết. Tuyết trắng phản chiếu sáng rực lên, khiến ngoài trời có vẻ quang đãng, nhưng trong nhà bếp vẫn u ám như phần mộ, làm cho người ta không muốn lưu lại chút nào.
Nhưng Lý Tầm Hoan vẫn ngồi im lặng, tư thế không hề thay đổi...
Ánh mắt chàng đầy nỗi bi ai thống khổ. Những lời chàng vừa phải nghe tựa như muôn ngàn kim châm đâm thấu ruột gan.
Hôn thê... Bằng hữu thân nhất...
5 - Đuổi người trong đêm gió tuyết
Lý Tầm Hoan cầm lấy hũ rượu nốc cạn, rồi không ngừng ho sặc sụa. Trên gương mặt trắng bệch lại xuất hiện màu đỏ bệnh hoạn, hai tay ôm ngực, chàng nói một mình, giọng nói đầy vẻ thê lương: “Tiêu Vân, Thi Âm... Ta tuyệt nhiên không trách các ngươi. Bất luận ai nói gì, ta cũng không trách các ngươi. Ta biết các ngươi không sai, tất cả sai lầm đều do ta.”
Cánh cửa nhà bếp khua lên nhè nhẹ, một người bò từ ngoài vào. Trông hắn như một quả bóng, bụng to như cái trống, thân mình như một khối thịt mỡ lấm lem bùn đất. Tóc râu hắn rối loạn như nhiều năm chưa tắm gội, từ xa đã ngửi thấy mùi chua.
Tư thế di chuyển của hắn nửa như bò, nửa như lăn, vì hai chân đã đứt đến sát thân người.
Lý Tầm Hoan khẽ cau mày: “Nếu ngươi muốn kiếm chén cơm thì đã tới lầm chỗ rồi.”
Quái nhân như không nghe thấy, tuy vừa béo phì vừa tàn phế, nhưng cử động không chậm chút nào. Hai tay hắn vừa ấn xuống, thân hình đã đến phía trước cái chảo lớn.
Lý Tầm Hoan hơi ngạc nhiên: “Chẳng lẽ ngươi cũng đến vì Kim Ty Giáp ư?”
Quái nhân lại ấn hai tay xuống, như một con cóc nhảy lên trên bếp. Thi thể Hồng Hán Dân vẫn còn trong chảo, Kim Ty Giáp vẫn còn trên thi thể đó.
Lý Tầm Hoan từ từ nói: “Con dao trong tay ta không phải là không biết giết người. Nếu ngươi không dừng tay thì e rằng trong chảo lại có thêm một thi thể.”
Quái nhân mặc kệ, hai tay nhanh nhẹn lột lấy Kim Ty Giáp. Nhìn qua, đó chỉ là một bộ giáp màu vàng, không có vẻ gì kỳ lạ.
Chỉ kỳ lạ ở chỗ Lý Tầm Hoan vẫn ngồi bất động, phi đao trên tay chưa phóng ra, trừng mắt nhìn quái nhân, vẻ mặt hơi kinh ngạc.
Quái nhân hai tay ôm chặt Kim Ty Giáp, ngửa mặt cười to: “Ngao cò tranh nhau ngư ông đắc lợi. Không ngờ bảo bối lại đến tay ta.”
Lý Tầm Hoan lạnh lùng: “Ta hãy còn đây, đao nắm trong tay, ngươi nói như thế e rằng hơi sớm.”
Quái nhân lại nhảy xuống như một con cóc, lăn đến trước mặt Lý Tầm Hoan, nhìn chàng cười khằng khặc, lộ ra hai hàm răng vàng khè: “Đao nắm trong tay, sao không giết ta đi? Tiểu Lý Phi Đao, phóng ra không trật đao nào. Phi đao đã phóng thì một kẻ tàn phế như ta không thể tránh khỏi được.”
Lý Tầm Hoan cũng cười: “Ta thấy ngươi rất đáng thương nên không nhẫn tâm giết ngươi.”
Quái nhân đáp: “Nếu ngươi không muốn nói thì để ta nói giùm.”
Hắn lớn tiếng cười, rồi tiếp: “Bọn chúng tưởng ngươi không trúng độc, nhưng ta biết ngươi đã trúng độc rồi. Chỉ vì ngươi rất trầm tĩnh, nên chúng mới mắc bẫy.”
Vẻ mặt Lý Tầm Hoan hơi biến đổi: “Lại thế nữa ư?”
Quái nhân cười càng lớn: “Ngươi đừng nghĩ rằng ta sẽ mắc bẫy. Chỉ vì ta biết chất độc đó pha vào rượu tuyệt không có mùi vị, dù mũi ngươi có thính hơn chó cũng không thể ngửi thấy.”
Nhìn quái nhân khá lâu, Lý Tầm Hoan điềm đạm mỉm cười: “Ngươi thật sự biết chắc như thế sao?”
Quái nhân cười ha hả: “Đương nhiên là ta biết chắc, bởi chất độc đó là của chính ta. Ngươi trúng độc hay không, ta chỉ nhìn qua là biết. Ngươi có thể lừa được bọn chúng, nhưng tuyệt nhiên không thể lừa ta.”
Sắc mặt Lý Tầm Hoan không thay đổi, nhưng khóe mắt hơi run rẩy.
Qua một hồi lâu, Lý Tầm Hoan thở dài: “Chưa hết một ngày, mà ta đã gặp đến sáu bảy sự việc ngoài sức tưởng tượng. Xem ra hôm nay vận khí ta không được tốt.”
Quái nhân hỏi: “Chẳng lẽ ngươi không muốn biết sẽ mất mạng dưới tay ai sao?”
Lý Tầm Hoan nói: “Ta đang muốn thỉnh giáo.”
Quái nhân nói: “Ngươi biết sâu hiểu rộng, chắc hẳn có nghe đến bảy người ti tiện vô sỉ nhất trong giang hồ...”
Lý Tầm Hoan hơi lạc giọng: “Thất Diệu Nhân?”
Quái nhân cười ha hả: “Hoàn toàn không sai. Thất Diệu Nhân, nam thì ăn trộm, nữ thì ɖâʍ loàn cực kỳ vô sỉ. Võ công chẳng là bao, nhưng những công phu đại loại như phóng thuốc mê, hạ độc, bắt gà trộm chó, dụ dỗ con gái nhà lành, bắt cóc con nít... trên giang hồ không ai sánh được.”
Lý Tầm Hoan mở to mắt nhìn hắn: “Chẳng lẽ ngươi là một trong Thất Diệu Nhân ư?”
Quái nhân lại tiếp: “Trong Thất Diệu Nhân có một kẻ ti tiện vô sỉ nhất, gọi là...”
Lý Tầm Hoan nói: “Diệu lang quân Hoa Phong.”
Quái nhân cười: “Sai một chút. Ngoại hiệu đầy đủ của hắn là Hắc Tâm Diệu Lang Quân. Con người ấy bất học vô thuật, giết một con chó cũng không dám, chỉ biết dụ dỗ con gái nhà lành, lừa tiền đoạt sắc. Công phu hạ độc của hắn, thì không chừng Ngũ Độc Cực Lạc Đồng Tử cũng phải dưới một bậc.”
Lý Tầm Hoan nói: “Dường như ngươi biết về con người đó rất rõ.”
Quái nhân lại cười ha hả: “Đương nhiên ta biết rõ, vì ta chính là hắn, hắn chính là ta.”
Lý Tầm Hoan thở dài, lúc này mới thật sự hết cố gắng.
Hoa Phong cười lớn tiếng: “Chắc ngươi ngạc nhiên, không ngờ Diệu Lang Quân lại là một quả cầu thịt.”
Lý Tầm Hoan nói: “Con người như ngươi mà có thể dụ dỗ con gái nhà lành sao, chẳng lẽ họ mù cả à?”
Hoa Phong nói: “Ngươi lại nhầm nữa rồi! Những người mà ta dụ dỗ không những không mù mà cặp mắt lại phải rất đẹp. Nhưng khi một con người bị chặt đứt hai chân, nhốt trong địa lao, mỗi ngày cho ăn một tô mỡ heo không thêm mắm muối, thì cho dù Phan An sau mấy năm cũng biến thành một khối thịt.”
Lý Tầm Hoan chau mày hỏi: “Chẳng lẽ đó là độc thủ của vợ chồng Tử Diện Nhị Lang sao?”
Trầm ngâm một lúc, Hoa Phong lại cười: “Vừa rồi Tử Diện Nhị Lang đã kể cho ngươi nghe một câu chuyện. Bây giờ ta kể lại cho ngươi nghe, dứt khoát là đầy đủ hơn, hứng thú hơn nhiều.”
Hoa Phong nói: “Năm ấy vận khí ta không tốt, hình như bị ma quỉ mê hoặc vậy, cả gan dụ dỗ vợ của Dương Đại Hồ Tử. Cái xui xẻo nhất là ta làm cho nàng có con, do đó ta không thể không dẫn nàng chạy trốn.”
Lý Tầm Hoan ngạc nhiên: “Té ra tên mặt trắng mà Tử Diện Nhị Lang nói là ngươi sao?”
Hoa Phong nói: “Chỉ sai một chút.”
Lý Tầm Hoan hỏi lại: “Sai chỗ nào?”
Hoa Phong cười: “Thật tình ta không lấy châu báu của mụ đã đánh cắp. Dù ta có muốn cũng không được, bởi vì con mụ này còn ranh ma hơn quỷ, ta thật sự không có cơ hội ra tay.”
Hắn thở ra một hơi rồi nói tiếp: “Nhưng lúc đó Dương Đại Hồ Tử đã phát giác việc này, truy đuổi rất gấp. Ta vốn nhát gan, muốn tìm người thế mạng, liền bảo Tường Vi dụ dỗ Tử Diện Nhị Lang. Lúc đầu, mụ còn không chịu, bảo rằng mặt hắn không trắng trẻo, nhưng rốt cuộc ta cũng thuyết phục được.”
Lý Tầm Hoan nói: “Thì ra hai ngươi đã tính kế sẵn rồi.”
Hoa Phong nói: “Lúc đó ta cũng muốn tương kế tựu kế, phủi tay một cái là bỏ đi vô sự. Nhưng Tiểu Tường Vi đã cuỗm đi không ít châu báu của Đại Hồ Tử, ta không đành lòng nên hẹn ước với nàng, đợi khi mọi việc chìm xuồng, ta sẽ đến tìm nàng, hất cẳng Tử Diện Nhị Lang.”
Hắn thở dài rồi nói: “Nhưng ta quên mất rằng trong thiên hạ không có nữ nhân nào không thay lòng đổi dạ. Mụ ngày đêm gần gũi Tử Diện Nhị Lang đã động chân tình. Khi ta đến tìm nàng, hai người liên thủ đánh bại ta, rồi cưa đứt hai chân, hành tội ta thế này mười mấy năm trời.”
Lý Tầm Hoan chau mày: “Thế sao mụ lại không giết ngươi cho gọn?”
Hoa Phong cười khổ: “Giá mà ta hiểu được lòng dạ nữ nhân, thì chắc chắn không biến thành thế này!”
Hắn thở dài sườn sượt, nói tiếp: “Từ trước đến giờ ta tự hào hiểu rõ tâm sự nữ nhân, nên mới bị báo ứng thế này. Một nam nhân tự cho rằng hiểu được nữ nhân, chịu bất cứ nghiệp chướng nào cũng là đáng kiếp.”
Lý Tầm Hoan cũng than thở: “Câu chuyện này quả thật hứng thú hơn chuyện của Tử Diện Nhị Lang vừa kể.”
Hoa Phong nói: “Cái việc hứng thú nhất, ngươi còn chưa biết đâu!”
Lý Tầm Hoan “À” một tiếng.
Hoa Phong tiếp: “Ngươi đã trúng độc của ta, không những không thể dùng sức, mà chỉ trong ba giờ nhất định phải ch.ết. Cho nên bây giờ ta không giết ngươi, để ngươi ngồi đây hưởng thụ mùi vị chờ ch.ết.”
Lý Tầm Hoan điềm nhiên: “Không cần lắm đâu. Mùi vị chờ ch.ết ta đã hưởng thụ nhiều lần rồi!”
Hoa Phong cười dữ tợn: “Nhưng ta đảm bảo rằng đây là lần cuối cùng.”
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Đã thế thì ngươi cứ tự tiện. Nhưng phía ngoài đang bão tuyết, đất trời mù mịt, thân thể ngươi như thế này thì đi được bao xa?”
Hoa Phong đáp: “Chuyện này không cần ngươi phải bận tâm. Người không chân cũng có thể cưỡi ngựa. Ta nghe có tiếng ngựa hí bên ngoài, tiếng hí lại rất khỏe, tất phải là ngựa tốt.”
Hắn cười lớn, vừa lăn vừa bò ra phía ngoài, vẫy tay cười: “Hẹn ngày gặp lại.”
Lý Tầm Hoan cũng mỉm cười: “Các hạ bảo trọng. Tại hạ không tiện đưa xa, xin thứ lỗi.”
*
* *
Bên ngoài ngựa hí vang không dứt, tiếng vó ngựa mỗi lúc một xa...
Lý Tầm Hoan ngồi yên một chỗ, mắt đăm đăm nhìn hũ rượu trên bàn. Một hũ đã cạn, còn lại một hũ.
Lý Tầm Hoan cầm hũ rượu còn lại đưa lên mũi ngửi, nếm một chút, nhẹ nhàng nói: “Quả nhiên không có mùi vị. Bản lãnh hạ độc của hắn quả thật không tồi.”
Chàng uống thêm một ngụm nữa, nhắm mắt lại: “Rượu này cũng không tồi. Uống một ly cũng ch.ết, uống một hũ cũng ch.ết, sao ta không uống nhiều hơn để khỏi phí rượu ngon?”
Quả nhiên chàng uống cạn hũ rượu độc đó, rồi lại từ từ nói: “Lý Tầm Hoan ơi Lý Tầm Hoan! Đáng lý nhà ngươi đã phải ch.ết sớm hơn. Bây giờ ch.ết thì đã sao? Nhưng ít ra thì ngươi không nên ch.ết dưới nhà bếp, không nên nằm ch.ết cạnh hạng người này.”
Cố gắng đứng lên, Lý Tầm Hoan lảo đảo bước ra khỏi tửu điếm.
Trên mặt tuyết, dấu chân ngựa đan chéo nhau thẳng hướng đông nam.
Lý Tầm Hoan chọn một chỗ tuyết tương đối sạch sẽ, ngồi xếp bằng rồi lấy trong bọc ra hình tượng còn đang điêu khắc dở dang.
Nhân tượng này cũng đã có những đường nét chính, đôi mắt tựa như đang chăm chú nhìn Lý Tầm Hoan, ánh mắt rõ ràng có vẻ u uất.
Lý Tầm Hoan cười buồn: “Muội hà tất phải nhìn ta. Ta chỉ là một kẻ lãng tử vô phương cứu chữa, chỉ là một tên nghiện rượu. Muội lấy Tiêu Vân là phải, chỉ có ta sai lầm.”
Chàng dùng sức điêu khắc tiếp, muốn hoàn tất nhân tượng này. Nhưng tay chàng run rẩy, thân thể không còn chút sức lực, không còn điều khiển được mũi dao sắc bén trên khúc gỗ nữa.
Thời tiết u ám. Vòm trời như hạ thấp xuống, tuyết lại rơi.
Lý Tầm Hoan nằm trên tuyết, ho sặc sụa, từng tiếng ho nghe như phảng phất tiếng gọi người xa xưa.
“Thi Âm... Thi Âm...”
Thi Âm có nghe thấy hay không?
*
* *
Chắc chắn Thi Âm không nghe thấy, nhưng có một người khác đã nghe thấy. Gã đại hán râu xồm đang cõng Lý Tầm Hoan trên lưng, đuổi theo dấu chân ngựa trên mặt tuyết.
“Trong vòng hai giờ mà gặp được người cụt hai chân, thân mình như quả cầu thịt thì ta có thể sống sót. Bởi vì người hạ độc tất có thuốc giải.”
Đây là câu nói cuối cùng Lý Tầm Hoan có thể thốt ra.
Đại hán râu cơ hồ đã dùng hết sinh lực của mình, nước mắt đóng thành những hạt băng nhỏ trong khóe mắt. Gió buốt quạt thẳng vào mặt gã như dao cắt.
Bỗng nhiên trong gió rét chợt nghe văng vẳng tiếng rú thê thảm.
Đại hán râu biến sắc, thoáng do dự, rồi dốc toàn lực lao thẳng về phía tiếng rú thê thảm đó.
Điều đầu tiên gã thấy, là một con ngựa bị ngã ở bìa rừng thông đầy tuyết.
Gã chạy vào rừng tuyết, người như đơ cứng lại. Cuối cùng thì gã cũng tìm thấy Diệu lang quân Hoa Phong, nhưng bây giờ chỉ là thi thể của Hoa Phong. Chỉ là...
Thân hình hắn bây giờ như một con nhím, ghim đầy ám khí đủ hình đủ dạng: có phi tiêu, có tụ tiễn, có ngân châm, có ngũ mang châu, có độc tật lê...
Đại hán râu không nén nổi, lộ vẻ thương cảm. Nghiệp báo của người này thật quá thê thảm, bị người ta cưa mất hai chân, rồi bị nuôi nhốt như một con heo mười mấy năm trời, giờ lại bị xem như một bia tập bắn khi còn sống.
Nhưng gã nghĩ đến người này đã ch.ết thì e rằng Lý Tầm Hoan cũng ch.ết theo, vẻ thương tâm biến thành bi phẫn. Gã hạ giọng hỏi: “Chính hắn đấy ư?”
Gã vẫn nuôi một chút hy vọng, hy vọng xác ch.ết không phải là người mà Lý Tầm Hoan cần tìm.
Nhưng Lý Tầm Hoan chợt lên tiếng: “Không sai chút nào.”
Đại hán râu cắn răng, cởi áo khoác bằng da trải dưới gốc cây, rồi dìu Lý Tầm Hoan ngồi xuống. Gã cố cười gượng: “Có lẽ thuốc giải trong mình hắn, hắn ch.ết thế này thì chúng ta lại tiết kiệm được thời gian. Để ta qua đó xem thử.”
Lý Tầm Hoan cũng gượng cười: “Hãy cẩn thận! Đa số ám khí có độc, đừng để bị đứt tay.”
Chàng đang thập tử nhất sinh, vẫn nghĩ đến an nguy của người khác.
Đại hán râu cảm thấy nhiệt huyết bốc lên hừng hực, lén nuốt nước mắt, chạy nhanh đến thi thể Hoa Phong. Gã cúi xuống nhanh nhẹn tìm kiếm, nhưng một hồi lâu sau lại ngừng tay, không đứng dậy nổi.
Lý Tầm Hoan hỏi: “Không có ư?”
Đại hán râu cổ họng cứng đờ, nghẹn ngào không nói nên lời.
Lý Tầm Hoan thản nhiên cười: “Ta cũng biết trước là sẽ không may mắn như thế đâu. Hắn đã bị nhốt mười mấy năm, trong mình làm gì có thuốc giải?”
Đại hán râu nắm chặt tay, đấm vào đầu mình: “Nếu biết được kẻ giết hắn thì còn hy vọng. Không chừng bọn ấy đã cướp thuốc giải đi.”
Lý Tầm Hoan nhắm mắt lại, nét mặt vô cảm: “Có thể như thế, mà cũng có thể không như thế...”
Đại hán râu nói: “Những loại ám khí mà hắn trúng đều là loại thông thường, ai trong giang hồ cũng có thể dùng. Ngũ mang châu vốn là của người ngoại tộc, nhưng mấy năm gần đây cũng rất thịnh hành.”
Lý Tầm Hoan chỉ “À” một tiếng.
Đại hán tiếp: “Trên người hắn trúng đầy ám khí, chứng tỏ không phải chỉ có một người hạ thủ.”
Lý Tầm Hoan lại “À” một tiếng nữa.
Hơi thở của chàng càng lúc càng khó khăn, như sắp thiếp đi. Chàng luôn quan tâm đến an nguy của người khác, nhưng lại không để ý đến chuyện sống ch.ết của bản thân mình.
Đại hán râu ngồi xoa tay suy nghĩ, thình lình nhảy phắt lên mừng rỡ: “Ta biết kẻ hạ thủ là ai rồi!”
Lý Tầm Hoan hỏi cho có chuyện: “Ai thế?”
Đại hán râu chạy lại trước mặt Lý Tầm Hoan, nói: “Chỉ có một người hạ thủ. Mười ba loại ám khí ở đây đều do người ấy phát ra.”
Lý Tầm Hoan không nói gì.
Đại hán râu tiếp: “Mười ba loại ám khí này, bất cứ loại nào cũng đủ lấy mạng hắn. Thế thì hung thủ phóng hết lên người hắn, chỉ để thấy hả hê. Giang hồ chỉ có một tên vừa điên khùng vừa tàn ác như thế.”
Lý Tầm Hoan thở ra: “Không sai, chỉ có một tên, chính là Thiên Thủ La Sát. Cuối cùng thì Diệu Lang Quân cũng ch.ết dưới tay một nữ nhân.”
Đại hán râu vỗ tay: “Đúng thế! Ngoài Thiên Thủ La Sát ra, không ai có thể phóng một lượt mười ba loại ám khí.”
Gã đột ngột ngừng nói, nhìn Lý Tầm Hoan: “Thiếu gia đã sớm biết rồi phải không?”
Khóe mắt Lý Tầm Hoan ánh lên một nụ cười buồn: “Biết cũng chẳng được gì. Thiên Thủ La Sát hành tung vô định, nay đây mai đó. Chúng ta chắc chắn không thể tìm được mụ ta.”
Đại hán râu lớn tiếng: “Tìm không được, cũng phải tìm.”
Lý Tầm Hoan lắc đầu: “Không cần tìm mụ. Ngươi nên tìm rượu cho ta uống, để ta ch.ết một cách thoải mái. Bây giờ ta cảm thấy rất mỏi mệt, muốn nghỉ ngơi tử tế một chút.”
Đại hán râu quì xuống đất, những giọt nước mắt nóng hổi chảy ra ràn rụa, rồi khẽ nói: “Thiếu gia, ta biết thiếu gia đã mệt lắm rồi. Mấy năm nay thiếu gia chẳng có ngày nào vui vẻ. Bi thương và sầu khổ chắc chắn khiến người ta mệt mỏi hơn bất cứ chuyện gì khác.”
Đột nhiên gã nắm chặt lấy vai của Lý Tầm Hoan, lớn tiếng: “Nhưng thiếu gia nhất định không được ch.ết, thiếu gia nhất định phải vượt qua. ch.ết một cách không minh bạch như thế này, tất sẽ bị gièm pha là lãng tử, là tửu quỷ, lão gia dưới cửu tuyền sẽ không nhắm mắt được!”
Lý Tầm Hoan nhắm nghiền mắt, những giọt lệ nơi khóe mắt đã kết thành những hạt băng châu.
Nhưng khóe miệng chàng vẫn khẽ cười: “Lãng tử, tửu quỷ... có gì là không tốt? So với ngụy quân tử, giả đạo đức vẫn tốt hơn nhiều, có phải không?”
Đại hán râu giàn giụa nước mắt, khàn khàn nói: “Nhưng... nhưng thiếu gia là người hữu dụng nhất trong thiên hạ. Những điều tốt của thiếu gia không ai sánh được. Sao thiếu gia lại nhụt chí như thế, tự làm mình đau khổ chỉ vì ả Lâm Thi Âm đó. Có đáng hay không?”
Mắt Lý Tầm Hoan vụt lóe sáng, giận dữ: “Câm miệng! Ngươi dám cả gan gọi tên nàng ư?”
Đại hán râu cúi đầu ảm đạm: “Vâng.”
Lý Tầm Hoan trừng mắt nhìn gã một lát, rồi lại nhắm mắt than thở: “Được! Ngươi muốn tìm thì chúng ta cứ tìm. Nhưng trời đất bao la, thời gian hạn hẹp, ngươi tìm ở đâu đây?”
Đại hán râu nhảy dựng lên, phấn khởi nói: “Hoàng thiên bất phụ khổ tâm nhân, trời không phụ những kẻ có lòng. Chúng ta nhất định sẽ tìm được...”
Gã khom người định cõng Lý Tầm Hoan, thình lình bị một cục tuyết trên tàng cây rơi xuống vai. Gã thuận tay đưa lên phủi, bỗng nhiên phát hiện cục tuyết này màu đỏ.
Gã ngước mắt nhìn lên. Trên cây có một nữ nhân không mặc áo, bị một ngọn đoản mâu đâm thủng từ giữa ngực ra sau lưng, đóng đinh vào thân cây.
Đại hán râu thoăn thoắt leo lên cây đem cái xác xuống. Thân thể người này đã đóng một lớp băng mỏng, nhìn qua không rõ lắm, nhưng cũng biết là rất đẹp.
Lý Tầm Hoan cười buồn: “Chúng ta đã tìm được nàng nhanh quá. Quả là Hoàng thiên bất phụ khổ tâm nhân.”
Gã đánh xe nắm chặt tay, tức giận nói: “Đành rằng Thiên Thủ La Sát ác giả ác báo, nhưng sao hung thủ lại nhẫn tâm lột cả y phục của người ch.ết như thế này?”
Lý Tầm Hoan thở dài: “Có lẽ là vì y phục của người ch.ết quá đắt tiền.”
Mắt gã đánh xe sáng lên: “Võ lâm đồn đại Thiên Thủ La Sát phục sức rất sang trọng, quần áo toàn dệt bằng kim tuyến, lại còn gắn rất nhiều châu ngọc.”
Lý Tầm Hoan nói: “Con hươu mà không có nhung, con tê giác mà không có sừng, thì thợ săn cũng không muốn giết.”
Gã đánh xe hỏi lại: “Nhưng hung thủ đã lấy được Kim Ty Giáp, võ lâm chi bảo đã vào tay mà vẫn không chịu bỏ qua một bộ quần áo. Tham lam như thế thì trên đời chỉ có một tên.”
Lý Tầm Hoan chỉ “À” một tiếng.
Gã đánh xe nói tiếp: “Đó là Thi Diệu Tiên, một kẻ nằm trong quan tài còn sợ tang gia tốn kém.”
Lý Tầm Hoan cười: “Ngươi nhổ cây đoản mâu ra xem.”
Ngọn đoản mâu này nước thép sáng choang, nơi cán lại nạm một hạt kim cương lớn.
Lý Tầm Hoan nói: “Thi Diệu Tiên xem tiền quí hơn tính mạng, giết người xong vẫn không bỏ qua y phục của nạn nhân, đâu có chuyện vứt đi một vật quí như cây mâu này?”
Gã đánh xe chau mày lẩm bẩm: “Trên giang hồ, rất ít người dùng binh khí trang sức đắt tiền như thế này, chỉ có... chỉ có Hoa hoa đại thiếu Phan Tiểu An.”
Lý Tầm Hoan gật đầu: “Như thế thì có hai người giết Thiên Thủ La Sát.”
Gã đánh xe nói: “Một kẻ vung tiền như rác, một kẻ quí tiền hơn mạng, sao lại có thể đi chung?”
Lý Tầm Hoan cười nhẹ: “Không những có thể, mà còn buộc phải đi chung. Một kẻ ngồi trên vung tiền, một kẻ đứng dưới khúm núm nhặt tiền, cúc cung tận tụy, quả là một cặp.”
Gã đánh xe phấn khởi hẳn lên: “Thế thì tuyệt diệu. Trời lạnh như thế này, Phan Tiểu An nhất định sẽ không cưỡi ngựa, hắn phải dùng xe. Ngồi xe thì chúng ta thừa sức đuổi kịp.”
Quả nhiên ngoài bìa rừng có hai vệt rất rõ, hướng về nơi xa. Gã chạy ra quan sát tỉ mỉ, lại phát hiện những dấu chân rối loạn, ít nhất phải năm sáu người mới khiến mặt tuyết nhàu nát như thế. Cạnh đó có vết bánh xe, sau một đoạn thì dấu chân thưa thớt hẳn, vết xe thì lại sâu hơn.
Đây là loại xe của nhà giàu chuyên dùng vào mùa đông, ngồi rất thoải mái nhưng không thể đi nhanh được. Đại hán râu phấn chấn hẳn lên, cất bước chạy nhanh. Lần này gã hy vọng không bị mất dấu, chỉ cần men theo đường lớn, bởi vì chiếc xe rộng tám thước này không thể chạy vào đường hẻm được.
Lúc này, trời đã tối đen, trên đường không một bóng người.
Đại hán râu thi triển thân pháp chạy nhanh hơn, tuy lưng cõng người nhưng bước chân vẫn nhẹ nhàng, nhanh nhẹn. Không ai có thể nghĩ rằng người có khinh công như thế lại cam tâm làm nô bộc. Người có khinh công cao như thế, chắc chắn không phải là kẻ vô danh tiểu tốt trong giang hồ.
Chạy tiếp một lúc, gã đột nhiên phát hiện mặt tuyết phía trước phẳng lì như mặt gương, ít nhất đã hai ba giờ không có ai đi qua.
Cỗ xe lớn tại sao lại mất tích?
Đại hán râu khựng lại một chút, rồi quay ngược lại. Lần này gã chạy chậm để quan sát kỹ hơn, mất nửa dặm mới phát giác ra cỗ xe ấy đã rẽ vào một con đường tắt. Vừa rồi gã không lưu ý đến con đường tắt ấy, vì hai bên đầy những cây cổ thụ um tùm rậm rạp. Lại có tượng người bằng đá, chắc hẳn con đường này dẫn đến lăng mộ của một đại phú gia.
Gã thật sự không đoán ra tại sao cỗ xe lại đi vào con đường này, thật sự là con đường dẫn vào tử địa.
Xe đang dừng trước một lăng mộ bằng đá, con ngựa không thấy đâu. Ba đại hán mặc áo da dê đang nằm ch.ết trên mặt tuyết. Trong xe còn có một người mặc áo bào dày đang nằm, sắc mặt trắng bệch, tuổi trạc tứ tuần, mày râu nhẵn nhụi.
Chỉ cần nhìn vào chiếc nhẫn phỉ thúy đắt giá trên tay người này, đủ biết hắn là tên phá gia chi tử Phan thiếu gia của Kim Ngọc Đường.
Bên cạnh hắn còn thi thể của hai thiếu nữ, cũng như Phan thiếu gia, đã bị thủ pháp nặng nề điểm vào tử huyệt mà ch.ết. Ba người hầu nằm cạnh xe lại bị chưởng lực đánh nát lục phủ ngũ tạng. Đây là độc thủ của ai đây?
Đại hán râu chau mày nói: “Chẳng lẽ Thi Diệu Tiên...”
Chưa dứt lời, gã lại phát hiện trên bia đá kế bên lăng mộ lại còn một thi thể khác, đầu trọc lóc, mặt úp xuống tuyết, hai tay nắm chặt, dường như trước khi ch.ết còn cố giữ một vật gì đó, nhưng cuối cùng cũng không giữ được.
Đây chính là Thi Diệu Tiên. Nhưng hắn đã không thể giơ tay ra đòi tiền nữa rồi.
Lý Tầm Hoan đột nhiên than thở: “Háo sắc hay cờ bạc thì cũng không có hại bằng kết giao bằng hữu bừa bãi, nếu không, nhất định sẽ như Phan thiếu gia, ch.ết mà cũng không biết mình ch.ết dưới tay ai.”
Đại hán râu hỏi: “Thiếu gia muốn nói hắn bị Thi Diệu Tiên hạ thủ ư?”
Lý Tầm Hoan đáp: “Ngươi nhìn mà xem. Sắc mặt hắn ta thoải mái như thế, hiển nhiên là đang nô giỡn với mỹ nhân, thì bị kẻ khác điểm vào tử huyệt. Trong xe chỉ có hắn và Thi Diệu Tiên, thì ngoài Thi Diệu Tiên ra, còn ai có thể hạ thủ?”
Đại hán râu nói: “Nhưng...”
Lý Tầm Hoan nói: “Ngoài hắn ra, thì những người khác đều lộ vẻ sợ hãi, hiển nhiên trước khi ch.ết họ không tin rằng Thi Diệu Tiên có thể hạ độc thủ. Hơn nữa, hai cô gái này lúc còn sống không chừng đã có giao tình với Thi Diệu Tiên, lại càng không tin Thi Diệu Tiên có thể giết họ.”
Chàng thở ra, lắc đầu nói: “Tên này trọng tiền bạc mà khinh nhan sắc. Hắn không hiểu rằng nhan sắc vừa dễ thương vừa ít có hại hơn tiền bạc.”
Đại hán râu nói: “Nghe nói chỉ pháp của Thi Diệu Tiên là đệ nhất ở Sơn Tây, nổi danh là Nhất Chỉ Truy Hồn. Đây đích xác là thủ đoạn của hắn. Nhưng...”
Lý Tầm Hoan đột nhiên lại nói tiếp: “Thi Diệu Tiên sống dựa dẫm Phan thiếu gia không biết đã bao lâu rồi. Lần này Phan thiếu gia muốn đoạt Kim Ty Giáp, Thi Diệu Tiên cũng khó mà từ chối. Thật ra, hắn cũng có thể nói là không làm nổi, nhưng hắn cũng bị Kim Ty Giáp làm động lòng, bèn hạ thủ để trừ hậu hoạn.”
Đại hán râu đã bị ngắt lời đến hai lần. Gã đợi Lý Tầm Hoan dứt lời, rồi mới tiếp: “Nhưng Thi Diệu Tiên hiện cũng đã ch.ết rồi.”
Lý Tầm Hoan khẽ cười rồi nói: “Kẻ giết người, chắc chắn sẽ bị người giết. Lúc Thi Diệu Tiên ra tay, không chừng có một người đang ở khu lăng mộ này. Có thể Thi Diệu Tiên phát giác ra hắn nên muốn sát nhân diệt khẩu, không ngờ lại mang họa sát thân.”
Đại hán râu chau mày: “Võ công của Thi Diệu Tiên đâu phải là tầm thường, không hiểu ai đã giết hắn?”
Gã tiến tới bên thềm lăng mộ, thấy thi thể Thi Diệu Tiên không có vết thương nào, ngoại trừ một lỗ trên yết hầu.
Cứ xem cũng biết cái lỗ này là dấu tích của một thanh kiếm không bén lắm.
*
* *
Lý Tầm Hoan tựa vào vai đại hán râu, hai người nhìn chăm chú một lúc rồi đồng thời thở ra, trên khóe miệng đều lộ nét cười, đồng thanh nói: “Té ra là hắn!”
Đại hán râu cười: “Kiếm của Phi thiếu gia nhanh hơn ý nghĩ, thảo nào Thi Diệu Tiên không kịp phản ứng!”
Lý Tầm Hoan nhắm mắt, mỉm cười: “Rất tốt, rất tốt. Thật là tuyệt diệu! Kim Ty Giáp vào tay A Phi, thật là vật về đúng chủ. Xem ra Mai Hoa Đạo đến hồi xui xẻo rồi.”
Đại hán râu nói: “Chúng ta đi tìm Phi thiếu gia. Chắc là hắn chưa đi xa đâu.”
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Ngươi tìm hắn để làm gì?”
Đại hán râu nói: “Thuốc giải...”
Lý Tầm Hoan lắc đầu: “Nếu trong mình Hoa Phong quả có thuốc giải, thì Thiên Thủ La Sát lục soát, rồi Thi Diệu Tiên cướp lấy. Như thế thì hiện nay thuốc giải phải ở trên mình Thi Diệu Tiên. A Phi tuyệt nhiên không lấy đồ của kẻ khác một cách bừa bãi, hắn chỉ mang Kim Ty Giáp đi vì hắn cho rằng Kim Ty Giáp đáng lý là của ta.”
Đại hán râu nhìn những chuỗi ngọc trên mình hai thiếu nữ, rồi lại nhìn chiếc nhẫn phỉ thúy cực lớn trên ngón tay Phan thiếu gia, lên tiếng: “Không sai! Dù là một trời vàng bạc châu báu, Phi thiếu gia cũng không đụng đến một đồng.”
Lý Tầm Hoan nói: “Vì thế mà nếu thuốc giải không có trên mình Thi Diệu Tiên, chúng ta đi tìm A Phi cũng vô ích.”
Bàn tay đại hán râu run rẩy lục soát khắp người Thi Diệu Tiên. Gã rất lo lắng, vì đây là tia hy vọng cuối cùng...
Một lúc sau thì gã kéo hết xác người xuống, đỡ Lý Tầm Hoan ngồi vào xe.
Trên thành xe có khắc hai hàng chữ bằng mũi kiếm: “Ta đã báo thù cho ngươi, nên cưỡi ngựa của ngươi đi.”
Lý Tầm Hoan bật cười: “Lúc đầu ta chỉ nghĩ là hắn, bây giờ thì chắc chắn rồi. Chỉ có hắn mới không chiếm đoạt đồ vật của người ch.ết.”
Chàng mỉm cười rồi tiếp: “Thiếu niên này dễ thương thật. Tiếc là ta...”
Lý Tầm Hoan lặng thinh không nói hết câu, nhưng đại hán râu hiểu rõ chàng muốn nói gì.
Thuốc giải không có trên mình Thi Diệu Tiên, chàng tiếc là từ nay về sau sẽ không được gặp thiếu niên dễ thương này nữa.
Đại hán râu không dằn được bi ai, lảo đảo như sắp ngã phịch xuống đất.
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Ngươi đừng vì ta mà khổ tâm. ch.ết không đáng sợ như ngươi tưởng đâu. Bây giờ cả thân thể ta chỉ có trái tim là còn khí lực. Ta muốn đi uống rượu.”
6 - Say rượu gặp cứu tinh
Đại hán râu chợt đứng dậy, cởi phăng áo, phơi bộ ngực giống như sắt ra giữa băng tuyết và gió rét, vác càng xe đặt lên vai của mình. Hắn như một con ngựa, kéo cỗ xe lớn chạy nhanh về phía trước.
Lý Tầm Hoan không ngăn cản. Chàng biết trong lòng hắn hiện đang chứa đầy bi thống, cần phải phát tiết ra. Nhưng khi cửa xe khép lại, Lý Tầm Hoan không nén nổi, bất giác rưng rưng nước mắt.
Tuyết trên mặt đường đã đông thành băng cứng, trơn như mặt kính. Đại hán râu không tốn nhiều công sức lắm, mà cỗ xe vẫn lướt nhanh như bay.
Nửa giờ sau, xe đã đến Ngưu gia trang.
Ngưu gia trang là một thị trấn nhỏ nhưng rất phồn thịnh, lúc bấy giờ trời chưa tối hẳn, tuyết đã ngừng rơi. Hai bên đường có mấy người đang dùng chổi quét tuyết trước sân nhà.
Trời lạnh thế này mà có một đại hán mình trần kéo cỗ xe chạy tới, ai thấy cũng kinh hãi, có người quăng chổi chạy trốn.
Thị trấn đương nhiên là có tửu điếm. Cỗ xe chạy như bay đến trước cửa một tửu điếm rồi đột ngột dừng lại. Đại hán râu hét vang một tiếng, dùng sức đạp mạnh chân tới trước, lưng hất ngược ra sau. Nghe rắc một tiếng, thùng xe đã bị thủng một lỗ lớn, còn đôi chân của gã lún sâu vào trong tuyết. Tuyết trên mặt đường văng ra tung tóe.
Người trong thị trấn chưa từng thấy ai có thần lực như thế, ai cũng ngơ ngác.
Những người trong tửu điếm thấy đại hán râu xông vào như một vị ác thần, cũng kinh hãi trốn mất hơn phân nửa. Gã đem ba tấm ván ghép lại, sau đó khiêng một cái bàn đặt vào phía sau để dựa, lại lấy cái áo khoác bằng da hồ ly của Phan thiếu gia trải lên, rồi mới bế Lý Tầm Hoan đi vào, để ngồi thật thoải mái.
Mặt Lý Tầm Hoan không chút huyết sắc, môi cũng tím xanh, ai nhìn cũng biết chàng mang trọng bệnh. Một người sắp ch.ết lại vào uống rượu, tửu điếm đã mở cửa hơn hai mươi năm, chưa từng gặp khách kỳ lạ như thế. Cả chủ quán lẫn tiểu nhị đều đứng sững.
Đại hán râu vỗ bàn gọi lớn: “Chủ quán, đem rượu ra đây, rượu thượng hạng. Nếu có một chút nước trong đó, ta sẽ lấy thủ cấp bọn ngươi!”
Lý Tầm Hoan nhìn hắn một hồi lâu, bật cười: “Hai mươi năm nay, ngươi mới biểu lộ đôi phần hào khí của Thiết Giáp Kim Cương!”
Đại hán râu rùng mình, tựa như bị bốn tiếng Thiết Giáp Kim Cương làm kinh hãi. Nhưng gã lại ngẩng đầu lên, cười lớn: “Không ngờ thiếu gia còn nhớ cái tên này. Ta đã quên mất từ lâu.”
Lý Tầm Hoan nói: “Hôm nay ngươi phá lệ uống với ta một ly chứ?”
Thiết Giáp Kim Cương gật gật đầu: “Vâng! Hôm nay thiếu gia uống bao nhiêu, ta uống bấy nhiêu.”
Lý Tầm Hoan ngửa mặt lên trời, cười lớn: “Có thể làm cho ngươi phá giới uống rượu, đó cũng là diễm phúc của ta.”
Thực khách trong quán nghe hai người cười nói sang sảng, cũng lén nhìn qua. Không ai có thể tưởng tượng một người bệnh sắp ch.ết mà lại có thể vui vẻ đến thế.
Rượu đưa ra không phải là thượng phẩm, nhưng cũng không hòa nhiều nước lắm.
Thiết Giáp Kim Cương nâng chén: “Xin thiếu gia tha cho cái tội vô lễ. Mời thiếu gia một ly!”
Lý Tầm Hoan ngửa mặt, cạn một hơi, nhưng vì tay đã hơi run nên ly rượu sánh ra ngoài một ít.
Lý Tầm Hoan vừa ho sặc sụa vừa lau rượu dính trên áo, mỉm cười: “Từ trước đến nay ta chưa hề phung phí một giọt rượu nào. Không ngờ hôm nay lại...”
Đột nhiên Lý Tầm Hoan cười lớn: “Bộ y phục này đã đi cùng ta suốt bao năm, kể cũng là bằng hữu. Y phục lão huynh! Nhờ huynh mà ta có thể chống lại giá rét, ta mời huynh một ly!”
Đại hán râu vừa rót một ly, Lý Tầm Hoan bưng đổ hết lên áo mình.
Chủ quán cùng bọn tiểu nhị nhìn nhau, nghĩ thầm: “Thì ra tên này không những bị bệnh mà còn điên khùng nữa!”
Hai người cứ uống, uống không ngừng. Lý Tầm Hoan phải dùng cả hai tay mới nắm chặt được ly rượu, rồi gắng lắm mới đưa được lên miệng.
Đại hán râu đột ngột vỗ bàn, hét lên một tiếng: “Cuộc đời lắm chuyện bất bình, chỉ mong rượu có thể làm người ta say không bao giờ tỉnh! Ta uất hận, ta uất hận vô cùng.”
Lý Tầm Hoan khẽ chau mày nhưng lại cười: “Hôm nay chúng ta nên vui mới phải, ngươi nói cái gì mà bất bình, cái gì mà không tỉnh? Nhân sinh đắc ý, tu tận hoan; Mạc sử kim tôn không đối nguyệt. Người khi đắc ý nên say; Chén vàng trống rỗng chớ bày dưới trăng.”
Đại hán râu cười lên như phát điên cuồng: “Cuộc đời khi tốt đẹp nên tận hưởng. Thiếu gia, ta lại mời một ly.”
Giọng cười của gã thê lương cực độ, khiến ly rượu trong tay người khác cũng sánh ra ngoài. Tiếng cười chưa dứt, gã đã gục đầu xuống bàn nức nở.
Vẻ mặt Lý Tầm Hoan chợt có phần ảm đạm, nhỏ nhẹ nói: “Hai mươi năm nay, nếu không có ngươi, e rằng ta không có cách nào để sống qua ngày. Ta biết nỗi khổ của ngươi, cũng cảm thấy mình bắt ngươi phải thiệt thòi nhiều. Từ nay về sau, mong ngươi chấn hưng lại hùng phong thuở trước. Được như thế, dù ta...”
Đại hán râu đột nhiên nhảy dựng lên, lớn tiếng cười nói: “Thiếu gia, sao lại nói những chuyện làm mất hứng như thế? Chúng ta nên uống bằng ly lớn hơn mới phải!”
Hai người lúc khóc lúc cười, rồi lại vừa khóc vừa cười. Chủ quán cùng bọn tiểu nhị nhìn nhau nghĩ thầm: “Té ra cả hai tên này đều mắc bệnh điên khùng.”
Lúc ấy, lại có một người loạng choạng bước vào, gục đầu xuống quầy rượu, rên rỉ: “Rượu, rượu, mau mang rượu ra đây!”
Bộ điệu của hắn tựa như sắp ch.ết khát, không uống rượu lập tức là không được.
Lão chủ chau mày, nghĩ thầm: “Lại thêm một thằng điên nữa!”
*
* *
Người mới vào mặc một áo bào màu lam đã bạc phếch, hai tay áo và trên ngực dính một chút dầu mỡ. Móng tay hắn đầy bùn đất. Mặc dù đầu hắn đội khăn nho sĩ, nhưng tóc rối bời, để lộ một khuôn mặt vừa vàng vọt vừa ốm o. Hình như hắn là một nho sĩ nghèo khổ.
Tiểu nhị chau mày, mang lại một hũ rượu.
Gã hàn nho không cần dùng ly, bưng nguyên hũ uống ừng ực như cá kình uống nước. Gã nốc một hơi thì đã cạn hơn nửa hũ, nhưng đột ngột phun ra, thét lên: “Cái này mà gọi là rượu ư? Đã chua như giấm, lại còn pha nước.”
Tiểu nhị trừng mắt, nhưng nhìn qua một bên rồi nói: “Trong tửu điếm chúng ta cũng có rượu ngon, bất quá...”
Gã hàn nho phẫn nộ: “Ngươi tưởng đại gia không có tiền mua rượu ư? Đây, cầm lấy!”
Gã ném lên quầy một nén bạc năm mươi lượng.
Kỹ nữ và tiểu nhị giống nhau ở chỗ điều chỉnh nét mặt theo số tiền. Tên tiểu nhị trong tửu điếm này cũng không ngoại lệ, lập tức mang rượu ngon ra.
Gã hàn nho cũng không dùng ly, miệng người kề vào miệng hũ, uống một hơi cạn sạch rồi nhắm mắt ngồi yên, dường như chỉ còn thở ra chứ không thể hít vào, không nhúc nhích động đậy gì nữa. Người khác thì tưởng chừng hắn đã uống quá gấp nên bị nghẹn họng.
Nhưng Lý Tầm Hoan thì biết hắn đang thưởng thức và bình phẩm.
Sau một lúc, hắn thở dài, ánh mắt vụt sáng lên, gương mặt đã có chút sinh khí, từ từ nói: “Rượu tuy không ngon, nhưng ở chỗ như thế này có thể sơ sài một chút cũng được.”
Tiểu nhị cười, khom lưng nói: “Hũ rượu này tệ điếm đã để dành mười mấy năm rồi, đến hôm nay vẫn không nỡ lấy ra.”
Gã hàn nho đột nhiên vỗ bàn, lớn tiếng: “Hèn chi mùi rượu hơi nhạt, thì ra đã để quá lâu. Mau pha vào cho ta một hũ mới nấu, nhớ pha đúng ba phần, không được nhiều không được ít. Lấy thêm vài dĩa thức ăn để ta nhắm rượu.”
Tiểu nhị hỏi: “Chẳng hay lão gia muốn dùng thức nhắm gì?”
Gã hàn nho nói: “Ta cũng biết nơi này chẳng có thứ gì ngon. Ngươi làm một con vịt cho ta, lấy một ít gừng non để xào bộ lòng. Thế cũng đủ rồi, nhưng gừng dứt khoát phải là gừng non, lông vịt phải nhổ thật sạch!”
Hắn có vẻ nghèo đói, nhưng về vấn đề ăn uống thì lại chẳng chút mơ hồ. Lý Tầm Hoan cảm thấy rất hứng thú, nếu trong lúc bình thường chắc chắn chàng sẽ sang đó, tạm thời kết giao bằng hữu để uống một phen cho thỏa thích. Nhưng lúc này, chàng cảm thấy mình có thể ngã xuống bất kỳ lúc nào, không nên liên lụy, làm người khác phải buồn khổ.
Gã hàn nho thì coi như chẳng thấy ai, cứ tự rót rượu, tự cạn ly. Mắt hắn hầu như không nhìn thấy gì khác, ngoài rượu.
Ngay lúc đó, chợt nghe tiếng vó ngựa khua vang rồi dừng ngay trước cửa quán. Mặt gã hàn nho đột nhiên biến sắc. Hắn định đi ra, nhưng liếc nhìn hũ rượu, lại ngồi xuống uống tiếp ba ly, gắp một miếng lòng vịt, từ từ nhấm nháp, ngâm nga: “Tửu hương lộ thượng chí, tha xứ bất công hành. Ha ha... Đường nào có rượu ta đi. Những nơi không rượu làm gì có ta.”
Bên ngoài có tiếng quát lớn: “Tốt lắm. Tên tửu quỷ còn muốn chạy đằng trời à?”
Một giọng khác quát theo: “Ta đã biết mà, chỉ trong tửu điếm mới tìm được hắn!”
Cùng với tiếng quát, năm sáu người cùng lúc xông vào vây lấy gã hàn nho. Cả năm người đều mặc y phục chẽn, lưng đeo đao kiếm sáng ngời, thân thủ xem ra cũng không phải tệ.
Một tên ốm yếu mặt dài, tay cầm roi ngựa chỉ vào mũi gã hàn nho, hạch sách: “Nhận tiền thì phải cứu nạn. Tại sao ngươi lấy tiền rồi mà lại không chẩn bệnh, trốn ra đây uống rượu, như thế thì còn nghĩa lý gì nữa?”
Gã hàn nho cười hề hề: “Không lẽ các vị chưa hiểu đạo lý này sao? Chỉ vì ta đang nổi cơn thèm rượu mà thôi! Mai Nhị tiên sinh khi lên cơn nghiện, thì dù trời sập trước mặt cũng uống rượu xong mới la lên. Làm sao ta còn tâm trí để chữa bệnh cho người?”
Một đại hán mặt rỗ nói: “Triệu lão đại! Ngươi nghe thấy chưa? Thằng nghiện rượu này không phải là người tốt, chỉ cần tiền bạc đến tay thì cha mẹ vợ con cũng không nhìn nhận!”
Đại hán mặt dài phẫn nộ nói: “Cái tật của thằng nghiện rượu này ai mà không biết, nhưng bệnh của lão tứ không có hắn chữa thì không được. Nếu ta giục hắn thì hắn sẽ chữa bậy bạ. Ngươi có biện pháp nào khác chăng?”
Lý Tầm Hoan cứ tưởng bọn chúng đến phục thù gì đó, nhưng nghe câu chuyện mới biết vị Mai Nhị tiên sinh này là một thầy lang ở giang hồ, đã lấy tiền bạc mà không chịu trị bệnh.
Bọn mới đến trông rất hung tợn, quát thét om sòm, nhưng hắn vẫn ngồi vững như Thái Sơn, uống liền liền hết ly này đến ly khác.
Triệu lão đại vung roi ngựa trong tay, thoắt một cái đã cuốn hũ rượu trước mặt hắn xuống đất, rồi lớn tiếng: “Đừng lôi thôi nữa. Chúng ta đã tìm được ngươi thì ngươi phải ngoan ngoãn theo chúng ta về chữa bệnh! Chỉ cần chữa khỏi bệnh của lão tứ, ta đảm bảo ngươi lại có rượu uống dài dài.”
Nhìn hũ rượu bể nát, Mai Nhị tiên sinh thở dài: “Bọn ngươi đã biết được tính khí của Mai Nhị tiên sinh ta, thì chắc phải biết ta bình sinh có ba điều không trị.”
Triệu lão đại trừng mắt hỏi: “Ba điều gì không trị?”
Mai Nhị tiên sinh nói: “Thứ nhất, tiền chẩn mạch không trả trước, không trị. Mà trả thiếu một phân cũng không trị!”
Đại hán mặt rỗ sừng sộ nói: “Chúng ta có trả thiếu ngươi phân nào đâu?”
Mai Nhị tiên sinh điềm nhiên nói tiếp: “Thứ hai, lễ phép không đủ hay lời lẽ bất kính, không trị. Thứ ba, quân cường đạo trộm cướp giết người, không trị!”
Hắn thở ra rồi lắc đầu nói: “Bọn bay đã phạm tới hai điều, còn muốn Mai Nhị ta đi chữa bệnh, thì thật là ngu ngốc, chẳng khác người điên leo lên xà nhà ngồi câu cá.”
Tên kia tức giận đến phình cổ lên, hùng hổ gầm gừ: “Không trị thì sẽ lấy mạng ngươi.”
Mai Nhị tiên sinh điềm nhiên: “Mất mạng thì lại càng không trị.”
Đại hán mặt rỗ xoay tay phóng một chưởng, cả chiếc ghế lẫn Mai Nhị tiên sinh văng ra bảy tám thước, lăn dưới đất, khóe miệng lão đã rướm máu.
Thấy thái độ điềm tĩnh của Mai Nhị tiên sinh, Lý Tầm Hoan tưởng lão là một dị nhân trên chốn giang hồ, cao thâm không lộ ra ngoài. Bây giờ chàng mới biết lão chỉ cứng miệng, còn tay chân chẳng cứng chút nào.
Triệu lão đại rút đao quát lớn: “Ngươi còn dám nói nửa chữ không, đại gia sẽ chặt một cánh tay của ngươi trước rồi mới nói tiếp.”
Mai Nhị tiên sinh lau miệng nói: “Không trị là không trị! Mai Nhị tiên sinh mà sợ bọn tiểu tặc tụi bây sao?”
Triệu lão đại thét lên, nhỏm lên muốn phóng tới.
Đại hán râu bỗng vỗ bàn quát lớn: “Ở đây là chỗ uống rượu. Ai không uống rượu thì cút hết đi.”
Tiếng quát bất ngờ như sấm nổ giữa trời quang đãng, làm Triệu lão đại giật mình, bất giác lui lại nửa bước, trừng mắt: “Ngươi... ngươi là thằng nào mà dám đến đây xen vào việc của đại gia?”
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Cút đi vẫn chưa đủ thú vị. Bảo chúng bò ra ngoài đi.”
Đại hán lại thét: “Thiếu gia bảo chúng bay bò ra, có nghe thấy không?”
Thấy một người bệnh hoạn không còn khí lực, một người say đến nỗi mắt lờ đờ, gan của Triệu lão đại phục hồi kích thước như cũ, hùng hổ nói: “Vậy là các ngươi không biết điều. Đại gia sẽ dùng bọn ngươi mà khai đao cũng được!”
Ánh đao lóe lên, ngọn đao trong tay hắn chém thẳng vào Lý Tầm Hoan.
Đại hán râu chau mày, đưa cánh tay lên đỡ.
Hình như hắn đã say quá rồi, dám dùng cánh tay đỡ đao bén. Chủ quán cũng không nhịn nổi, la lớn lên, cứ tưởng là máu sắp chảy đầm đìa, cánh tay sắp đứt lìa ra.
*
* *
Nào ngờ sau khi ngọn đao chém xuống, cánh tay vẫn nguyên lành như chưa có ngọn gió nào thổi qua, nhưng ngọn đao lại dội ngược lại, tuột ra khỏi tay. Toàn thân Triệu lão đại lắc lư đứng không vững, lảo đảo mấy cái, rồi thụt lùi mở miệng hô hoán: “Tiểu tử này có công phu hoành luyện Kim chung trảo Thiết bố sam, bọn ta gặp ma quỉ rồi!”
Đại hán mặt rỗ cũng biến sắc mặt, cười xảo trá: “Xin bằng hữu cho biết cao danh quí tính. Chúng ta không đánh không quen, mong rằng sau này có thể kết làm bằng hữu.”
Đại hán râu lạnh lùng: “Thứ ngươi mà đòi kết giao bằng hữu với ta à? Cút đi!”
Triệu lão đại nhảy tới hét lớn: “Bằng hữu đừng hϊế͙p͙ người quá đáng, nên biết Hoàng Hà Thất Giao bọn ta không phải dễ bắt nạt đâu. Nếu là...”
Hắn chưa dứt lời thì đã bị gã mặt rỗ kéo lại nói nhỏ mấy câu, vừa nói vừa liếc nhìn con dao nhỏ để cạnh chén rượu của Lý Tầm Hoan.
Sắc mặt của Triệu lão đại không còn chút máu, run giọng: “Không phải hắn đâu.”
Gã mặt rỗ nhẹ giọng: “Không phải hắn thì là ai? Nửa tháng trước, ta đã nghe lão rùa đen ở Long Thần miếu nói hắn đã nhập quan trở lại. Nhiều năm trước lão rùa đen đã từng gặp hắn, chắc không nhìn lộn đâu.”
Triệu lão đại nói: “Nhưng con ma bệnh hoạn này....”
Gã mặt rỗ gắt: “Tên này tinh thông đủ món ăn nhậu, trai gái, cờ bạc, nên sức khỏe chẳng bao giờ tốt. Nhưng con dao của hắn...”
Vừa đề cập đến con dao, giọng hắn run rẩy: “Không ai học hết chữ ngờ. Đối với bất cứ ai, chúng ta cũng có thể ngang tàng, nhưng sao chúng ta cứ phải đụng chạm đến hắn chứ?”
Triệu lão đại cười khổ: “Nếu ta sớm biết hắn ở đây thì dù kề dao tận cổ, ta cũng không vào.”
Hắn đằng hắng hai tiếng, mỉm cười cúi mình nói: “Bọn tiểu nhân có mắt không tròng, không nhận ra lão nhân gia nên đã quấy nhiễu tửu hứng, thật đáng tội ch.ết. Bọn tiểu nhân xin lui.”
Không biết có nghe thấy bọn chúng nói không, Lý Tầm Hoan cứ tiếp tục uống rượu và tiếp tục ho, tựa như không có chuyện gì.
Bọn người đó xông vào hùng hục như hổ, nhưng rút lui êm dịu như chó cúp đuôi.
Vị Mai Nhị tiên sinh kia giờ mới từ từ bò dậy, nhưng không đến chỗ Lý Tầm Hoan để tạ ơn. Lão vừa đặt mông xuống ghế, đã vỗ bàn quát lớn: “Rượu, mau đem rượu qua đây!”
Bọn tiểu nhị dụi mắt, không ai có thể tin rằng người có khẩu khí ngang tàng này lại vừa bị đánh tả tơi, phải bò lê bò lết dưới đất.
Thực khách trong tửu điếm đã chạy trốn sạch, chỉ còn lại ba người ngồi. Rượu từng ly từng ly uống cạn, uống nhiều nhưng nói ít.
Lý Tầm Hoan nhìn bầu trời ngoài cửa sổ, đột nhiên cười: “Rượu quả nhiên có nhiều điều kỳ lạ! Khi không muốn say thì cái say lại đến rất nhanh, nhưng khi muốn say thì không thể nào say được!”
Mai Nhị tiên sinh đột nhiên cũng ngước mặt nhìn trời, cười ha hả: “Nhất túy giải thiên sầu; Túy tử thắng phong hầu. Ha ha! Say sưa giải được ngàn sầu; ch.ết say so với phong hầu còn hơn. Có kẻ muốn say cho đến ch.ết, nhưng tiếc rằng ta không muốn để hắn thoải mái mà ch.ết!”
Đại hán râu khẽ chau mày. Mai Nhị tiên sinh loạng choạng bước qua, nhìn thẳng Lý Tầm Hoan: “Ngươi có tự biết mình còn sống được bao lâu không?”
Lý Tầm Hoan lãnh đạm đáp: “Có lẽ không lâu!”
Mai Nhị tiên sinh hỏi tiếp: “Biết mình còn sống không lâu, sao không chuẩn bị hậu sự, lại còn đến đây uống rượu?”
Lý Tầm Hoan cười: “Sinh tử là lẽ thường. Sao có thể vì chuyện vặt đó mà làm lỡ tửu hứng?”
Mai Nhị tiên sinh vỗ tay cười lớn: “Không sai! Chuyện sinh tử là chuyện nhỏ, uống rượu mới là chuyện lớn. Ngươi nói cũng dễ nghe lắm.”
Lão ta lại trừng mắt nhìn Lý Tầm Hoan, hỏi: “Ngươi có biết ta là ai không?”
Lý Tầm Hoan cười: “Chưa được quen biết.”
Mai Nhị tiên sinh trố mắt: “Ngươi thật sự không biết ta là ai ư?”
Đại hán râu không nhịn nổi, quát lên: “Không biết là không biết, sao ngươi lại lôi thôi thế?”
Mai Nhị tiên sinh không lý gì đến hắn, cứ trừng trừng nhìn Lý Tầm Hoan: “Nếu thế thì ngươi cứu ta không phải vì muốn xin ta trị bệnh ư?”
Lý Tầm Hoan cười: “Nếu các hạ muốn uống rượu thì cứ qua đây, uống với ta mấy ly. Còn nếu muốn trị bệnh thì xin mời đi nơi khác, đừng làm mất tửu hứng của ta!”
Mai Nhị tiên sinh nhìn Lý Tầm Hoan hồi lâu không chớp mắt, rồi từ từ nói: “Rất là may mắn, rất là may mắn. Ngươi gặp được ta, quả là cực kỳ may mắn!”
Lý Tầm Hoan nói: “Ta không có tiền bạc để chẩn mạch, mà cũng không hơn gì bọn cường đạo là mấy. Xin mời các hạ trở về bàn!”
Nào ngờ Mai Nhị tiên sinh lắc đầu: “Không được, không được. Bệnh của người khác thì ta không trị, nhưng bệnh của ngươi thì ta phải trị. Muốn ta không trị thì ngươi phải giết ta trước.”
Hồi nãy, người ta đòi giết hắn thì hắn nhất định không trị, bây giờ gặp kẻ không cần trị thì lại nằng nặc đòi trị. Đám tiểu nhị chỉ muốn trở về nhà để ngủ ba ngày ba đêm, không muốn thấy ba gã điên này nữa. Nếu ba gã cứ tiếp tục nói chuyện điên khùng như thế, e rằng ai nghe phải đều tức tối mà ch.ết.
Đại hán râu động tâm, hỏi: “Ngươi quả thật trị được bệnh của thiếu gia?”
Mai Nhị tiên sinh ngạo nghễ nói: “Trừ Mai Nhị tiên sinh ta ra, chỉ sợ trong thiên hạ không còn ai trị được bệnh của hắn!”
Đại hán râu đứng phắt lên, nắm lấy cổ tay lão: “Ngươi có biết người này mắc bệnh gì không?”
Mai Nhị tiên sinh trừng mắt: “Ta không biết thì còn ai biết? Ngươi tưởng cái gã họ Hoa đó có thể chế được Hàn Kê Tán ư?”
Đại hán râu thất thanh hỏi lại: “Hàn Kê Tán? Chất độc thiếu gia trúng là Hàn Kê Tán ư?”
Mai Nhị tiên sinh cười đắc ý: “Ngoài Hàn Kê Tán của Mai gia, trên thế gian này chẳng còn loại độc nào làm khó được Lý Tầm Hoan.”
Đại hán râu vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ: “Vậy Hàn Kê Tán của Hoa Phong là do ngươi chế?”
Mai Nhị tiên sinh cười lớn: “Ngoài Diệu lang trung Mai Nhị tiên sinh, còn ai chế được Hàn Kê Tán? Các ngươi kiến thức nông cạn, ngay việc này cũng không biết.”
Đại hán râu mừng rỡ nói: “Thì ra ngươi là Diệu Lang Trung ở trong Thất Diệu Nhân. Thì ra thuốc độc này do ngươi chế. Người chế ra độc dược, tất sẽ có thuốc giải. Thì ra thiếu gia được cứu rồi.”
Lý Tầm Hoan cười buồn: “Thì ra người ta muốn sống đã là khó, mà muốn ch.ết một cách yên tĩnh cũng chẳng dễ gì!”
*
* *
Cỗ xe được cột thêm mấy con ngựa, chạy băng băng dưới trời tuyết.
Lần này, đại hán râu đã thuê một tên phu xe, gã ngồi trong xe để chăm sóc cho Lý Tầm Hoan, và cũng để canh phòng Diệu Lang Trung.
Gã cũng chưa yên tâm lắm, không ngớt hỏi: “Ngươi đã có thuốc giải chưa? Sao lại phải đi tìm người khác? Tìm ai? Ở đâu? Có kịp không?”
Mai Nhị tiên sinh chau mày: “Người ta tìm không phải là ai xa lạ, chính là Mai Đại tiên sinh, anh ruột ta. Hắn ở gần đây thôi, ngươi cứ yên tâm. Những bệnh nhân mà ta đã nhận chữa trị thì không thể ch.ết được.”
Đại hán râu hỏi: “Sao phải tìm hắn?”
Mai Nhị tiên sinh đáp: “Bởi vì thuốc giải Hàn Kê Tán cất ở nhà hắn. Lý do này ngươi có vừa ý không?”
Đại hán râu giờ mới lặng thinh, không vặn hỏi nữa.
Mai Nhị tiên sinh hỏi lại hắn: “Môn công phu của ngươi luyện là Kim chung trảo Thiết bố sam hay là Thập tam thái bảo hoành luyện?”
Đại hán râu trừng mắt nhưng vẫn đáp: “Thiết bố sam!”
Mai Nhị tiên sinh mỉm cười lắc đầu: “Cái công phu ngu dốt đó, ngoài việc có thể hù dọa bọn tiểu tặc tầm thường, không còn ích lợi gì nữa. Không ngờ trên đời lại có kẻ luyện.”
Đại hán râu lạnh lùng: “Công phu ngu dốt cũng còn hơn là chẳng có công phu.”
Mai Nhị tiên sinh không giận, lại lắc đầu cười: “Nghe nói muốn luyện Thiết bố sam thì nhất định phải là đồng tử, không được gần nữ sắc. Hy sinh như thế có phải là lớn lắm không?”
Đại hán râu “Hừ” một tiếng.
Mai Nhị tiên sinh lại nói: “Trong vòng năm mươi năm nay chỉ có một người khổ luyện cái công phu ngu dốt đó mà thôi, tên là Thiết giáp kim cang Thiết Truyền Giáp. Nhưng nghe đồn hai mươi năm trước hắn đã bị ai đó đánh cho một chưởng rơi xuống vực sâu, không biết sống ch.ết ra sao. Không chừng hắn chưa ch.ết, vẫn còn có thể ngồi uống rượu.”
Đại hán râu tựa như đang cắn chặt một cái chân gà, bất luận Mai Nhị tiên sinh nói gì hỏi gì, gã cũng một mực lặng thinh. Mai Nhị tiên sinh đành phải nhắm mắt dưỡng thần.
Không biết bao lâu sau, đại hán râu lại hỏi: “Nghe nói Thất Diệu Nhân người nào cũng ti tiện vô sỉ, nhưng dường như ngươi không giống thế.”
Mai Nhị tiên sinh vẫn nhắm mắt, đáp: “Lấy tiền chẩn mạch mà không trị bệnh, há chẳng phải ti tiện vô sỉ ư?”
Đại hán râu cười: “Nếu bằng lòng trị bệnh cho bọn đó, thì mới là vô sỉ. Lấy tiền và trị bệnh là hai việc khác nhau. Tiền của hạng người đó đúng là nên cướp lấy, càng trắng trợn càng tốt.”
Mai Nhị tiên sinh cũng cười: “Ta không ngờ, con người như ngươi mà cũng không đến nỗi ngu dốt!”
Đại hán râu than thở: “Tiểu nhân bị người đời xếp hạng cũng chưa hẳn là tiểu nhân, quân tử được người đời nhìn nhận cũng chưa chắc là quân tử.”
Lý Tầm Hoan ngồi dựa vào thành xe, khóe miệng phảng phất nụ cười. Chàng nửa như đang nghe họ nói chuyện, nửa như mơ màng một việc gì, tâm trí không biết ở nơi nào.
Mọi sự ô uế trên đơi này hình như có thể bị tuyết chôn vùi tất cả. Từ cửa xe nhìn ra, trời đất một màu trắng xóa tinh khiết. Thì ra được sống cũng là một chuyện tương đối tốt.
Tâm trí Lý Tầm Hoan đang chập chờn một bóng hình.
Nàng đang mặc y phục màu tím nhạt, khoác áo choàng cũng màu tím. Khi đứng giữa trời đất trắng xóa như thế này, nàng trông như một đóa Tử la lan.
Chàng nhớ, nàng rất thích tuyết. Lúc tuyết xuống, nàng thường kéo tay chàng chạy ra sân, ném tuyết vào người chàng, rồi cười khanh khách chạy trốn, buộc chàng phải đuổi theo.
Chàng nhớ, lúc chàng dẫn Long Tiêu Vân về, tuyết cũng đang rơi, lúc đó nàng đang ngồi ở tiểu đình cạnh Mai Hoa Lâm, xem hoa tuyết đáp lên hoa mai.
Chàng nhớ, lan can của tiểu đình đó sơn màu đỏ, hồng mai cũng đỏ, nhưng khi nàng ngồi trên lan can ấy, thì hoa và lan can tựa như đã mất hết màu sắc.
Lúc đó chàng không để ý thấy Long Tiêu Vân biểu lộ tình cảm gì, nhưng sau này tưởng tượng thấy. Ngay lần đầu gặp nàng, có lẽ Long Tiêu Vân đã ngây ngất đắm say.
Bây giờ tiểu đình ấy có còn không? Nàng có còn thường ngồi trong tiểu đình, dựa lan can đỏ để xem hoa tuyết đáp lên hoa mai không?
Lý Tầm Hoan quay lại nhìn Mai Nhị tiên sinh, cười: “Trong xe có rượu, chúng ta lại uống mấy ly.”
*
* *
Tuyết rơi lúc nhặt lúc thưa.
Theo hướng tay Mai Nhị tiên sinh chỉ, cỗ xe rẽ vào một con đường nhỏ ven sườn núi, đến trước một cây cầu nhỏ thì hết đường đi.
Trên mặt tiểu kiều, tuyết trải mới nguyên không một dấu chân người, chỉ thấy dấu chân của chó in rõ. Dưới mắt Lý Tầm Hoan lúc này thì ngay cả những dấu chân chó cũng giống như những đóa hoa mai rơi rụng cạnh lan can.
Đại hán râu vịn Lý Tầm Hoan đi lên tiểu kiều, chợt thấy trước mắt có rừng mai, trong rừng mai có năm ba gian nhà bằng đá. Hoa đỏ, nhà trắng, cảnh sắc giống như một bức tranh.
Trong rừng mai văng vẳng có tiếng người, khi đến gần mới thấy một lão già mặc y phục rất đàng hoàng, đội mũ cao, đang chỉ huy hai gã đồng tử rửa sạch tuyết trên cây mai.
Đại hán râu hỏi nhỏ: “Vị này là Mai Đại tiên sinh ư?”
Mai Nhị tiên sinh cười: “Trừ cái lão điên ấy ra thì còn có ai đem nước đi rửa băng tuyết?”
Đại hán râu bật cười: “Chẳng lẽ lão không biết rằng sau khi rửa thì tuyết lại rơi trên cây, mà nước cũng lập tức đóng thành băng hay sao?”
Mai Nhị tiên sinh thở dài rồi nói: “Lão có thể phân biệt bất cứ bức họa nào là giả hay thật, có thể chế ra độc dược lợi hại nhất, có thể chế ra giải dược tuyệt diệu nhất. Thế nhưng đạo lý đơn giản như thế này lão lại hoàn toàn không hiểu!”
Dường như thanh âm đã vọng tới nơi. Mai Đại tiên sinh quay lại nhìn, lập tức giống như nhìn thấy chủ nợ, thất sắc la hoảng, vớ lấy áo bào lao vào nhà, miệng hô hoán: “Nhanh, nhanh! Phải thu dọn hết những bức họa cùng thư pháp, nếu không, cái thằng phá nhà này mà nhìn thấy sẽ đánh cắp ngay để bán lấy tiền mua rượu.”
Mai Nhị tiên sinh cười ha hả: “Lão Đại cứ yên tâm, hôm nay ta đã có người mời rượu rồi. Ta dẫn đến cho ngươi hai vị bằng hữu.”
Chưa dứt lời, Mai Đại tiên sinh đã nhắm mắt xua tay: “Ta không muốn gặp bằng hữu của ngươi. Bằng hữu của ngươi không có tên nào đàng hoàng, chỉ nhìn một cái là xúi quẩy đến ba năm!”
Mai Nhị tiên sinh nhảy dựng lên, lớn tiếng quát: “Ái chà! Ngươi khinh thường ta quá! Chẳng lẽ ta không kết giao được với bằng hữu đàng hoàng hay sao? Được, được! Lý Thám Hoa, lão đã phụ hảo ý, chúng ta đi thôi.”
Đại hán râu lo lắng hỏi: “Chưa lấy thuốc giải thì làm sao đi được?”
Nào ngờ, Mai Đại tiên sinh vụt quay đầu lại, đi về hướng bọn họ, vẫy tay nói: “Khoan, khoan... Có phải ngươi đang nhắc tới Tiểu Lý Thám Hoa, một nhà bảy vị tiến sĩ, ba đời thám hoa không?”
Mai Nhị tiên sinh giọng lạnh lùng: “Chẳng lẽ lại còn một vị đệ tam Lý Thám Hoa khác hay sao?”
Mai Đại tiên sinh nhìn chăm chăm Lý Tầm Hoan: “Chính là vị này ư?”
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Không dám. Tại hạ chính là Lý Tầm Hoan!”
Mai Đại tiên sinh nhìn ngang nhìn dọc chàng một hồi, bỗng nhiên nắm lấy tay Lý Tầm Hoan cười lớn: “Nghe danh hai mươi năm, không ngờ có ngày được gặp... Lý huynh, Lý huynh... huynh làm lão phu ngày đêm mong nhớ đến ch.ết đi được.”
Lão ta vừa ngạo mạn đã cung kính, đột nhiên tỏ thái độ thân tình khiến Lý Tầm Hoan không khỏi bất ngờ.
Mai Đại tiên sinh vòng tay, khom mình gần sát đất, cung kính: “Lý huynh đừng trách! Vừa rồi ta thất lễ chỉ vì lão đệ của ta thật chẳng ra người, hai năm trước có dẫn về một tên bằng hữu, bảo rằng kẻ đó là một chuyên gia về thư họa, kêu ta đem tàng thư ra cho hắn giám định. Nào ngờ chúng dùng hai cuộn giấy trắng để tráo lấy hai bức danh phẩm của Tào Bất Hưng rồi cao chạy xa bay, hại ta ba tháng ăn ngủ không yên.”
Lý Tầm Hoan lên tiếng bào chữa: “Xin Mai Đại tiên sinh đừng trách hắn. Khi tửu hứng nổi lên mà không tiền bạc, mùi vị đó thật không dễ chịu chút nào.”
Mai Đại tiên sinh cũng cười: “Nếu vậy, thì ra Lý huynh cũng là người trong tửu đạo?”
Lý Tầm Hoan cười: “Thiên tử hô lai bất thượng thuyền. Tự đạo thần thị tửu trung tiên. Ha ha! Thiên tử kêu réo cũng chẳng lên thuyền. Ta đây say mèm mới giống thần tiên.”
Mai Đại tiên sinh cười: “Hay lắm, hay lắm! Kỳ Hạc! Ngươi ngừng tay, đừng rửa hoa mai nữa. Mau mau đào hai hũ rượu Trúc Diệp Thanh lên, để ta mời Lý Thám Hoa thưởng thức.”
Lão ta vừa cười vừa vái chào, nói tiếp: “Hoa đẹp dành tặng giai nhân, rượu ngon để đãi danh sĩ. Hai hũ rượu này ta đã chôn dưới đất hai mươi năm, chỉ dành thết đãi đại danh sĩ như Lý huynh.”
Mai Nhị tiên sinh xen vào: “Câu này nhất định không phải giả dối. Những vị khách khác, đừng nói rượu làm chi, ngay cả một hũ giấm lão cũng không cho. Nhưng hôm nay Lý huynh đến không phải để uống rượu!”
Mai Đại tiên sinh nhìn Lý Tầm Hoan một cái, mỉm cười: “Chất độc Hàn Kê Tán chỉ là chuyện nhỏ. Lý huynh cứ uống cho thỏa thích, tại hạ sẽ sắp xếp sau.”
Thảo đường bày biện cực kỳ trang nhã hài hòa. Hũ rượu Trúc Diệp Thanh đã chôn hai mươi năm tỏa mùi thơm phức.
Rượu cạn ba tuần, Mai Đại tiên sinh mới nói: “Nghe đồn bức Thanh Minh Thượng Hà Đồ trong hoàng cung là đồ giả, còn tranh thật là ở tôn phủ Lý huynh. Chẳng hay chuyện đó đúng sai thế nào?”
Hiểu ra nguyên do được tiếp đãi nồng hậu, Lý Tầm Hoan cười: “Chuyện đó không sai.”
Mai Đại tiên sinh hớn hở: “Giả tỉ Lý huynh cho mượn xem qua, tại hạ sẽ cảm kích vô cùng!”
Lý Tầm Hoan nói: “Mai Đại tiên sinh đã thích, tại hạ chẳng dám khước từ. Chỉ tiếc rằng tại hạ cũng là một tên phá gia chi tử, mười năm trước gia sản khánh kiệt, cả bức họa ấy cũng về tay người khác.”
Mai Đại tiên sinh ngồi lặng như tượng đá, tựa như vừa bị đập một côn lên đầu, không ngừng chép miệng: “Đáng tiếc, đáng tiếc...”
Lão nói luôn một hơi mười mấy tiếng “đáng tiếc”, rồi vùng đứng dậy lớn tiếng kêu: “Kỳ Hạc! Đem số rượu còn thừa cất đi, Lý Thám Hoa uống đủ rồi!”
Mai Nhị tiên sinh chau mày: “Không có Thanh Minh Thượng Hà Đồ thì không có rượu uống nữa ư?”
Mai Đại tiên sinh lạnh lùng: “Hũ rượu này vốn không phải để mời!”
Lý Tầm Hoan không giận, lại còn cười. Chàng thấy lão tuy hẹp hòi lại cổ quái, nhưng tính khí trung thực, ít ra cũng không phải là ngụy quân tử.
Nhưng đại hán râu nhịn không nổi, nhảy dựng lên, lớn tiếng hét: “Không có Thanh Minh Thượng Hà Đồ thì cũng không có thuốc giải sao?”
Tiếng hét của hắn quá lớn, khiến gian nhà chấn động tựa hồ muốn bay cả nóc.
Mai Đại tiên sinh hoàn toàn không biến sắc, vẫn lạnh lùng: “Rượu cũng không có, thì sao lại có thuốc giải?”
Đại hán râu nổi giận đùng đùng, dường như muốn nhảy sang, nhưng Lý Tầm Hoan ngăn lại, thản nhiên nói: “Mai Đại tiên sinh vốn không quen biết, dĩ nhiên không cần tặng thuốc giải cho chúng ta. Chúng ta đã được thưởng thức mỹ tửu rồi, sao lại còn thất lễ với chủ nhân?”
Đại hán dịu giọng: “Nhưng... thiếu gia... thiếu gia...”
Lý Tầm Hoan xua tay một cái, rồi chắp tay tươi cười: “Tiếc rằng cuộc gặp gỡ nào cũng có lúc chia tay. Tại hạ xin cáo lui vậy!”
Nào ngờ Mai Đại tiên sinh quay lại hỏi: “Ngươi không cần thuốc giải nữa ư?”
Lý Tầm Hoan lắc đầu: “Vật có chủ, tại hạ trước nay không thích nài xin.”
Mai Đại tiên sinh lại hỏi: “Nếu ngươi không có thuốc giải thì tính mạng như ngàn cân treo sợi tóc. Ngươi có biết không?”
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Sinh tử hữu mạng, tại hạ vốn không để ý.”
Mai Đại tiên sinh trố mắt nhìn Lý Tầm Hoan một hồi, dịu giọng nói: “Không sai. Cả Thanh Minh Thượng Hà Đồ mà ngươi cũng tặng cho người khác, còn nói gì đến sinh mạng bản thân? Người được như thế, thiên hạ khó tìm.”
Đột nhiên lão lớn tiếng: “Kỳ Hạc! Đem rượu ra đây!”
Đại hán râu vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, lên tiếng hỏi: “Còn thuốc giải thì sao?”
Mai Đại tiên sinh trừng mắt, lạnh lùng: “Đã có rượu, sao lại không có thuốc giải?”
7 - Đánh nhầm con của người xưa
Tiệc rượu vừa tàn, thuốc giải cũng bắt đầu công hiệu. Không đầy sáu giờ sau, Lý Tầm Hoan cảm thấy khí lực dần dần hồi phục.
Trời đã hừng sáng. Đại hán râu đã thức trắng đêm, nhưng vì vui vẻ nên tinh thần sảng khoái, chỉ hơi đau đầu vì uống rượu.
Mai Nhị tiên sinh hai tay ôm đầu, than thở: “Đáng ch.ết, đáng ch.ết! Trời lại sáng rồi.”
Đại hán râu hỏi: “Trời sáng thì có gì là không tốt?”
Mai Nhị tiên sinh thở ra: “Ta uống rượu chỉ sợ trời sáng. Trời chưa sáng thì uống bao nhiêu cũng không sao, nhưng trời vừa sáng là nhức đầu, không sao uống nổi!”
Lý Tầm Hoan đang nhắm mắt dưỡng thần, cũng bật cười: “Chẳng riêng tiên sinh như thế, đó là bệnh chung của người uống rượu.”
Mai Nhị tiên sinh nói: “Đã thế, nhân lúc trời chưa sáng hẳn, chúng ta cạn thêm vài ly nữa đã.”
Lý Tầm Hoan cười nói: “Ngưu ẩm như thế, e rằng Mai Đại tiên sinh phải đau lòng!”
Mai Nhị tiên sinh cười lớn: “Vì thế mà lão đã trốn biệt vào phòng. Mắt không thấy thì tâm cũng đỡ phiền.”
Uống xong ly rượu, Lý Tầm Hoan lại gập mình ho rũ rượi.
Mai Nhị tiên sinh chăm chú nhìn, hỏi: “Chứng ho này có từ bao lâu?”
Lý Tầm Hoan nói: “Khoảng mười năm.”
Mai Nhị tiên sinh chau mày: “Lẽ ra ngươi nên bỏ rượu. Bệnh ho làm yếu phổi, uống rượu e rằng...”
Lý Tầm Hoan cười: “Hại phổi? Ta còn có phổi để mà yếu ư? Phổi ta đã nát cả rồi!”
Chàng đột ngột ngừng nói, ánh mắt lóe lên, trầm giọng: “Lại có khách ghé thăm.”
Mai Nhị tiên sinh biến đổi nét mặt, nói: “Khách đến đây vào lúc nửa đêm, nhất định không phải khách của lão Đại. Chỉ sợ lại có người đến tìm ta.”
Đến lúc này Mai Nhị tiên sinh mới thoáng nghe tiếng bước chân nhẹ nhàng ở ngoài nhà vọng lại, không chỉ một người.
Một thanh âm cất lên: “Không biết đây có phải là Mai Hoa Thảo Đường chăng?”
Qua một lúc, nghe tiếng Mai Đại tiên sinh ở phòng khách vang lên: “Nửa đêm đến nhà, chẳng hay là trộm hay là cướp?”
Có tiếng trả lời: “Tại hạ đến để bái kiến, không phải trộm cướp, có chút lễ mọn kính dâng.”
Mai Đại tiên sinh cười lạnh: “Nửa đêm đến tặng quà, hiển nhiên không có hảo ý, xin chư vị trở về là hơn.”
Người ấy cười: “Đã thế, tại hạ chỉ còn cách mang bức họa của Vương Ma Khiết trở về.”
Mai Đại tiên sinh lạc giọng hỏi: “Vương Ma Khiết ư?”
Chưa dứt lời, cửa đã hé mở.
Mai Nhị tiên sinh khẽ chau mày: “Bọn này đã hiểu tính khí lão Đại, chọn đúng lễ vật đến viếng, tất có yêu cầu gì đây. Chúng ta ra xem thử là nhân vật thế nào.”
Nhưng lão không ra xem, chỉ mở hé cửa để nhìn.
Bọn đó gồm ba người. Một người nhỏ con, tuổi trạc tam tuần, ánh mắt lanh lợi, tay bưng một hộp gỗ dài dài.
Người thứ hai sắc diện trầm trọng, râu dài quá ngực, khoác trường bào đỏ tía thêu hoa lớn, ánh mắt rất có thần, mới nhìn cũng biết là người quen chỉ huy.
Người thứ ba là một chú bé trạc mười tuổi, khuôn mặt bầu bĩnh, đôi mắt tròn xoe, áo cánh màu đỏ có viền lông thỏ trắng, trông rất giống y phục của tượng Hồng Hài Nhi thường thấy.
Trừ chú bé ra, vẻ mặt hai người kia đang lo lắng.
Hán tử lanh lợi cầm hộp gỗ, vừa bước vào đã cúi mình cười nói: “Bức họa này chủ nhân ta mua rất đắt, đã được nhiều danh gia công nhận là bản thực, xin Mai Đại tiên sinh xem thử.”
Ánh mắt Mai Đại tiên sinh không rời chiếc hộp nhưng miệng lại đáp: “Không có công thì không dám nhận thưởng. Chẳng hay các vị cần gì?”
Người ấy cười: “Tại hạ xin Mai Đại tiên sinh chỉ cho phương pháp để tìm Mai Nhị tiên sinh.”
Mai Đại tiên sinh lập tức thở phào, tươi tỉnh đáp: “Chuyện đó dễ lắm.”
Lão ta vừa đón lấy cái hộp vừa kêu lớn: “Lão Nhị ra đây, có người tìm ngươi.”
Mai Nhị tiên sinh lắc đầu thở ra: “Hừ! Có Vương Ma Khiết thì cả huynh đệ cũng không màng.”
Lão già áo tía và hán tử lanh lợi vừa gặp Mai Nhị tiên sinh là mừng ra mặt. Nhưng chú bé Hồng Hài Nhi chau mày nhìn Mai Nhị tiên sinh hỏi: “Một tên bẩn thỉu như ngươi mà biết trị bệnh ư?”
Mai Nhị tiên sinh cười hì hì: “Bệnh nặng thì trị không khỏi, bệnh nhẹ thì trị không ch.ết, bệnh vừa vừa thì phải ráng sức.”
Lão già áo tía hình như sợ chú bé nói bậy, đằng hắng rồi cất tiếng: “Chúng ta ngưỡng mộ danh tiếng diệu thủ hồi xuân của tiên sinh đã lâu, cho nên cố mời cho được. Bất luận tiền chẩn mạch bao nhiêu cũng xin trao trước.”
Mai Nhị tiên sinh cười: “Té ra cả tính khí của ta chư vị cũng tường tận. Nhưng chư vị không sợ ta lấy tiền rồi chạy trốn sao?”
Lão già áo tía trầm mặt xuống, lặng thinh, nhưng ánh mắt rõ ràng đang nói: Ngươi có chạy đàng trời!
Hán tử lanh lợi cười nói: “Nếu tiên sinh bằng lòng, ngoài tiền chẩn mạch trả trước, sau này lại còn hậu tạ.”
Mai Nhị tiên sinh nói: “Ngoài tiền chẩn mạch trả trước, các vị có biết cái lệ ba điều không trị của tại hạ chăng? Kẻ cướp bất trị, kẻ trộm bất trị...”
Hán tử nhỏ con ngắt lời: “Xin giới thiệu với tiên sinh, kẻ hèn Ba Anh này chỉ là hạng vô danh tiểu tốt, nhưng chủ nhân ta, Tần Hiếu Nghĩa lão gia là một hiệp khách tiếng tăm lừng lẫy giang hồ, chắc tiên sinh cũng đã từng nghe!”
Mai Nhị tiên sinh nhướng mắt: “Có phải Thiết đảm chấn bát phương Tần Hiếu Nghĩa không?”
Ba Anh đáp: “Vâng, chính lão gia ta!”
Mai Nhị tiên sinh gật gù: “Ừ, danh tiếng người này cũng không nhỏ. Vài hôm nữa, chư vị lại đến đây, nếu rảnh rỗi ta sẽ đi cùng một phen.”
Lão chưa dứt lời, chú bé Hồng Hài Nhi nhảy dựng lên: “Chúng ta lịch sự với tên láo lếu này làm chi? Trói quách mang về là xong.”
Ba Anh lật đật kéo tay cậu bé lại, cười dàn hòa: “Nếu bệnh nhân không trầm trọng thì để lại đôi ba ngày cũng chẳng sao. Nhưng bệnh tình đang nguy kịch, đừng nói vài ba ngày, vài ba giờ e cũng đã không kịp!”
Mai Nhị tiên sinh hỏi: “Bệnh nhân của các ngươi quan trọng, hay bệnh nhân của ta ở đây quan trọng?”
Ba Anh hỏi: “Tiên sinh đang có bệnh nhân ở đây ư?”
Mai Nhị tiên sinh gật đầu: “Không sai. Chưa trị lành bệnh cho hắn, ta chưa đi được.”
Ba Anh ngập ngừng: “Nhưng... nhưng bệnh nhân của bọn tại hạ là Tần đại thiếu gia, cũng là đệ tử tục gia độc nhất của chưởng môn Thiếu Lâm.”
Mai Nhị tiên sinh cũng nhảy chồm lên: “Con của Tần Hiếu Nghĩa thì sao? Đệ tử tục gia của chưởng môn Thiếu Lâm thì sao? Chẳng lẽ mạng hắn đáng giá hơn mạng bệnh nhân của ta?”
Tần Hiếu Nghĩa mắt như đổ lửa, nhưng vẫn đứng yên không nói. Hồng Hài Nhi đảo tròn đôi mắt: “Nếu bệnh nhân ở đây ch.ết thì sao?”
Mai Nhị tiên sinh cười lạnh nhạt: “Nếu hắn ch.ết thì dĩ nhiên không cần ta trị nữa. Tiếc là hắn không ch.ết nổi đâu!”
Hồng Hài Nhi cười khẩy một tiếng: “Chưa chắc!”
Vừa nói dứt, chú bé vụt bắn mình vào gian nhà kế bên, thân pháp nhanh như một mũi tên khiến đại hán râu cũng kinh ngạc. Ba Anh khẽ liếc Tần Hiếu Nghĩa, cả hai không ngăn cản gì.
Vừa vào bên trong, Hồng Hài Nhi nhìn chăm chăm Lý Tầm Hoan, lớn tiếng hỏi: “Ngươi chính là gã bệnh nhân đó ư?”
Lý Tầm Hoan cười: “Tiểu huynh đệ, chẳng lẽ ngươi muốn ta ch.ết sớm à?”
Hồng Hài Nhi trợn mắt: “Hoàn toàn không sai. Ngươi ch.ết rồi thì thằng cha bẩn thỉu đó mới chịu đi trị bệnh cho Tần đại ca.”
Cậu bé vừa nói vừa vung tay áo, trong tay áo phóng ra ba mũi tụ tiễn nhỏ xíu hướng thẳng vào mặt và yết hầu Lý Tầm Hoan, nhanh đến kỳ lạ, chính xác đến kỳ lạ, kình lực lại rất uy mãnh.
Không thể ngờ một cậu bé chưa tới mười tuổi lại có tâm tính ác độc và thủ pháp ghê gớm như thế. Nếu không phải Lý Tầm Hoan mà là một người nào khác, e rằng phải bỏ mạng dưới ám khí của nó.
Lý Tầm Hoan vừa đưa tay ra thì ba mũi tụ tiễn đã nằm gọn trong tay, chau mày nói: “Trẻ con mà đã ác độc như thế, lớn lên sẽ ra sao?”
Hồng Hài Nhi cười lạnh: “Ngươi đừng tưởng có công phu dùng tay không bắt tụ tiễn thì có thể giáo huấn ta.”
Cậu bé nhảy vọt lên một cái, trên tay đã có cặp đoản kiếm sáng loáng, chưa dứt lời đã hướng về Lý Tầm Hoan xuất liên tiếp bảy chiêu.
Đứa nhỏ này thân thủ linh hoạt, biến chiêu nhanh chóng, xuất thủ lại tàn độc khác thường, dù người lăn lộn giang hồ nhiều năm cũng chưa chắc sánh bằng. Mỗi chiêu thức đều như xuất ra bằng một mối thâm thù đại hận, chỉ muốn mỗi chiêu đâm cho đối phương thủng một lỗ to.
Lý Tầm Hoan thở dài: “Xem ra cậu bé này lớn lên sẽ là một tên Âm Vô Cực!”
Gã đại hán chau mày: “Âm Vô Cực nổi danh là Huyết Kiếm nhưng không sát hại kẻ vô tội, còn cậu bé này...”
Hồng Hài Nhi cười lạnh: “Âm Vô Cực là cái thá gì? Lúc bảy tuổi ta đã từng giết người. Còn hắn?”
Lý Tầm Hoan vẫn ngồi yên một chỗ, còn cậu ta vung đoản kiếm càng đánh lại càng ác độc, càng thâm hiểm hơn, nhưng không tài nào đả thương đối thủ.
Lý Tầm Hoan cười buồn: “Nó nói không sai. Âm Vô Cực lúc còn trẻ cũng không ác độc bằng nó!”
Gã đại hán trầm giọng: “Tên oắt con này lớn lên sẽ là họa lớn của võ lâm! Hay là...”
Lý Tầm Hoan chép miệng: “Ta thật tình không nỡ...“
Hồng Hài Nhi đánh ngót trăm chiêu vẫn không hạ thủ được, biết rằng hôm nay gặp phải nhân vật khó đối phó, tức đến đỏ mắt, nghiến răng: “Các ngươi có biết thân phụ ta là ai không? Các ngươi mà động đến sợi tóc ta, nếu không bị loạn đao phanh thây thì cũng bị chém làm tám khúc.”
Lý Tầm Hoan trầm mặt: “Như vậy nghĩa là ngươi dám giết người, chứ kẻ khác không dám đả thương ngươi ư?”
Hồng Hài Nhi vênh mặt: “Ngươi có gan lớn thì giết ta đi, chẳng thành vấn đề!”
Trầm ngâm một lúc, Lý Tầm Hoan nói thật chậm: “Lúc này ta vẫn chưa muốn ra tay, vì ta thấy ngươi còn nhỏ dại, nếu có người nghiêm dạy, có thể thành người hữu dụng. Bây giờ, nhân lúc ta chưa đổi ý, ngươi hãy lui ra!”
Hồng Hài Nhi tự biết mình khó mà đắc thủ, liền thu kiếm lại thở hổn hển, cất tiếng hỏi: “Võ công của ngươi khá lắm. Ngươi là ai? Tại sao trước nay ta chưa gặp ngươi?”
Lý Tầm Hoan hỏi lại: “Ngươi hỏi danh tính ta, không lẽ còn muốn phục thù hay sao?”
Hồng Hài Nhi cười đầy vẻ ngây thơ: “Ngươi đã tha mạng ta, sao ta còn dám phục thù? Ta phục ngươi lắm. Ta đã tấn công tới một trăm lẻ bảy kiếm, thế mà ngươi vẫn ngồi yên không nhúc nhích.”
Ánh mắt Lý Tầm Hoan sáng lên, cười hỏi: “Ngươi muốn học không?”
Cậu bé cả mừng: “Ngươi chịu thu ta làm đệ tử à?”
Lý Tầm Hoan cười: “Nếu ta có thể thay thân phụ ngươi dạy dỗ và quản thúc ngươi, thì sau này ngươi còn có thể trở thành người tốt.”
Không đợi Lý Tầm Hoan nói dứt, Hồng Hài Nhi đã phục xuống đất, lên tiếng: “Xin sư phụ nhận của đệ tử một lạy.”
Chữ “lạy” vừa ra khỏi miệng, ba vệt sáng từ sau lưng nó vút ra. Đó chính là Cẩn Bối Đê Đầu Hoa Trang Cung, chế tạo rất tinh xảo.
Rõ ràng toàn thân cậu bé đều là ám khí.
Bây giờ Lý Tầm Hoan mới thật sự cả kinh. Nếu chàng không có cái phản xạ của một người đánh quen trăm trận, thì lần này chắc hẳn sẽ trọng thương bởi tay đứa trẻ ác độc này.
Hồng Hài Nhi ám toán vẫn không trúng, lại nhảy vọt tới, thét lên: “Ngươi là cái thứ gì mà đòi thay thân phụ dạy dỗ ta? Ngươi không đáng thu nhận đồ đệ như ta!”
Đại hán râu xồm nghiêm mặt quát lớn: “Thằng nhãi này ác độc bẩm sinh, tâm tính sài lang, để lại không được đâu.”
Lý Tầm Hoan thở dài, phất nhẹ cánh tay.
*
* *
Biết Hồng Hài Nhi định giết người, nhưng Ba Anh và Tần Hiếu Nghĩa vẫn điềm nhiên, đứng yên không động đậy.
Mai Đại tiên sinh chỉ lo nhìn ngắm bức họa say mê, không màng tới mọi thứ xung quanh.
Mai Nhị tiên sinh chớp mắt: “Đứa nhỏ đó định giết người, chẳng lẽ các ngươi không quan tâm tới?”
Ba Anh xòe hai bàn tay ra, lớn tiếng cười: “Thật tình, chuyện của cậu bé ấy không ai quản được!”
Mai Nhị tiên sinh cười lạnh: “Nhưng nếu đứa nhỏ ấy bị giết thì sao?”
Ba Anh cười nhưng không đáp.
Mai Nhị tiên sinh lại nói: “Các ngươi yên tâm như thế, rõ ràng cho rằng võ công đứa trẻ ấy không tồi, chỉ giết người chứ không bị người giết, phải thế không?”
Nhịn không nổi, Ba Anh bật cười: “Võ công cậu ta rất khá, đã đánh thắng nhiều cao thủ giang hồ. Huống hồ cậu ta có một thân mẫu tốt, lại có một thân phụ còn tốt hơn. Người nào đã bại thì đành chịu thôi!”
Mai Nhị tiên sinh hỏi: “Thân phụ nó không quản thúc được nó hay sao?”
Ba Anh hỏi lại: “Có một đứa con thông minh như thế, thân phụ nào lại nhẫn tâm quản thúc quá nghiêm?”
Mai Nhị tiên sinh cau mặt: “Không sai. Thân phụ nó thấy con giết người, không chừng cũng mắng mấy câu, nhưng trong lòng vui vẻ. Nhưng hôm nay, gặp bệnh nhân của ta, sợ rằng nó bị xúi quẩy rồi.”
Ba Anh nhướng mắt: “Sao thế?”
Mai Nhị tiên sinh nói: “Bệnh nhân này chỉ cần nhích tay là thanh lý xong cái mạng nhỏ xíu của nó.”
Ba Anh bật cười: “Chỉ cần nhích tay là có thể kết liễu đời nó? Ta không tin! Bệnh nhân của ngươi chẳng lẽ như Lý Thám Hoa, Tiểu Lý Phi Đao, phóng ra không trật đao nào hay sao?”
Mai Nhị tiên sinh điềm nhiên cười đáp: “Chẳng giấu gì ngươi, bệnh nhân ấy chính là Lý Thám Hoa.”
Nghe xong, sắc mặt Ba Anh lập tức trắng bệch như tờ giấy, cười khan rồi nói: “Tiên sinh hà tất phải đùa giỡn.”
Mai Nhị tiên sinh thản nhiên đáp: “Nếu ngươi không tin thì có thể vào trong mà xem!”
Ba Anh khựng lại, rồi lập tức xông vào trong, lớn tiếng hô: “Lý Thám Hoa! Lý đại hiệp hạ thủ lưu tình.”
Mai Nhị tiên sinh thở ra, chậm rãi nói: “Những cái đồ tự xưng là nghĩa hiệp ấy, té ra cũng chỉ có thế! Mạng con cái mình thì coi trọng, còn mạng kẻ khác thì còn thua mạng chó. Con cái mình giết người thì được, còn kẻ khác thì đừng hòng động tới nó.”
Sắc mặt nghiêm nghị nặng nề của Tần Hiếu Nghĩa chợt nở một nụ cười hiểm ác.
Nhưng lão cố gắng che giấu nụ cười đó, để có thể buông tiếng thở dài: “Nếu Lý Tầm Hoan giết đứa bé đó, e rằng hắn sẽ ân hận suốt đời.”
*
* *
Phát chưởng của Lý Tầm Hoan vừa phóng, xem ra rất thông thường chứ không có gì kỳ lạ.
Tuy Hồng Hài Nhi tuổi nhỏ nhưng khi giao đấu thì lại già dặn vô cùng. Cậu ta nhìn thấy phát chưởng của đối phương, nhưng không tránh cũng không né. Nó đoán biết đây là hư chiêu, còn sát chiêu chưa xuất ra, vì thế chỉ nghiêng mũi kiếm để thủ thế, cũng dùng hư chiêu để ứng phó.
Phát chưởng của Lý Tầm Hoan dù có biến hóa ra sao thì thế kiếm của cậu ta cũng có thể tùy nghi mà thay đổi. Nếu phát chưởng của Lý Tầm Hoan đột nhiên biến thành thực chiêu thì chiêu kiếm của cậu ta cũng có thể biến thành thực chiêu để đâm thủng bàn tay của Lý Tầm Hoan.
Chiêu thức của cậu ta quả nhiên lợi hại, cả về bộ vị, về thời gian, về lực đạo, xét về mặt nào cũng thích hợp. Những kiếm thủ trong giang hồ muốn vận dụng được chiêu thức như thế cũng không phải là nhiều. Hiển nhiên cậu ta không những được danh gia truyền thụ mà còn có thiên bẩm để luyện võ công.
Chiêu thức võ công tuy là được sư phụ truyền thụ, nhưng trong lúc giao tranh phải biết ứng biến và phán đoán. Điều này không một ai có thể truyền thụ được. Tâm cơ có linh hoạt thì vận dụng mới kỳ diệu.
Tiếc rằng hôm nay nó phải gặp một cao thủ như Lý Tầm Hoan.
Phát chưởng của Lý Tầm Hoan phóng ra, không biến hóa thay đổi gì, nhưng rất nhanh, nhanh đến mức kẻ khác khó mà tưởng tượng được.
Hồng Hài Nhi phán đoán đúng, nhưng cách đối phó của nó hoàn toàn không dùng được. Đến khi kiếm trong tay nó muốn đâm vào tay Lý Tầm Hoan, thì bàn tay Lý Tầm Hoan đã vỗ lên ngực của nó rồi.
Nhưng cậu ta không thấy đau đớn gì, chỉ nghe hơi ấm từ bàn tay của đối phương bừng bừng chạy khắp toàn thân, tựa như trong cơn giá lạnh được uống một ngụm rượu nóng.
Lúc đó tiếng hô đầy lo lắng của Ba Anh từ ngoài cửa vọng vào: “Lý đại hiệp hạ thủ lưu tình...”
Khi Ba Anh vào tới nơi thì Hồng Hài Nhi đã ngã xuống đất như người say rượu vừa tỉnh dậy, toàn thân mềm nhũn, không thể vận một chút khí lực nào.
Ba Anh thất sắc, kinh hãi hô hoán: “Vân thiếu gia! Thiếu gia làm sao rồi?”
Hiển nhiên Hồng Hài Nhi cũng biết mình đã lâm nguy, khóe mắt đỏ lên, khẽ nói: “Ta... ta e rằng đã bị tên này hạ độc thủ rồi... Ngươi mau về gọi gia gia đến báo thù cho ta!”
Nói chưa dứt câu, cậu ta đã khóc òa lên.
Ba Anh giậm chân tại chỗ, mồ hôi tuôn đầy trán.
Đại hán râu lạnh lùng nói: “Thằng ranh con đó tuy bị phế võ công nhưng mạng sống vẫn còn. Thiếu gia xuất thủ còn có chỗ lưu tình, chứ nếu là ta... Hừ!”
Ba Anh tựa hồ không nghe thấy gã nói gì.
Đại hán râu nghiêm giọng: “Nếu ngươi muốn báo thù thì cứ việc xuất thủ đi!”
Ba Anh không nói gì, đột nhiên phục xuống lạy Lý Tầm Hoan.
Lý Tầm Hoan thấy chuyện ra ngoài dự liệu, chau mày hỏi: “Chú bé này quan hệ thế nào với ngươi?”
Ba Anh đáp: “Tiểu nhân là Ba Anh. Lý Thám Hoa không nhận ra tiểu nhân nhưng tiểu nhân nhận ra Lý Thám Hoa.”
Lý Tầm Hoan điềm đạm: “Ngươi nhận ra ta thì tốt lắm. Nếu song thân cậu ta muốn báo thù thì hãy nói họ đến tìm ta. Bây giờ ngươi nên nhanh chóng đưa đứa bé này về chữa trị. Nếu điều trị đúng cách, thì tuy sau này không thể động thủ đánh người, nhưng sinh hoạt không có gì trở ngại.”
Chú bé khóc òa lên, la lớn: “Tên ác độc kia! Ngươi dám phế võ công của ta... Ta không muốn sống nữa... ta không muốn sống...”
Đại hán râu nghiêm nghị, lớn tiếng nói: “Đó chỉ là dạy ngươi sau này đừng xuất thủ đả thương người khác bừa bãi mà thôi, không chừng vì thế mà ngươi sống thọ hơn. Nếu không, tâm địa độc ác, thủ đoạn tàn nhẫn như ngươi tất phải ch.ết yểu, đoản mạng oan uổng.”
Bên ngoài bỗng có tiếng người lạnh lùng hỏi: “Nếu vậy thì sao sát thủ vô tình Lý Thám Hoa đến nay vẫn chưa bị giết?”
Đại hán giận dữ quát lớn: “Ai đó?”
Một lão già mặt tím râu dài chầm chậm bước vào, hỏi: “Mới mười năm không gặp, Lý Thám Hoa quên mất cố nhân rồi ư?”
Ánh mắt Lý Tầm Hoan khẽ lay động, chau mày mỉm cười: “Thì ra là Thiết đảm chấn bát phương Tần đại hiệp. Khó mà trách được cậu bé này hứng lên là giết người, bởi vì đã có Tần đại hiệp đỡ sau lưng thì giết ai chẳng được?”
Tần Hiếu Nghĩa cười lạnh: “Số người tại hạ giết, e không bằng phân nửa của Lý huynh.”
Lý Tầm Hoan đáp: “Tần đại hiệp hà tất phải khiêm tốn như thế. Tại hạ giết người vì tính khí lạnh lùng độc ác, còn các hạ giết người là vì thế thiên hành đạo”...”
Chàng mỉm cười nói tiếp: “Nếu hôm nay cậu bé này giết được tại hạ, nhất định giang hồ sẽ không trách nó vì giành thầy thuốc mà giết người, mà nhất định sẽ ca tụng nó cùng Tần đại hiệp đã vì giang hồ mà trừ hại. Có phải thế không?”
Tần Hiếu Nghĩa rất lão luyện, rất trầm tĩnh, nhưng lúc này cũng hơi đỏ mặt.
Hồng Hài Nhi càng nghe càng ngơ ngác, đến lúc này bỗng buột miệng khóc ré lên: “Tần lão bá! Sao lão nhân gia chưa chịu ra tay báo thù cho tiểu điệt?”
Tần Hiếu Nghĩa cười lạnh: “Nếu ngươi bị người khác đả thương, đương nhiên sẽ có người phục thù cho ngươi. Nhưng ngươi bị Lý Thám Hoa đả thương thì đành chịu thôi.”
Hồng Hài Nhi hỏi: “Tại... tại sao vậy?”
Tần Hiếu Nghĩa liếc Lý Tầm Hoan một cái, hỏi: “Ngươi biết kẻ đả thương ngươi là ai không?”
Hồng Hài Nhi lắc đầu đáp: “Tiểu điệt chỉ biết hắn là một tên hung ác, lòng dạ đen tối, xuất thủ tàn độc.”
Ánh mắt Tần Hiếu Nghĩa lóe lên một tia cười ác độc, chậm rãi nói: “Đó chính là Thiên hạ đệ nhất đao Lý Tầm Hoan, cũng là bạn sinh tử chi giao của gia gia ngươi.”
Lão vừa nói xong, Hồng Hài Nhi sững sờ. Lý Tầm Hoan càng sững sờ hơn, lạc giọng hỏi: “Cậu ta là con nhà ai?”
Ba Anh thở dài: “Cậu ấy là Long Thiếu Vân thiếu gia, đại công tử của Long Tiêu Vân lão gia.”
Câu nói này như sấm nổ bên tai Lý Tầm Hoan, hồn vía chàng bỗng bay mất hết.
Chàng ngồi cứng đờ như khúc gỗ, cặp mắt tinh anh cũng lạc thần như mắt người sắp ch.ết, khóe mắt không ngớt run rẩy, mồ hôi lạnh theo sống mũi chảy xuống khóe miệng.
Sắc diện đại hán râu cũng thay đổi, mồ hôi cũng tuôn ra như mưa. Hắn hiểu rõ quan hệ giữa thiếu gia với phu phụ Lâm Thi Âm, Long Tiêu Vân. Hiện giờ Lý Tầm Hoan đã đánh trọng thương đứa con yêu của họ, nỗi đau của chàng thật khó mà tưởng tượng.
Ba Anh thở dài: “Thật không ngờ... Chỉ vì đại công tử của Tần lão gia là Ngọc diện thần quyền Tần Trọng không may bị thương trong lúc truy bắt Mai Hoa Đạo, nhờ Thánh Dược Tiểu Hoàn Đan của Thiếu Lâm mà tạm thời bảo toàn được tính mạng, nhưng vẫn nguy kịch trong sớm tối. Ai cũng biết Diệu đại phu Mai Nhị tiên sinh là đệ nhất hảo thủ trị ngoại thương trong thiên hạ, lại chuyên về trị liệu những vết thương do ám khí tà môn ngoại đạo. Vì thế Tần lão gia cố tìm kiếm tung tích Mai Nhị tiên sinh mà đến được đây. Nào ngờ, Long thiếu gia tuổi còn non nớt, hành động nóng nảy khiến tình hình trở nên nát bét.” Hắn cứ tự nói một mình, cũng chẳng cần biết là có ai nghe mình nói hay không.
Lúc này Mai Nhị tiên sinh đã hiểu được nỗi khổ tâm của Lý Tầm Hoan. Lão vội xem qua thương tích Hồng Hài Nhi rồi đưa tay chẩn mạch, sau đó đứng lên nói: “Ta bảo đảm tính mạng đứa bé này không có gì nguy kịch, sau này ăn ngủ đi lại tuyệt đối bình thường.”
Ba Anh hỏi: “Thế còn võ công?”
Mai Nhị tiên sinh lạnh lùng hỏi lại: “Tại sao nhất định phải giữ lại võ công? Chẳng lẽ sau này còn muốn nó ra tay giết người bừa bãi nữa?”
Ba Anh khựng lại hồi lâu, rồi than thở: “Mai Nhị tiên sinh chưa biết. Long tứ gia chỉ có một cậu quý tử này, mà nó còn có thiên bẩm về võ học, cho nên phu phụ Long tứ gia đều kỳ vọng nó sau này sẽ làm rạng rỡ cho gia đình. Nếu biết được đứa con yêu không còn luyện võ được, thì không hiểu phu phụ Long tứ gia sẽ khổ tâm đến thế nào.”
Mai Nhị tiên sinh lạnh lùng nói: “Bọn chúng chỉ có thể tự trách mình giáo huấn không nghiêm, dung túng cho con làm càn làm bậy, chứ còn trách ai được nữa?”
Mọi người nói gì với nhau, Lý Tầm Hoan hoàn toàn không nghe lọt vào tai.
Không hiểu vì sao, lúc này Lý Tầm Hoan lại chìm vào những hồi ức xa xăm. Kể cả những hồi ức không nên nhớ lại giữa lúc này, chàng cũng nhớ lại hết.
Chàng nhớ hôm đó là mùng bảy Tết, vì một chuyện cần, nên chưa hết Tết đã buộc phải đi ra ngoài. Hôm đó, tuyết đang rơi.
Lâm Thi Âm bày một tiệc rượu vừa phong phú vừa tinh nhã trong tiểu viện của mình để cùng Lý Tầm Hoan uống rượu ngắm tuyết.
Lâm Thi Âm sống từ thuở nhỏ đến khi trưởng thành nơi gia đình họ Lý. Thân phụ của nàng là em họ của thân phụ Lý Tầm Hoan. Hai vị lão nhân gia khi còn sinh tiền đã đính ước cho đôi trẻ, vì thế mà tình thân lại càng thân hơn.
Nhưng Lý Tầm Hoan và Lâm Thi Âm không vì tị hiềm mà xa cách như một số nam nữ thế tục. Họ không những là tình nhân mà còn là bằng hữu tâm giao.
Tuy hơn mười năm trôi qua nhưng tâm trí Lý Tầm Hoan vẫn còn nhớ rõ, rất rõ ngày ấy... Ngày ấy hoa mai nở rộ rất đẹp, nàng nở một nụ cười đã say đến ba phần, so với hoa mai còn diễm lệ hơn nhiều. Ngày ấy thật tràn đầy hạnh phúc và vui vẻ. Nhưng bất hạnh đột ngột ập xuống.
Trên đường Cam Thiểm từ quan ngoại trở về, chàng bị kẻ thù cấu kết với Quan Ngoại Tam Hung dữ tợn nhất thời ấy tấn công.
Tuy chàng giết được mười chín tên nhưng cuối cùng cũng bị trọng thương không chống đỡ được nữa, sắp mất mạng dưới Hoa Khổ Lam tẩm độc của Đại hung Bốc Bá.
Lúc đó Long Tiêu Vân đến.
Long Tiêu Vân dùng ngọn ngân thương đánh Bốc Bá dạt ra, cứu được sinh mạng chàng, lại tận tình cứu chữa vết thương, hộ tống chàng về đến gia trang.
Từ đó, Long Tiêu Vân không những là ân nhân mà còn trở thành bằng hữu tốt nhất. Nhưng một ngày nọ, Long Tiêu Vân lâm trọng bệnh. Một hán tử như đúc bằng sắt, không tới nửa tháng đã trở nên yếu ớt vàng vọt, hình hài chỉ còn da bọc xương.
Lý Tầm Hoan dò xét rất lâu mới biết hắn chỉ vì Lâm Thi Âm mà lâm bệnh. Một hán tử mình đồng da sắt mà lại khốn khổ vì ái tình, cuối cùng tương tư nhập cốt.
Hiển nhiên hắn chưa biết Lý Tầm Hoan và Lâm Thi Âm đã có hôn ước, nên ngỏ lời thỉnh cầu Lý Tầm Hoan gả tiểu muội cho mình. Hắn thề nguyền sẽ chăm sóc cho nàng chu đáo suốt đời suốt kiếp.
Lý Tầm Hoan làm sao đồng ý được?
Nhưng chàng cũng làm sao đành lòng nhìn ân nhân ch.ết vì bệnh tương tư?
Hơn nữa, chàng lại càng không thể khẩn cầu Lâm Thi Âm kết hôn với người khác, mà Lâm Thi Âm cũng nhất định không thể đồng ý.
Tâm trí Lý Tầm Hoan đầy mâu thuẫn, chỉ còn biết tìm quên trong men rượu, say bí tỉ năm ngày năm đêm, rồi mới hạ quyết tâm. Đó là một quyết định đau lòng nhất của chàng.
Chàng quyết định nhường lại Lâm Thi Âm, còn chính mình rời khỏi nơi này.
Cuối cùng, chàng nhờ Lâm Thi Âm qua chăm sóc bệnh tình cho Long Tiêu Vân, còn bản thân mình lại sống buông thả, đắm mình trong hoa thiên tửu địa, cả tháng không về nhà một lần.
Chàng muốn tạo cơ hội cho Long Tiêu Vân thân cận với Lâm Thi Âm.
Khi Lâm Thi Âm ràn rụa nước mắt trước mặt mình, Lý Tầm Hoan lại cười lớn tiếng, phất tay áo bỏ đi. Lý Tầm Hoan ngày càng sa đọa sâu hơn, thậm chí đưa Tiểu Hồng và Tiểu Thúy - hai danh kỹ đất kinh thành - về nhà.
Hai năm sau, trái tim của Lâm Thi Âm cuối cùng cũng nát ra. Cuối cùng nàng đã chấp nhận Long Tiêu Vân, kẻ đã săn đón, lo lắng cho nàng suốt hai năm.
Kế hoạch của Lý Tầm Hoan đã thành công, nhưng thành công này đem đến cho chàng biết bao chua cay đau xót. Làm sao chàng có thể ở lại nơi đây, để cùng ai ngắm hoa thưởng tuyết như ngày nào?
Vì thế chàng đã tặng cả sản nghiệp cho Lâm Thi Âm làm của hồi môn rồi đơn độc ra đi, quyết tâm vĩnh viễn không gặp lại người xưa.
Thế mà chàng lại vừa đả thương đứa con duy nhất của họ.
Lý Tầm Hoan một mình uống cạn chén buồn, nuốt nước mắt vào lòng, chầm chậm đứng lên hỏi: “Long tứ gia đang ở đâu? Ta muốn cùng các ngươi đến gặp ông ấy!”
Lý Viên ngày nào bây giờ đã biến thành Hưng Vân Trang, nhưng đôi câu đối ngự bút vẫn còn trước cửa: “Nhất môn thất tiến sĩ, Phụ tử tam thám hoa”. Một nhà bảy người tiến sĩ, phụ tử ba lần thám hoa.
Nhìn đôi câu đối này, Lý Tầm Hoan nghe lòng quặn thắt, tựa như vừa trúng một cước mạnh ngay giữa ngực, không tài nào cất bước qua cổng.
Ba Anh đã bồng Hồng Hài Nhi đi vào trong. Tần Hiếu Nghĩa cũng đã kéo Mai Nhị tiên sinh vào cửa. Bọn gia đinh ngơ ngác nhìn chằm chằm vào Lý Tầm Hoan.
Bọn chúng hết sức lạ lùng, tại sao lại có một kẻ lạ mặt cứ đứng ngẩn ra trước cửa?
8 - Làm sao đuổi kịp chuyện đã qua
Đây vốn là gia viên của Lý Tầm Hoan. Nơi này, những ngày còn trẻ, chàng đã sống rất hạnh phúc, từng hưởng những vinh hiển lớn lao, từng tiễn đưa linh cữu song thân và huynh trưởng đi mai táng.
Ai có thể ngờ rằng nơi đây đã trở nên một nơi xa lạ với chàng.
Lý Tầm Hoan nở một nụ cười thiểu não, bên tai văng vẳng những khúc ca đầy vẻ thê lương đã từng nghe.
Chàng tựa như đang gặm nhấm những nỗi bi quan của nhân sinh hợp rồi tan, lại càng cảm thấy cô đơn, bất giác chảy nước mắt.
Đại hán râu ảm đạm nói nhỏ: “Thiếu gia, vào đi.”
Lý Tầm Hoan thở dài, đau khổ cười: “Đã đến rồi thì sớm muộn cũng phải vào, có phải thế không?”
Nào ngờ hai người vừa đặt chân lên bậc tam cấp, chợt nghe tiếng quát lớn: “Ngươi là cái thứ gì mà cả gan đi bừa vào gia trang của Long tứ gia?”
Một gã mặt rỗ, tay xách một lồng chim, mặc áo bào da dê thêu cẩm đoạn, đang bước ra chắn ngang trước mặt.
Lý Tầm Hoan chau mày: “Các hạ là...”
Gã mặt rỗ chống nạnh, lớn tiếng: “Đại gia đây là quản gia của nhà này. Con gái ta là em kết nghĩa của Long phu nhân. Ngươi muốn gì?”
Lý Tầm Hoan đáp: “Thì ra là thế, tại hạ xin đợi ở đây vậy.”
Gã mặt rỗ lạnh nhạt nói: “Đợi cũng không được! Trước cổng lớn của Long gia trang há để bọn người tạp nhạp đứng chơi?”
Đại hán râu phẫn nộ, nhưng cũng biết lúc này chỉ còn cách nhẫn nại.
Nào ngờ gã mặt rỗ lại lớn tiếng hơn: “Ta kêu ngươi cút, chẳng lẽ ngươi giả điếc hay sao?”
Lý Tầm Hoan vẫn nhẫn nại được, nhưng đại hán râu thì không dằn nổi nữa, đã toan bước tới giáo huấn gã mặt rỗ này. Đột nhiên phía trong có người dõng dạc kêu gọi: “Tầm Hoan, Tầm Hoan! Hiền đệ đến thật ư?”
Một người mặc áo gấm sang trọng, tướng mạo đường đường, trạc tuổi trung niên, có một chòm râu dưới cằm đang bước ra.
Sắc mặt người ấy vừa hưng phấn vừa kích động, vừa gặp Lý Tầm Hoan đã dùng sức nắm chặt lấy hai vai chàng, lớn tiếng nói: “Không sai! Đúng là Lý hiền đệ. Lý hiền đệ đã về thật rồi...”
Lời chưa dứt, lệ nóng hổi đã tràn khóe mắt.
Chẳng lẽ Lý Tầm Hoan còn kìm nước mắt được nữa ư? Chàng nghẹn ngào gọi: “Đại ca...” rồi không nói nên lời nữa.
Gã mặt rỗ trông thấy cảnh tượng trên, bất giác đứng sững như trời trồng.
Long Tiêu Vân chậm rãi nói: “Lý hiền đệ... Ta nhớ ngươi đến ch.ết được. Ta nhớ ngươi đến ch.ết được...”
Chỉ một câu nói đó, Long Tiêu Vân nói đi nói lại không biết mấy lần. Sau đó, đột nhiên hắn lớn tiếng cười nói: “Huynh đệ ta gặp nhau, đáng lẽ nên vui mới phải! Tại sao cứ đứng ở đây mà chảy nước mắt như mấy bà già vậy?”
Long Tiêu Vân cười lớn, rồi vừa ôm vừa kéo Lý Tầm Hoan đi vào trong, lớn tiếng hô vang: “Mau mời phu nhân lên đây! Tất cả ra đây, tất cả ra đây để gặp hiền đệ của ta. Các ngươi có biết đây là ai không? Ha ha! Nếu ta nói ra chắc chắn các ngươi phải nhảy dựng lên.”
Đại hán râu nhìn vào họ, nước mắt cũng sắp chảy, không biết mình đang chua xót hay đang vui mừng.
Gã mặt rỗ bây giờ mới thở dài, vò đầu bứt tai nói: “Má ơi! Té ra là Lý Thám Hoa. Nghe nói gia tài nhà cửa này đều là của ông ta tặng cho chủ nhân, thế mà mình lại không cho ông ta vào. Ta thật đáng ch.ết!”
Cậu nhóc Hồng hài nhi Long Thiếu Vân đang bị hơn mười gia nhân vây quanh, ngồi trên cái ghế thái sư trong đại sảnh. Cậu ta đã hiểu rõ quan hệ giữa thân phụ và Lý Tầm Hoan, nên sợ sệt không dám khóc nữa.
Khi Long Tiêu Vân khoác vai Lý Tầm Hoan đi vào đại sảnh, hai đại hán đang đứng cạnh Long Thiếu Vân nhảy vọt ra, chỉ vào mặt Lý Tầm Hoan: “Ngươi chính là tên dám đả thương thiếu gia phải không?”
Lý Tầm Hoan đáp: “Không sai.”
Hai đại hán đó phẫn nộ nói: “Hảo tiểu tử! Gan ngươi quả là không nhỏ!”
Hai người một trái một phải hướng vào Lý Tầm Hoan xuất kích.
Lý Tầm Hoan không đánh trả. Chỉ nghe Long Tiêu Vân hét lên, đưa song chưởng ra đỡ, rồi bay lên không trung đá hai gã lăn tuốt ra ngoài cửa, giận dữ nói: “Các ngươi dám xuất thủ với ông ta ư? Gan của các ngươi mới là không nhỏ! Các ngươi có biết ông ta là ai không?”
Hai tên đại hán đều không thể tưởng tượng nổi mình đã vuốt không trúng mông ngựa, lại vuốt nhầm xuống dưới.
Một tên ôm mặt, lắp bắp: “Bọn tiểu nhân bất quá chỉ muốn thay Vân thiếu gia...”
Long Tiêu Vân càng giận dữ hơn, lớn tiếng nói: “Các ngươi muốn làm gì? Nói cho các ngươi biết, con của Long Tiêu Vân cũng là con Lý Tầm Hoan. Đừng nói Lý Tầm Hoan bất quá mới chỉ răn dạy nó một lần, cho dù giết ch.ết cái thằng súc sinh ấy cũng là việc nên làm!”
Hắn dõng dạc cất tiếng: “Từ nay về sau, không ai được đề cập đến chuyện ấy. Nếu ai còn nhắc đến thì chính là cố ý chống đối Long Tiêu Vân ta!”
Lý Tầm Hoan đứng cứng đờ như khúc gỗ, cũng không tự biết trong lòng đang có những mùi vị như thế nào.
Giá mà Long Tiêu Vân chửi rủa chàng, thậm chí trở mặt đuổi chàng đi, thì không chừng chàng thấy dễ chịu hơn. Nhưng Long Tiêu Vân lại trọng nghĩa khí đến thế, chàng chỉ còn hổ thẹn, ảm đạm nói: “Đệ... đệ thật sự không biết.”
Long Tiêu Vân vỗ vỗ trên vai chàng, cười nói: “Hiền đệ! Ngươi đổi tính thành yếu đuối như thế này từ lúc nào vậy? Thằng súc sinh đó bị mẫu thân nuông chiều quá mà sinh hư, đáng lẽ ta không nên truyền thụ võ công cho nó.”
Hắn lớn tiếng hô: “Các ngươi mau mau qua đây, mau mau bày tiệc! Trong bọn ngươi, ai có thể tiếp hiền đệ của ta say một bữa thỏa thích, thì ta lập tức tặng cho năm trăm lạng bạc.”
Trong đại sảnh đa số là bọn giang hồ lãng tử. Vô số ánh mắt chợt sáng hẳn lên, đầy vẻ thèm thuồng, hướng về Lý Tầm Hoan để vấn an và cười cầu hòa. Đột nhiên trong nội đường có tiếng người nói: “Mau vén màn lên, phu nhân ra đây rồi.”
Gã đồng tử đứng trước cửa vén rèm cửa lên, Lâm Thi Âm từ bên trong bước ra.
*
* *
Cuối cùng, Lý Tầm Hoan gặp lại Lâm Thi Âm.
Lâm Thi Âm không phải là một mỹ nhân hoàn toàn không có khuyết điểm, nhưng không ai có thể nói nàng không phải là một mỹ nhân.
Sắc mặt của nàng quá trắng, thân thể quá mảnh mai. Ánh mắt nàng thật sáng, nhưng có thể bị chê là hơi lạnh nhạt. Nhưng dù sao, phong tư của nàng, khí chất của nàng vẫn không có ai so sánh được.
Bất cứ trong tình huống nào, nàng cũng toát ra một mê lực đặc biệt. Bất cứ ai nhìn nàng một lần đều không làm sao quên được.
Gương mặt này đã hiện lên trong mộng của Lý Tầm Hoan không biết bao nhiêu ngàn, bao nhiêu vạn lần rồi. Mỗi lần lại thấy nàng chập chờn xa cách, như ẩn như hiện, lãng đãng, lờ mờ. Khoảng cách giữa Lý Tầm Hoan và nàng đã quá xa xôi, xa xôi đến mức không thể với tới được, dù chỉ là trong mộng.
Cứ mỗi lần trong mộng mà Lý Tầm Hoan muốn ôm chặt nàng, đột nhiên lại thức tỉnh. Những lúc như thế, Lý Tầm Hoan chỉ có cách nằm nhìn ra cửa sổ tối đen để run rẩy, để đau khổ chờ trời sáng. Nhưng đến khi trời sáng thì chàng vẫn tiếp tục đau khổ như thế, cô đơn như thế.
Giờ đây thì người trong mộng đã thực sự xuất hiện ngay trước mặt chàng, thậm chí chỉ cần giơ tay ra thì có thể chạm tới. Chàng biết đây không còn là mộng nữa.
Nhưng chàng làm sao có thể giơ tay ra?
Bây giờ chàng lại hy vọng đây cũng là một giấc mộng, vì thực tế lại tàn ác hơn mộng rất nhiều. Chàng muốn chạy trốn nhưng không có cách nào chạy trốn, chỉ còn nụ cười là giấu giếm những nỗi đau khổ trong lòng. Lý Tầm Hoan miễn cưỡng cười, gọi: “Đại tẩu!”
Người hôn thê, người tình nhân trong mộng, mà khi giáp mặt nhau thì lại là “Đại tẩu”.
Đại hán râu quay mặt qua chỗ khác, không dám nhìn tiếp nữa. Chỉ có hắn mới biết được hai tiếng “Đại tẩu” từ cửa miệng của Lý Tầm Hoan gọi ra đã kèm theo bao nhiêu chua cay đau khổ. Hắn không biết nếu bản thân mình rơi vào tình huống như Lý Tầm Hoan, có thể đủ dũng khí để hô lên hai tiếng “Đại tẩu” không, có tiếp nhận nổi những đau khổ sâu đậm như thế hay không.
Nếu hắn không quay đầu nhìn ra tuyết rơi ở ngoài vườn, chỉ sợ rằng cũng đã rơi lệ!
Nhưng Lâm Thi Âm lại không nghe thấy tiếng chào hỏi đó. Tâm trí của nàng đang đặt hết vào đứa con.
Vừa thấy mặt mẹ, cậu bé chợt ré lên, nhảy vào lòng mẹ, vừa khóc rống vừa kể lể: “Mẫu thân... Con không luyện võ được nữa, con đã trở thành tàn phế. Con làm sao sống tiếp được đây?”
Lâm Thi Âm ôm chặt lấy nó: “Ai... ai đã làm cho con phải như thế?”
Hồng Hài Nhi nói: “Chính là hắn.”
Lâm Thi Âm nhìn theo hướng chỉ tay của nó, tia mắt cuối cùng cũng đã chạm vào Lý Tầm Hoan.
Nàng nhìn sững vào Lý Tầm Hoan như nhìn một người xa lạ, chưa từng quen biết. Nhưng ngay sau đó, trong ánh mắt của nàng lộ ra một vẻ oán hận, nói gằn từng chữ: “Là ngươi? Chính là ngươi đả thương con ta?”
Lý Tầm Hoan chỉ thản nhiên gật đầu.
Không ai biết được sức mạnh tinh thần nào đang đỡ cho chàng. Chàng vẫn chưa quÿ xuống trước những câu nói như chùy sắt nện vào đầu...
Lâm Thi Âm nhìn vào mắt chàng không chớp mắt, cắn môi nói: “Được lắm! Ta đã biết ngươi không thể cho ta sống một cách vui vẻ. Một chút hạnh phúc cuối cùng của ta, ngươi cũng đang tâm hủy hoại. Ngươi...ngươi...”
Long Tiêu Vân đằng hắng một tiếng để ngắt lời nàng, lớn tiếng nói: “Muội không nên đối xử với Lý đệ như vậy. Việc này không thể trách Lý đệ, hoàn toàn là do Vân nhi tự gây họa cho mình. Làm sao lúc đó Lý đệ biết nó là con của chúng ta?”
Hồng Hài Nhi đột nhiên lớn tiếng nói: “Hắn biết! Hắn đã biết lâu rồi. Thật ra hắn không đủ sức đả thương con, nhưng khi con nghe nói hắn là bằng hữu của song thân thì dừng tay lại. Nào ngờ hắn lại thừa cơ phóng chưởng ám toán!”
Đại hán râu giận dữ đến nỗi các mạch máu trên đầu đập nghe giần giật, muốn vỡ tung.
Còn Lý Tầm Hoan lại hoàn toàn không có ý biện minh.
Bất luận đau khổ có lớn đến đâu, chàng cũng có thể gánh chịu. Chẳng lẽ chàng lại mặt đỏ tía tai tranh luận với một đứa bé hay sao?
Long Tiêu Vân mắng lớn: “Súc sinh! Ngươi còn dám nói láo ư?”
Hồng Hài Nhi khóc rống lên: “Con không nói láo... Mẫu thân! Con thật sự không nói láo mà!”
Long Tiêu Vân phẫn nộ định kéo Hồng Hài Nhi qua, nhưng Lâm Thi Âm đã cản trước mặt hắn: “Huynh còn muốn làm gì nó nữa?”
Long Tiêu Vân giẫm chân nói: “Thằng súc sinh này hư đốn quá rồi. Nếu ta không trừ bỏ nó thì còn gì là thể diện nữa?”
Sắc mặt trắng bạch của Lâm Thi Âm vì phẫn nộ mà lộ ra một chút màu đỏ, cũng lớn tiếng trả lời: “Thế thì giết luôn ta đi cho xong!”
Ánh mắt của nàng xoáy vào Lý Tầm Hoan, cười lạnh nhạt: “Dù sao thì các ngươi cũng có bản lãnh, muốn giết một đứa con nít thì dễ như trở bàn tay. Giết thêm một nữ nhân nữa thì cũng có sao đâu?”
Long Tiêu Vân nhìn lên trời thở dài một tiếng, giậm chân: “Thi Âm! Tại sao muội lại có thái độ vô lý đến thế?”
Lâm Thi Âm mặc kệ hắn, ôm chặt đứa con đi thẳng vào nhà trong. Bước đi của nàng tuy nhẹ nhàng, nhưng đã giẫm nát trái tim của Lý Tầm Hoan.
Long Tiêu Vân quay lại vỗ vai chàng, thở dài: “Tầm Hoan! Đệ đừng trách nàng nữa. Nàng vốn không phải là người không biết lý lẽ, nhưng một nữ nhân đã được làm mẹ thì sẽ có thể thay đổi đến mức không thể nói trước được...”
Lý Tầm Hoan thản nhiên nói: “Đệ biết, một người mẹ có thể vì con mà làm bất cứ chuyện gì.”
Chàng gượng cười rồi tiếp: “Dĩ nhiên đệ chưa từng làm người mẹ của một đứa con, nhưng ít ra đệ cũng đã từng làm đứa con của một người mẹ...”
*
* *
“Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu”. Nhấc chén giải sầu, sầu lại càng sầu. Câu thơ này rất nổi tiếng, nhưng không hoàn toàn chính xác.
Khi uống vừa vừa thì đúng là người ta dễ nghĩ đến những chuyện thương tâm, sầu não lại càng tăng. Nhưng đến lúc say mèm rồi thì tư tưởng và cảm giác hoàn toàn tê liệt. Như thế thì trên thế gian không còn việc gì làm cho người ta đau khổ nữa.
Lý Tầm Hoan đã thấu triệt chân lý đó, nên chàng cố uống cho say.
Uống cho say vốn không phải là chuyện khó, nhưng một người đã có nhiều chuyện thương tâm, đã nhiều lần muốn uống say, thì uống đến say không phải dễ.
Đêm đã rất khuya.
Rượu đã cạn nhiều, mà Lý Tầm Hoan vẫn chưa thấy say chút nào. Vì thế mà chàng phát giác ra một chuyện. Mười mấy vị khách giang hồ trong tiệc rượu này đều không ai say cả. Đây thật sự là một chuyện không bình thường.
Đêm càng khuya, sắc mặt của mọi người càng trầm trọng. Ai cũng thỉnh thoảng ngoái cổ nhìn ra ngoài như chờ đợi một người nào đó.
Bỗng nhiên nghe thấy tiếng trống điểm canh. Đã canh ba rồi.
Sắc diện của mỗi người cũng thay đổi từ từ. Có người kinh ngạc hỏi: “Đã canh ba rồi, mà sao Triệu đại gia chưa về đến đây?”
Lý Tầm Hoan chau mày: “Triệu đại gia là ai? Hình như các vị đợi người ấy rồi mới chịu uống rượu phải không?”
Một người cười, lên tiếng: “Không giấu gì Lý Thám Hoa, nếu Triệu đại gia chưa về thì quả thật bọn tại hạ không thể uống rượu tiếp được.”
Một người khác nói: “Triệu đại gia được xưng tụng là Thiết diện vô tư Triệu Chính Nghĩa, cũng chính là đại ca kết nghĩa của Long tứ gia nhà ta. Chẳng lẽ Lý Thám Hoa còn chưa biết hay sao?”
Lý Tầm Hoan nâng chén cười: “Mười năm không gặp, không ngờ đại ca đã kết nghĩa huynh đệ với nhiều hào kiệt nổi tiếng giang hồ. Tiểu đệ mời đại ca một chén.”
Mặt Long Tiêu Vân hơi đỏ, gượng cười theo: “Huynh đệ của ta, cũng là huynh đệ của đệ. Vậy ta cũng mời Lý đệ một chén.”
Lý Tầm Hoan nói: “Chuyện đó nghe cũng có lý, không ngờ tiểu đệ lại có thêm mấy vị huynh trưởng. Nhưng không hiểu vị đại anh hùng này có chịu nhận con người xui xẻo như tiểu đệ làm huynh đệ hay không?”
Long Tiêu Vân cười ha hả: “Bọn họ mừng còn không kịp, chẳng có lý gì mà không chịu nhận.”
Lý Tầm Hoan nói: “Chỉ...”
Không biết chàng đang định nói gì, nhưng khi nói ra đến miệng thì lại thay đổi, cười nói tiếp: “Triệu đại gia nổi tiếng Thiết Diện Vô Tư, nghe nói ông ta mấy năm mới cười một lần. Nếu ông ta đến, đệ e rằng sẽ hoảng sợ đến không thể uống tiếp nữa. Không ngờ chư vị lại chờ Triệu đại gia đến mới chịu uống rượu.”
Trầm ngâm một lúc, Long Tiêu Vân chợt nghiêm mặt, nói với Lý Tầm Hoan: “Mai Hoa Đạo đã tái xuất giang hồ.”
Lý Tầm Hoan đáp: “Việc này đệ cũng đã nghe qua.”
Long Tiêu Vân hỏi: “Nhưng hiền đệ có biết lúc này Mai Hoa Đạo đang ở đâu không?”
Lý Tầm Hoan nói: “Nghe nói người này hành tung rất là kỳ lạ...”
Long Tiêu Vân lại cắt lời chàng: “Đúng, hành động của hắn ẩn hiện khó lường. Nhưng ta biết hiện hắn có mặt tại Bảo Định Thành, không chừng ở gần đây cũng nên.”
Câu nói này làm mọi người không hẹn mà đều so vai lại, lò sưởi đang cháy hừng hực cũng không cản nổi khí lạnh từ bên ngoài ùa vào.
Lý Tầm Hoan bất giác đổi sắc mặt: “Hắn đã lộ diện ở đây rồi sao?”
Long Tiêu Vân đáp: “Đúng. Đại công tử của Tần Hiếu Nghĩa hôm qua đã bị thương trong tay hắn.”
Lý Tầm Hoan chau mày hỏi: “Hắn hạ thủ ở đâu?”
Long Tiêu Vân nói từng chữ, từng chữ: “Chính tại hậu viện nhà ta, trong rừng mai trước Lãnh Hương Tiểu Trúc.”
Lý Tầm Hoan rùng mình, lại hỏi: “Hắn có đả thương ai nữa không?”
Long Tiêu Vân nói: “Có lẽ hiền đệ chưa rõ. Tên này mỗi đêm chỉ đả thương một người, và không bao giờ xuất thủ trước canh ba.”
Hắn gượng cười nói tiếp: “Tên này có thói quen giết người như thiên hạ quen uống rượu vậy, vừa quy định về thời gian vừa quy định về số lượng.”
Lý Tầm Hoan cũng cười, nhưng nụ cười đó không làm thần sắc của chàng nhẹ nhàng hơn chút nào. Trầm ngâm một chút, chàng xuống giọng hỏi: “Thế còn đêm hôm qua?”
Long Tiêu Vân nói: “Đêm hôm qua thì vô sự.”
Lý Tầm Hoan nói: “Vậy thì đối tượng ở đây có lẽ chỉ là Tần đại thiếu gia. Như vậy, từ đây về sau có lẽ hắn không đến nữa.”
Long Tiêu Vân lắc đầu đáp: “Sớm muộn gì rồi hắn cũng sẽ đến.”
Lý Tầm Hoan chau mày hỏi: “Sao vậy? Hắn có xích mích với đại ca ư?”
Long Tiêu Vân lại lắc đầu, chậm rãi nói: “Đối tượng của hắn không phải là Tần Trọng, cũng không phải là ta.”
Lý Tầm Hoan lạc giọng hỏi: “Là ai?”
Long Tiêu Vân nói: “Đối tượng của hắn là Lâm...”
Chỉ nghe đến tiếng “Lâm” là Lý Tầm Hoan tái mặt, nhưng Long Tiêu Vân không nói “Lâm Thi Âm” mà nói “Lâm Tiên Nhi”.
Lý Tầm Hoan lén lút thở ra nhẹ nhõm, hỏi lại: “Lâm Tiên Nhi ư? Đó là ai?”
Long Tiêu Vân cười to: “Hiền đệ! Luôn cả Lâm Tiên Nhi mà hiền đệ cũng không biết, quả là hiền đệ đã già rồi. Nếu mười mấy năm trước, e rằng không ai biết rõ hơn hiền đệ.”
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Nói như vậy, người ấy không thể không là một mỹ nhân.”
Long Tiêu Vân nói: “Nàng là một mỹ nhân, hơn nữa còn được thiên hạ công nhận là Võ lâm đệ nhất mỹ nhân. Không biết bao nhiêu thiếu hiệp phong lưu trong giang hồ đã vì nàng mà điên đảo thần hồn!”
Hắn chỉ vào mấy người ngồi trong tiệc, cười lớn: “Hiền đệ tưởng các vị này vì thể diện của ta mà đến ư? Nếu không có Lâm Tiên Nhi ở đây, cho dù ngày nào ta cũng đãi tiệc yến sào, chưa chắc đã có ai thèm chiếu cố.”
Nhiều người đỏ mặt, nhất là hai vị thiếu niên áo gấm lại càng đỏ dữ dội.
Long Tiêu Vân vỗ vỗ vai hai người đó rồi lại cười nói: “Kể ra thì chư vị cũng may mắn nên bây giờ mới còn hy vọng. Nếu như Lý đệ ta trẻ lại mười tuổi, thì không đến phần của chư vị đâu.”
Lý Tầm Hoan cũng cười lớn: “Đại ca cho rằng đệ đã già thật rồi ư? Người già, nhưng lòng chưa già đâu.”
Ánh mắt Long Tiêu Vân lóe lên, cười nói: “Không sai, không sai! Một chút cũng không sai. Những kẻ ngớ ngẩn trông vời áo tiểu thư tuy rằng còn nhiều hơn kiến, nhưng không ai có hy vọng bằng hiền đệ.”
Lý Tầm Hoan cười khổ: “Chỉ tiếc rằng đệ đã bị ngâm trong hũ rượu suốt mười năm rồi, bản lãnh không còn được như trước nữa !”
Nắm chặt tay Lý Tầm Hoan, Long Tiêu Vân nói: “Hiền đệ còn chưa biết, vị Lâm cô nương ấy chẳng những đẹp như thiên tiên mà lại rất có chí khí. Nàng không chịu ưng ai cả, tuyên bố với thiên hạ rằng ai trừ khử được Mai Hoa Đạo thì cho dù là một ông già vừa mặt rỗ vừa thọt chân cũng có thể cưới nàng làm vợ.”
Lý Tầm Hoan nói: “E rằng vì nguyên nhân đó mà Mai Hoa Đạo nhất quyết trừ khử nàng.”
Long Tiêu Vân nói: “Đúng thế. Đêm hôm qua chắc là Mai Hoa Đạo đến Lãnh Hương Tiểu Trúc để tìm nàng, không dè Tần Trọng lại ở đó, làm con ma ch.ết thay...”
Ánh mắt của Lý Tầm Hoan chớp lên, rồi nói: “Có lẽ Tần đại thiếu gia cũng là một người ngớ ngẩn trông vời Lâm cô nương hay sao?”
Long Tiêu Vân cười khổ: “Trước kia thì hắn cũng có chút hy vọng, nhưng bây giờ...”
Lý Tầm Hoan nói: “Lãnh Hương Tiểu Trúc đã tịch mịch nhiều năm, có lẽ bây giờ Lâm cô nương đã mang lại nhiều náo nhiệt. Không chừng có nhiều công tử đa tình thao thức đi qua đi lại đến tận nửa đêm.”
Long Tiêu Vân hơi đỏ mặt, cười khổ: “Lãnh Hương Tiểu Trúc là nơi ở cũ của hiền đệ, đáng lý ta không nên để cho ai ở đó. Nhưng.. nhưng...”
Lý Tầm Hoan cắt lời: “Nhà tranh mà được mỹ nhân chiếu cố thì cũng rạng lên, nếu cây cỏ có hiểu biết thì cũng vui vẻ không lường được. E rằng chúng nhất quyết không cho một kẻ ho lao quay lại mà khạc nhổ lung tung.”
Ánh mắt của chàng sáng ngời, nhìn Long Tiêu Vân cười cười: “Vị Lâm cô nương ấy quan hệ như thế nào với đại ca?”
Long Tiêu Vân ho khan hai tiếng, đáp: “Nhân một cuộc hành hương tại Phổ Đà Sơn mà nàng quen biết với Thi Âm. Hai người gặp nhau tâm đầu ý hợp kết làm tỉ muội, cũng giống như ta và hiền đệ vậy!”
Lý Tầm Hoan hơi khựng lại: “Cha của nàng là vị quản gia khi nãy đệ gặp ở ngoài cổng đó ư?”
Long Tiêu Vân cười gượng: “Hiền đệ không ngờ ư? Thật sự không ai có thể tưởng tượng được người cha thế kia mà sinh được đứa con đẹp thế này. Thế mới đúng là ở trong ổ quạ lại nở ra phượng hoàng!”
Lý Tầm Hoan hỏi: “Chẳng lẽ vị Thiết diện vô tư Triệu đại gia cũng đi ước hẹn trợ thủ đến bảo vệ cho nàng? Triệu đại gia bây giờ cũng thay đổi, trở thành thương hương tiếc ngọc đến thế ư?”
Như không nghe thấy ý chế nhạo, Long Tiêu Vân nói: “Ngoài việc bảo vệ cho nàng, Triệu lão đại còn muốn nhân cơ hội để trừ khử Mai Hoa Đạo. Huống chi rất nhiều danh gia vọng tộc Trung Nguyên đã bỏ rất nhiều ngân lượng ra để làm phần thưởng bắt cho được hắn. Số ngân lượng đó hiện đang để ở đây. Nếu có gì thất thoát, chỉ sợ rằng không ai có thể gánh vác nổi.”
Lý Tầm Hoan nghe đến đây bỗng thay đổi sắc mặt: “Sao đại ca phải gánh vác một trọng trách như thế này chứ?”
Long Tiêu Vân thở dài: “Đã có gánh nặng thì phải có người vác chứ biết làm sao? Ta nói có đúng không?”
Lý Tầm Hoan trầm ngâm một hồi lâu rồi từ từ nói: “Bây giờ đã quá canh ba. Không biết đêm nay Mai Hoa Đạo có đến hay không?”
Chàng đột nhiên đứng dậy: “Triệu đại gia chưa về, chư vị cũng ngưng uống rượu, nhân lúc rảnh rỗi tại hạ xin phép ra ngoài hóng mát, nhân tiện thăm hỏi những gốc mai bằng hữu ngày nào.”
Long Tiêu Vân chau mày: “Chắc hiền đệ không phải thăm hỏi hoa mai, mà có lẽ muốn xem Mai Hoa Đạo.”
Lý Tầm Hoan chỉ cười, không đáp.
Long Tiêu Vân hỏi: “Hiền đệ muốn một mình đi vào chỗ nguy hiểm hay sao?”
Lý Tầm Hoan vẫn cười, không đáp.
Long Tiêu Vân nhìn chàng một lúc, vùng cười lớn: “Hay lắm, hay lắm! Ta biết, nếu hiền đệ đã quyết tâm làm một chuyện gì thì không ai ngăn được. Huống chi, nếu Mai Hoa Đạo biết có Lý Thám Hoa ở đây thì e rằng hắn không dám đến nữa.”
*
* *
Những gốc mai ở vườn sau vẫn tươi tốt, hình như lại còn tươi tốt hơn mười năm về trước. Nhưng người của vườn xưa thì sao rồi?
Người tuy vẫn giữ được cốt cách ngạo mạn giống hoa mai, nhưng người có chịu nổi sự giày vò của năm tháng hay chăng?
Hoa tàn rồi lại nở, thế còn người thì sao? Tuổi thanh xuân đã trôi đi làm sao tìm lại được?
Lý Tầm Hoan đứng im lìm ở cạnh vườn hoa, ngơ ngác nhìn ánh đèn lập lòe ở căn lầu nhỏ xa xa.
Mười năm trước, tòa tiểu lâu này thuộc về anh ta, người trong lầu cũng thuộc về chàng, nhưng bây giờ...
Bây giờ thì tất cả đều đã trôi theo năm tháng thanh xuân, vĩnh viễn không thể đuổi theo tìm lại được. Có tìm chăng, chỉ là một chút tâm tư đối cảnh sinh tình.
Tuy tương tư là phiền não nhưng không tương tư thì có lẽ chàng không thể sống nữa.
Bước qua khỏi cây cầu nhỏ đầy tuyết, là đến rừng mai.
Trong rừng mai, lộ ra một tiểu lâu nho nhỏ, chính là nơi mà ngày nào Lý Tầm Hoan đã luyện kiếm đọc sách.
Tiểu lâu này đối diện với một tiểu lâu khác. Ngày xưa mỗi khi tuyết rơi, chàng chỉ cần đẩy cửa sổ là gặp được ánh mắt đa tình của một cô nương đa tình ở bên kia đang nhìn sang bên này.
Nhưng bây giờ...
Tình yêu càng nồng nàn, càng mong manh...
Lý Tầm Hoan lặng lẽ thở dài, phủi tuyết trên người, lặng lẽ bước lên tiểu kiều, bàn chân đạp nát những lớp băng. Hậu viên vắng lặng không một bóng người, không nghe được tiếng nói. Sau canh ba chính là thời gian Mai Hoa Đạo có thể xuất hiện bất cứ lúc nào, còn ai dám lưu lại ở đây?
Lý Tầm Hoan chầm chậm bước vào Lãnh Hương Tiểu Trúc sau rừng mai.
Chàng không định gặp tuyệt thế mỹ nhân Lâm Tiên Nhi, vì biết rằng giờ khắc này nàng không thể còn nơi đó.
Chàng chỉ muốn nhìn lại nơi ở ngày xưa. Con người trong lúc cô đơn, chỉ muốn hướng về ngày xưa mà lưu luyến.
Đột nhiên, trong rừng mai tĩnh lặng lại phát lên một tiếng cười khe khẽ.
Lý Tầm Hoan lập tức thay đổi hẳn. Chỉ trong nháy mắt, thân thể đang biếng nhác đó như có nguồn lực từ đâu tới, nhanh nhẹn như một con thỏ, lao vút về phía có tiếng cười.
Lý Tầm Hoan nghe một tiếng la kinh hoảng của nữ nhân, nhưng tiếng la đó rất nhỏ. Rồi chàng thấy một bóng người màu trắng đang chạy trốn, lại có một bóng người màu đen đang đuổi theo. Thân hình của người áo đen rất to lớn, oai thế cũng rất kinh người. Người còn cách hai ba trượng, đã có một trận hàn phong quạt tới mặt Lý Tầm Hoan.
Lý Tầm Hoan lập tức phát hiện võ công của người này tà môn ngoại đạo, vừa âm hiểm vừa cổ quái. Nhưng chưởng lực rất mạnh, không thể nghi ngờ rằng không phải là cao thủ hạng nhất trong võ lâm.
Mai Hoa Đạo!
Chẳng lẽ người này chính là Mai Hoa Đạo?
*
* *
Lý Tầm Hoan không trực tiếp đón đỡ phát chưởng này. Vạn bất đắc dĩ, chàng mới chịu lãng phí chân lực để đấu sức với người khác mà không suy tính, vì chàng cảm thấy khí lực của mình quí trọng hơn của người khác nhiều.
Có lần Kim cương thủ Đặng Liệt say rượu đã cố ép chàng đấu chưởng, nhưng Lý Tầm Hoan đã cự tuyệt mấy lần. Đặng Liệt có hỏi tại sao chàng không chịu.
Lý Tầm Hoan đã trả lời rất hay. Chàng đáp: “Ta không phải là con bò, sao ngươi muốn chơi trò bò húc với ta? Ta cảm thấy võ công cũng là một nghệ thuật, ngươi không thể đạt đến cảnh giới huyền diệu, nhưng tối thiểu cũng phải tự nhiên và điềm đạm. Nếu chỉ dùng sức lực để đánh nhau thì ngu dốt chẳng khác con bò.”
Đặng Liệt là bạn của chàng, chàng có thể cự tuyệt. Nhưng hiện giờ con người này nhất quyết muốn một chưởng đánh chàng ch.ết ngay, chưởng lực lại rất ác liệt, khống chế hết đường lui của chàng.
Huống hồ thân hình của hai người cùng đang vọt tới trước, bất luận ai trong cái chớp mắt mà cuộc sống treo trên sợi tóc này muốn rút lui tránh né, thì nếu né được cũng sẽ bị đối phương cướp lấy thượng phong. Như thế, đến khi đối phương xuất chưởng thứ hai, muốn tránh né nữa thì còn khó hơn lên trời.
Thế nhưng thân hình của Lý Tầm Hoan đột nhiên giật lùi lại, thân pháp chàng biến hóa linh hoạt như cá bơi dưới nước.
Người áo đen hét lên một tiếng, chưởng lực lại vù vù quạt tới.
Lý Tầm Hoan lùi lại như một mũi tên, thân hình ngửa ra gần song song với mặt đất. Chàng hầu như không có động tác gì nhưng phi đao đã rời khỏi tay.
Ánh đao lóe lên, giống như một ngôi sao băng rạch ngang màn đêm.
Người áo đen đột nhiên la một tiếng, nhảy vọt lên, lộn một vòng trên không trung, sử dụng thân pháp Phi Điểu Đầu Lâm bay vào phía sau rừng mai để chạy trốn.
Chân của Lý Tầm Hoan vừa chống xuống đất thì thân thể đứng thẳng lên ngay. Chàng đứng thoải mái, tựa như rất nhàn rỗi, hoàn toàn không có ý rượt theo.
Người áo đen chưa ra khỏi rừng mai, đã ngã xuống rồi.
Lý Tầm Hoan lắc đầu, thở một hơi dài rồi bước chậm sang. Trên mặt tuyết có một vệt máu tươi, người áo đen đang nằm ở chỗ tận cùng vết máu.
Hai tay của hắn tự nắm lấy yết hầu, máu tươi vẫn tiếp tục chảy ra giữa các kẽ ngón tay. Ngọn tiểu đao đã được rút ra, nằm cạnh người của hắn, lập lòe trong đêm.
Lý Tầm Hoan cúi xuống nhặt đao, nhìn thấy sắc mặt người áo đen có vẻ rất đau khổ, đang co giật liên hồi. Chàng thất vọng thở dài, từ từ hỏi: “Ngươi không phải là Mai Hoa Đạo, thế thì sao phải ép ta ra tay để chịu khổ như thế?”
Hắn nghiến chặt răng, trong cổ họng nổi lên những tiếng ằng ặc, nhưng không nói tiếng nào.
Lý Tầm Hoan nói: “Ngươi có thể không nhận ra ta, nhưng ta nhận ra ngươi. Ngươi là đại đệ tử của Y Khốc. Mười năm trước ta từng gặp ngươi. Ta chỉ cần gặp người nào một lần là không bao giờ quên được.”
Hắn giãy giụa, cố hết sức để nói: “Ta... ta cũng nhận ra ngươi.”
Lý Tầm Hoan than thở: “Ngươi đã nhận ra ta thì tại sao lại muốn giết ta? Chẳng lẽ ngươi muốn giết ta để diệt khẩu ư? Nhưng cho dù ngươi đến đây để hẹn hò nam nữ, cũng đâu phải là việc không thể đưa ra ánh sáng?”
Trong ánh mắt hắn tràn đầy vẻ oán thù, hai mắt lồi ra, vẫn cố gắng giãy giụa để nói gì đó. Nhưng cứ mỗi lần hắn dùng sức thì máu tươi lại rịn ra mạnh thêm một chút.
Lý Tầm Hoan lắc lắc đầu, nói từ từ: “Nhất định ngươi có một bí mật phải giấu, nên bất chấp mọi sự mà muốn giết ta để diệt khẩu. Lúc đó, chỉ sợ rằng ngươi cũng chưa biết người phải giết lại chính là ta.”
Chàng lại thở dài, nói tiếp: “Ngươi muốn giết ta, cho nên ta mới giết ngươi. Ngươi đã chọn sai đối tượng, ta cũng đã nhìn sai người rồi.”
Hắn hú lên được một tiếng, đột nhiên vọt mình xông tới Lý Tầm Hoan.
Nhưng Lý Tầm Hoan chỉ đứng yên lặng nhìn hắn, không động đậy chút nào. Bàn tay của hắn vừa nắm trúng ngực Lý Tầm Hoan, thì lại rơi xuống đất, vĩnh viễn không cất lên được nữa.
Lý Tầm Hoan đứng im lặng nhìn hắn, rất lâu mới chau mày nói: “Đêm qua là con trai của Tần Hiếu Nghĩa, đêm nay lại là đệ tử của Y Khốc. Xem ra cô nàng Lâm Tiên Nhi này cũng không có nhiều thời gian nhàn rỗi. Tầm mắt cũng không thấp, người đến hẹn hò toàn là đệ tử danh gia. Thiếu nữ nào mà không hoài xuân, thiếu niên nào mà không đa tình? Đây không phải là một việc gì phạm pháp, sao người này lại sợ người ta bắt gặp? Chẳng lẽ ở trong đó còn có một bí mật gì chăng?”
Ánh đèn trong Lãnh Hương Tiểu Trúc vẫn sáng, vừa rồi bóng trắng chính là chạy về phía đó. Bóng người này thoáng trông rất yểu điệu, có phải là Lâm Tiên Nhi hay không?
Lý Tầm Hoan trầm tư, từ từ tiến về phía Lãnh Hương Tiểu Trúc. Mắt chàng đang nhấp nháy, tựa như đang phát hiện một việc gì rất hứng thú. Gió thổi xuyên qua rừng mai, từng mảng tuyết rơi xuống đất.
Bỗng nhiên một mảng tuyết đang rơi bỗng vỡ tan tành như bị kình lực nào đó quét trúng, rồi hàn quang nhoáng lên. Tuy Lý Tầm Hoan mặc áo choàng bằng da điêu, mà vẫn bị hàn khí làm ớn lạnh thấu xương. Kiếm quang đã quét rách cái áo da điêu của Lý Tầm Hoan.
Đêm lạnh rất vắng lặng, vườn mai rất vắng vẻ, nhưng hình như bất cứ nơi nào cũng có một người muốn đẩy chàng vào chỗ ch.ết. Chàng lưu lạc mười năm, vừa về tới nhà, chẳng lẽ đây chính là cách tiếp đón du tử hồi gia hay sao?
Nếu Lý Tầm Hoan né sang bên trái, thì sườn phải nhất định bị chiêu kiếm đó đâm thủng. Nếu chàng né sang bên phải, thì sườn trái bị thủng. Nếu chàng vọt về phía trước thì chính giữa lưng phải có thêm một cái lỗ, vì bất kể thân pháp nào cũng không thể nhanh hơn chiêu kiếm này.
Tuy chàng đã trải qua rất nhiều trận chiến, nhưng chưa từng gặp chiêu kiếm nào nhanh đến thế.
*
* *
Nghe “soạt” một tiếng, kiếm đã đâm thủng cái áo bằng da điêu của Lý Tầm Hoan.
Nhưng trong nửa cái chớp mắt, thân thể của Lý Tầm Hoan đã xoay lại, ép sát vào lưỡi kiếm để rời khỏi. Lúc thanh kiếm lạnh lẽo đang chạm vào da, chàng cảm thấy toàn thân run bắn lên.
Tuy chàng đã trải qua rất nhiều trận chiến, nhưng chưa bao giờ gần với cái ch.ết đến thế.
Đối phương đâm hụt một kiếm, hình như cảm thấy rất kinh hãi. Thanh kiếm rung lên một cái rồi toan quét ngang qua, nhưng ngọn tiểu đao ở trong tay của Lý Tầm Hoan đã vội lia vào cổ tay của hắn.
Ngọn đao này đủ nhanh để đối phương không thể biến hóa kiếm chiêu.
Hắn kinh hãi buông kiếm rời khỏi tay, nhảy vọt lên trên không, xoay mình một cái toan chuồn đi.
Phi đao của Lý Tầm Hoan đã ra đến đầu ngón tay.
Trên thế gian, không có thân pháp nào nhanh hơn phi đao Tiểu Lý.
Nào ngờ, ngay trong lúc đó đột nhiên nghe một người lớn tiếng hét: “Hiền đệ! Ngừng tay!”
Đó chính là thanh âm của Long Tiêu Vân.
Lý Tầm Hoan khựng lại. Long Tiêu Vân đã xông vào trong vườn mai. Đối phương cũng đã từ trên không rơi xuống, thì ra là một thiếu niên áo gấm, sắc mặt trắng bệch.
Long Tiêu Vân đứng chen giữa hắn và Lý Tầm Hoan để can ngăn, giậm chân nói: “Tại sao hai vị lại giao đấu?”
Thiếu niên trừng mắt nhìn Lý Tầm Hoan, rồi nói: “Ở ngoài rừng có một người ch.ết. Dĩ nhiên ta nghĩ người đang ở trong rừng phải là Mai Hoa Đạo.”
Lý Tầm Hoan mỉm cười rồi hỏi lại: “Sao các hạ không nghĩ cái người ch.ết đó là Mai Hoa Đạo?”
Thiếu niên cười lạnh, đáp: “E rằng Mai Hoa Đạo không dễ dàng ch.ết dưới tay của người khác.”
Lý Tầm Hoan nói: “Chẳng lẽ Mai Hoa Đạo nhất định phải đợi để được ch.ết dưới tay của các hạ hay sao? Chỉ đáng tiếc là...”
Long Tiêu Vân cười lớn, cướp lời: “Hai vị đừng tranh luận nữa, đây là hiểu lầm mà thôi. May mà ta đến kịp thời, nếu không thì lưỡng hổ tương tranh, chắc chắn có người bị thương. Lúc đó không hay lắm!”
Lý Tầm Hoan mỉm cười, gỡ thanh kiếm đang dính vào cái áo da điêu ra, búng một cái. Thanh kiếm ngân lên một tiếng như long ngâm. Lý Tầm Hoan mỉm cười nói: “Kiếm tốt!”
Chàng đưa trả thanh kiếm, miệng nói: “Kiếm đã là danh kiếm, người chắc chắn cũng là danh gia. Cuộc hội ngộ hôm nay lại là chuyện hiểu lầm, nhưng tại hạ cũng cảm thấy thật là vinh dự. Bởi vì không phải người nào cũng có dịp thưởng thức kiếm chiêu của danh gia.”
Sắc mặt của thiếu niên vốn trắng bệch, hình như đã đỏ lên một chút. Đột nhiên hắn giành lấy kiếm, bẻ một cái, chỉ nghe một tiếng ngân dài, thanh kiếm đã gãy thành hai đoạn.
Lý Tầm Hoan than thở: “Kiếm tốt như thế, há chẳng đáng tiếc ư?”
Thiếu niên lớn tiếng nói, mắt vẫn không rời Lý Tầm Hoan: “Không dùng cây kiếm này, tại hạ vẫn có thể giết người. Chuyện này không cần phiền đến các hạ quan tâm.”
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Nếu biết trước như vậy, thì tại hạ cũng không cần trả thanh kiếm đó lại cho các hạ. Đem thanh kiếm đi đổi lấy vài cái áo để mặc cho đỡ lạnh cũng là việc tốt.”
Thiếu niên lạnh lùng nói: “Chuyện này cũng không cần các hạ phải lo lắng. Đừng nói là chỉ đâm thủng một cái áo da điêu, cho dù làm hư đến mười cái thì ta cũng bồi thường không thiếu chút nào.”
Lý Tầm Hoan nói: “Cái áo da điêu này của tại hạ, chỉ sợ là các hạ không thể tìm ra cái thứ hai.”
Thiếu niên đáp: “Cái áo da điêu của các hạ lại còn có chỗ khác lạ hay sao?”
Lý Tầm Hoan nghiêm chỉnh nói: “Cũng không đặc biệt lắm, nhưng những cái áo thông thường không có một đôi mắt như cái áo này.”
9 - Biết đến nơi nào để tránh nhau?
Câu nói của Lý Tầm Hoan làm cho gã thiếu niên hơi khựng lại, rồi lạnh lùng cười: “Thật là thú vị, thật là thú vị! Cái áo da điêu của các hạ lại có mắt ư?”
Lý Tầm Hoan lại mỉm cười: “Nếu cái áo của tại hạ không có mắt thì làm sao thấy được bảo kiếm của các hạ? Làm sao mà tại hạ có thể tránh được một chiêu kiếm đâm từ sau lưng?”
Sắc mặt gã thiếu niên lập tức biến đổi, giận đến nỗi tay run lên bần bật.
Long Tiêu Vân ho khan hai tiếng, lớn tiếng cười: “Hai vị thật khéo đùa giỡn. Hà hà! Đời nào thiếu trang chủ của Tàng Kiếm Sơn Trang lại tiếc một cây kiếm báu, đời nào Lý hiền đệ xem trọng một cái áo da điêu?”
Lý Tầm Hoan hơi thay đổi sắc mặt, nói: “Té ra vị này là Du thiếu trang chủ.”
Long Tiêu Vân mỉm cười: “Không sai! Du huynh không những là thiếu trang chủ của Tàng Long Lão Nhân, mà còn là truyền nhân duy nhất của Thiên Sơn Tuyết Ưng Tử, đệ nhất kiếm khách đương thời. Hai vị chỉ một lúc hiểu lầm, từ nay về sau nhất định phải thân thiết.”
Cặp mắt của Du Long Sinh vẫn còn nhìn trừng vào Lý Tầm Hoan, cười lạnh nói: “Thân thiết thì không dám, nhưng tại hạ cũng mong được biết cao tính đại danh của vị bằng hữu này.”
Long Tiêu Vân cười nói: “Té ra Du huynh còn chưa biết được vị huynh đệ này của ta. Hắn họ Lý, tên gọi là Lý Tầm Hoan. Thiên hạ hiện nay, e rằng chỉ có Lý hiền đệ đủ tư cách kết giao bằng hữu với Du huynh mà thôi.”
Cái tên “Lý Tầm Hoan” vừa gọi ra, sắc mặt của Du Long Sinh lại biến đổi. Ánh mắt hắn bèn nhìn chằm chằm vào ngọn tiểu đao trong tay của Lý Tầm Hoan, rất lâu sau vẫn chưa chịu rời khỏi.
Hình như Lý Tầm Hoan không nghe họ nói những gì. Trong mắt chàng lộ ra những tia sáng kỳ lạ, chậm rãi nói: “Quả là danh gia đệ tử.”
Lúc đó bỗng có một người xông vào, lớn tiếng hỏi: “Người ở ngoài kia là do ai giết?”
Người này xương gò má rất cao, vẻ mặt rất oai nghi. Hàm râu trắng cũng không rậm lắm, lộ ra một cái miệng rất rộng mà khóe miệng hướng về phía dưới. Sắc diện lão vừa oai nghi vừa trầm tĩnh, bình thường cũng đa có ba phần sát khí. Đây chính là Triệu đại gia Thiết diện vô tư Triệu Chánh Nghĩa, mà người trong giang hồ ai cũng có mấy phần sợ hãi.
Lý Tầm Hoan cười cười: “Ngoài tại hạ ra, còn có ai!”
Triệu Chính Nghĩa quắc đôi mắt sắc như gươm, nhìn trừng vào chàng, lớn tiếng: “Lại là ngươi! Lẽ ra ta phải đoán biết sớm hơn. Ngươi đi đến đâu là đem mùi tanh của máu đến đấy.”
Lý Tầm Hoan hỏi: “Người đó không đáng giết ư?”
Triệu Chính Nghĩa hỏi lại: “Ngươi có biết hắn là ai không?”
Lý Tầm Hoan than thở: “Chỉ tiếc một điều, hắn không phải là Mai Hoa Đạo.”
Triệu Chính Nghĩa phẫn nộ, giận dữ nói: “Ngươi đã biết hắn không phải là Mai Hoa Đạo, sao còn hạ độc thủ?”
Lý Tầm Hoan buồn bã nói: “Tại hạ không muốn giết hắn, nhưng cũng không muốn bị hắn giết. Bất luận thế nào thì giết người cũng tốt hơn bị người giết.”
Triệu Chính Nghĩa hỏi: “Hắn muốn giết ngươi trước ư?”
Lý Tầm Hoan đáp: “Phải!”
Triệu Chính Nghĩa nói: “Vô duyên vô cớ thì tại sao hắn lại muốn giết ngươi?”
Lý Tầm Hoan nói: “Tại hạ cũng cảm thấy ngạc nhiên, đang muốn hỏi hắn. Chỉ tiếc là hắn mặc kệ tại hạ.”
Triệu Chính Nghĩa giận dữ hỏi: “Sao ngươi không để hắn sống để hỏi cho rõ ràng?”
Lý Tầm Hoan nói: “Tại hạ cũng muốn để hắn sống, nhưng tiếc rằng phi đao của tại hạ đã phóng ra thì không điều khiển được nữa, đối phương sống hay ch.ết là ngoài ý muốn của tại hạ.”
Triệu Chính Nghĩa giậm chân: “Ngươi đã xuất quan rồi còn trở về làm chi nữa?”
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Chỉ vì tại hạ nhớ Triệu đại gia chịu không nổi, nên phải về thăm một chút.”
Triệu Chính Nghĩa tức tối cực điểm, sắc mặt vàng khè, chỉ thẳng mặt Long Tiêu Vân, nói: “Tứ gia thấy không? Hảo huynh đệ của Tứ gia gây chuyện như thế đó, người khác không thể nào chịu được!”
Long Tiêu Vân mỉm cười: “Có gì thì cứ từ từ mà nói, đại ca hà tất phải nổi cơn thịnh nộ như thế?”
Triệu Chính Nghĩa: “Có gì để nói nữa đâu? Chỉ một Mai Hoa Đạo đã điên đầu rồi, bây giờ lại thêm Thanh ma Y Khốc thì ai chịu nổi.”
Lý Tầm Hoan cười lạnh: “Không sai! Ta giết Khưu Độc, đồ đệ của Thanh ma Y Khốc, hắn nhất định sẽ tìm đến trả thù. Nhưng người mà Y Khốc muốn tìm là chỉ một mình ta mà thôi. Triệu đại gia hà tất lo lắng thay cho ta!”
Long Tiêu Vân nói: “Khưu Độc nửa đêm canh ba đi đến đây, dĩ nhiên cũng không phải vì lòng tốt. Thật ra, đệ giết hắn cũng không oan uổng. Nếu ta mà thấy thì chắc chắn cũng giết hắn mà thôi.”
Triệu Chính Nghĩa không đợi hắn nói xong, giận dữ bỏ đi ngay.
Du Long Sinh cười khẩy: “Triệu đại gia già rồi, tính khí ngày càng dễ nổi nóng mà gan mật ngày càng nhỏ lại. Thanh ma Y Khốc đến thì có sao nào? Tại hạ cũng muốn nhân cơ hội đó mà xem thử phi đao vang danh thiên hạ của Lý Thám Hoa như thế nào!”
Lý Tầm Hoan lãnh đạm cười: “Nếu các hạ đã quan tâm như thế, thì cũng không nhất thiết phải đợi Y Khốc đến!”
Sắc mặt Du Long Sinh lại thay đổi, tựa như muốn nói gì đó, nhưng hắn lại liếc vào ngọn tiểu đao nơi tay của Lý Tầm Hoan rồi không nói nữa, quay mặt bỏ đi luôn.
Long Tiêu Vân hình như muốn rượt theo, nhưng lại đứng lại lắc đầu than thở: “Hiền đệ! Ngươi hà tất phải làm khổ mình như thế. Cho dù đệ không coi bọn họ ra gì, không muốn kết giao bằng hữu với bọn họ, thì cũng đâu phải đắc tội với bọn họ chứ?”
Lý Tầm Hoan cười: “Họ vốn đã xem đệ là một con người hết thuốc chữa, đắc tội hay không cũng thế thôi. Thà chọc tức cho họ đi ngay, như vậy có thể yên tĩnh một chút.”
Long Tiêu Vân nói: “Dù sao, có thêm bằng hữu vẫn hơn là thêm một kẻ thù.”
Lý Tầm Hoan đáp: “Nhưng trên đời này, được mấy người không phụ hai chữ bằng hữu? Bằng hữu như đại ca, bất cứ ai có một người cũng thấy là đủ rồi.”
Long Tiêu Vân vỗ vai Lý Tầm Hoan cười ha hả: “Hay lắm! Chỉ cần được nghe câu nói này của đệ, cho dù ta phải đắc tội với những người khác thì cũng đáng!”
Lòng Lý Tầm Hoan hơi xúc động, nhưng lại bắt đầu ho sù sụ.
Long Tiêu Vân chau mày: “Mấy năm nay, chứng ho của hiền đệ... “
Như không muốn nghe chuyện đó, Lý Tầm Hoan ngắt lời: “Đại ca! Bây giờ đệ muốn gặp một người...”
Long Tiêu Vân nói liền: “Ai?”
Lông mày của hắn chớp chớp, không đợi câu trả lời của Lý Tầm Hoan, lại hỏi ngay: “Có phải Lâm Tiên Nhi?”
Lý Tầm Hoan cười: “Đại ca thật xứng đáng là tri kỷ của đệ...”
Long Tiêu Vân rạng rỡ cười to: “Ta cũng đã biết rồi, trước sau gì đệ cũng không nhịn nổi mà muốn gặp cô nàng đó. Nếu mà Lý Tầm Hoan không muốn gặp thiên hạ đệ nhất mỹ nhân, thì đâu có còn là Lý Tầm Hoan nữa?”
Lý Tầm Hoan mỉm cười không đáp, tựa như nhìn nhận.
Nhưng trong lòng của chàng đang nghĩ gì? Ngoài chính chàng ra, e rằng không ai đoán nổi.
Long Tiêu Vân kéo tay Lý Tầm Hoan đi ra phía ngoài, mỉm cười nói: “Nếu như đệ muốn đến đây để tìm nàng, thì đã tìm sai chỗ rồi. Từ sau khi xảy ra cái chuyện đêm hôm trước, nàng đâu có dám ở lại Lãnh Hương Tiểu Trúc ban đêm?”
Lý Tầm Hoan chỉ “À” một tiếng.
Long Tiêu Vân nói: “Hai đêm nay, nàng luôn luôn ở cạnh Thi Âm. Hiền đệ cũng nên nhân cơ hội này mà qua thăm Thi Âm một chút, vì dù sao nàng cũng là nữ nhân đang xót cho con. Đệ qua đó an ủi nàng mấy câu thì có hay hơn không?”
Hắn thật sự không để ý tới cái sắc diện đau khổ của Lý Tầm Hoan, chỉ thở ra một hơi rồi nói tiếp: “Thực ra, nàng cũng không phải không biết chỗ đáng ghét của Vân nhi, nhất định sẽ không trách móc đệ đâu.”
Lý Tầm Hoan gượng cười: “Nhưng chúng ta đã đến đây rồi, cũng nên ghé ngang Lãnh Hương Tiểu Trúc xem sao. Không chừng bây giờ Lâm cô nương đã trở về đây rồi...”
Long Tiêu Vân cười nói: “Cũng được. Xem chừng đêm nay mà đệ không gặp được nàng thì ngủ không yên giấc.”
Lý Tầm Hoan vẫn mỉm cười: “Gặp hay không gặp thì có gì khác nhau đâu?”
Nhưng ánh mắt của chàng chợt sáng ngời lên, như đang ẩn tàng một điều bí mật gì đó.
*
* *
Trong Lãnh Hương Tiểu Trúc quả không có một ai.
Lý Tầm Hoan vừa mới bước vào trong, như đã giẫm phải những bước chân kí ức của mười năm về trước.
Tất cả những vật bày biện trong gian phòng này hoàn toàn giống như mười năm trước, không thay đổi một chút nào. Chiếc bàn, chiếc ghế vẫn ở nguyên chỗ mười năm trước, ngay cả nghiên mực, sách vở ở trên bàn vẫn hoàn toàn không có một thay đổi gì. Nếu không phải trong đêm gió tuyết thế này thì ánh trăng trước cửa, ánh tà dương ở góc nhà chắc chắn cũng hoàn toàn không có chi thay đổi.
Lý Tầm Hoan cảm thấy mình đang sống lại những năm về trước. Thời gian đi ngược lại, ngày mà chàng còn có thể cùng Lâm Thi Âm ngồi đếm hoa mai, có thể âu yếm khoác lên vai nàng chiếc áo da hồ ly, có thể cùng vào trong nhà ghi lại những câu thơ vừa mới ngâm ở ngoài hiên, để tránh sau này quên lãng mất.
Nhưng bây giờ Lý Tầm Hoan muốn quên, thì mới biết rằng những kỷ niệm đó hoàn toàn không thể quên được. Nếu biết trước như thế này, thì lúc đó chàng bất tất phải lấy bút mực mà ghi lại làm chi cho khổ.
Ngoài trời tuyết lại nhè nhẹ rơi. Bông tuyết nhè nhẹ đáp bên khung cửa sổ, giống như giọng nói thì thầm của những cặp tình nhân.
Lý Tầm Hoan bất giác thở dài, nói: “Mười năm rồi... cũng có thể còn hơn mười năm. Có lúc thời gian như đi rất chậm, nhưng khi nó trôi qua rồi thì người ta mới phát giác rằng nó nhanh đến kinh ngạc.”
Tựa như Long Tiêu Vân cũng đang có rất nhiều cảm khái. Đột nhiên hắn cười nói: “Hiền đệ có còn nhớ cái ngày đầu tiên mà ngu huynh đặt chân đến nơi này không? Hồi ấy hình như cũng gặp lúc tuyết rơi...”
Lý Tầm Hoan nói: “Đệ... đệ làm sao quên được?”
Long Tiêu Vân cười lớn: “Ta còn rất nhớ cái ngày mà chúng ta uống gần sạch hết rượu trong nhà, đó cũng là cái lần duy nhất ta nhìn thấy đệ say. Nhưng lúc đó đệ vẫn một mực bảo là không say, lại còn đánh cuộc với ta, nói là đệ có thể dùng chữ chân khải để chép ra tám bài thơ Thu Hứng của Đỗ Công Bộ không sai một nét.”
Hắn đột nhiên cầm lấy một cây bút cắm trong ống ở trên bàn, nói: “Ta còn nhớ, cây bút hôm đó đệ dùng chính là cây bút này đây.”
Tiếng cười của Lý Tầm Hoan vẫn đầy đau khổ, song chàng vẫn gắng gượng cười: “Chắc huynh vẫn nhớ, cái lần đánh cuộc ấy đệ đã thắng.”
Long Tiêu Vân cười nói: “Nhưng có lẽ hiền đệ không thể ngờ rằng sau mười năm, cây bút ấy vẫn còn ở chỗ này!”
Lý Tầm Hoan cười nhưng không nói, trong lòng chợt nổi lên những ý niệm thê lương. Bút vẫn còn trong ống, chỉ đổi chủ nhân thôi.
Long Tiêu Vân nói: “Kể ra cũng lạ, hình như Lâm Tiên Nhi đã sớm đoán được rằng hiền đệ sẽ trở về đây. Tuy nàng đã đến đây nhiều lần, nhưng từng gốc cây từng ngọn cỏ ở quanh đây nàng cũng chưa hề động đến.”
Lý Tầm Hoan lãnh đạm nói: “Nàng có cần phải làm thế đâu?”
Long Tiêu Vân mỉm cười nói: “Ta cũng không bảo nàng làm như thế, nhưng nàng lại nói...”
Đột nhiên nghe một người la gọi.
Long Tiêu Vân đẩy cửa sổ ra, chau mày nói: “Ta ở đây. Có việc gì không?”
Người ấy vừa thở hổn hển vừa nói: “Tần đại thiếu gia chắc... không xong. Tần lão gia mời Tứ gia qua đó để xem.”
Sắc mặt của Long Tiêu Vân thay đổi rồi nói: “Hiền đệ...”
Lý Tầm Hoan nói: “Đệ... đệ còn muốn ở đây một lúc, không biết có tiện không?”
Long Tiêu Vân cười nói: “Tất nhiên là tiện. Đây vốn là chỗ của đệ mà, cho dù Lâm Tiên Nhi có trở về thì chỉ có hoan nghênh chứ đâu thể khác?”
Long Tiêu Vân vội vã đi ra, vừa qua ngưỡng cửa thì nụ cười không còn trên mặt nữa.
Lý Tầm Hoan ngồi lặng lẽ trên chiếc ghế gỗ mun phủ da hổ. Tuổi tác của chiếc ghế này còn lớn hơn chàng một chút.
Chàng nhớ lúc mình còn nhỏ, từng rất thích bò trên chiếc ghế này để mài mực cho cha. Lúc bấy giờ chàng chỉ mong mình mau lớn, cao lên một chút để có thể leo lên chiếc ghế này cho dễ. Lúc đó trong lòng của chàng có những suy nghĩ rất kỳ quặc, cứ sợ cái ghế cũng trưởng thành như người, càng ngày càng cao lên.
Cho đến một ngày, chàng có thể ngồi lên chiếc ghế này, lúc đó mới nhận ra chiếc ghế không thể cao lớn lên được. Chàng chợt cảm thấy thương hại, cảm thấy chiếc ghế thật là tội nghiệp.
Nhưng bây giờ chàng lại mong ước mình được như chiếc ghế này, vĩnh viễn không bao giờ lớn lên, không bao giờ đau buồn. Tiếc rằng giờ đây ghế thì vẫn còn đó, mà người thì đã già rồi.
Già rồi... già rồi...
Đột nhiên một người nhẹ nhàng cười nói: “Ai bảo là huynh đã già rồi?”
Người thì vẫn còn ở ngoài cửa sổ, nhưng tiếng cười đã mang hơi ấm áp thanh xuân vào trong phòng giữa trời đông giá tuyết. Tiếng cười đã như thế, dĩ nhiên người thế nào thì có thể đoán biết.
Ánh mắt của Lý Tầm Hoan lập tức sáng lên, nhưng chàng vẫn im lặng nhìn vào cánh cửa đó, không đứng dậy mà cũng không nói một lời.
Lâm Tiên Nhi chầm chậm bước vào.
Nhân vật võ lâm quả là rất ít người mù, nàng đúng là một tuyệt sắc giai nhân. Nếu có ai dùng hoa mà ví với nàng, thì người ấy đã cố tình bôi nhọ.
Trên đời không có một loài hoa nào có thể làm động lòng người như nàng.
Toàn thân nàng không có một chỗ nào không làm cho người ta bị thu hút, nhưng nơi hút hồn nhất chính là đôi mắt của nàng. Chắc chắn không có nam nhân nào có thể cự tuyệt đôi mắt ấy.
Đôi mắt đó có thể bắt người ta phạm tội.
Nhưng thái độ của nàng lại vừa thân thiết vừa tự nhiên, tuyệt nhiên không có vẻ gì muốn bắt người ta phạm tội. Nàng quả là thiếu nữ dịu dàng nhất, thuần khiết nhất trên thế gian.
Nhưng bất luận nàng như thế nào, cũng không có cách làm thay đổi được ấn tượng của Lý Tầm Hoan, vì đây không phải là lần đầu tiên Lý Tầm Hoan gặp nàng.
Ở dưới nhà bếp, trong một tửu điếm, kế bên thi thể của Tường Vi phu nhân, Lý Tầm Hoan đã từng lãnh giáo vẻ dịu dàng, thuần khiết của nàng.
Thật tình Lý Tầm Hoan cũng khó mà tin được thiếu nữ trước mắt chính là mỹ nhân thần bí muốn tự trao đổi lấy bộ Kim Ty Giáp ngày nào.
Bởi vì, thần sắc của nàng so với ngày đó như là hai người. Nếu không phải Lý Tầm Hoan vốn tin mắt mình không thể nhìn lầm, thì chắc chắn chàng không thể tin nổi cô gái độc ác, ɖâʍ đãng và từng trải đó, lại là thiếu nữ dịu dàng ngây thơ đang cười trước mắt mình.
Lý Tầm Hoan thở dài một hơi, nhắm mắt lại.
Lâm Tiên Nhi khẽ chớp rèm mi, dịu dàng nói: “Sao huynh nhắm mắt lại? Chẳng lẽ huynh không muốn nhìn muội ư?”
Lý Tầm Hoan cười: “Ta đang hồi tưởng hình dáng của cô ngày ấy, khi không còn xiêm áo trên người.”
Sắc mặt của Lâm Tiên Nhi hình như đỏ lên. Nàng uất ức than thở: “Muội vốn hy vọng huynh không nhận ra, nhưng cũng biết hy vọng đó quá mong manh.”
Lý Tầm Hoan hỏi: “Giả tỉ ta quên cô nhanh như vậy, cô há chẳng thất vọng lắm sao?”
Lâm Tiên Nhi mỉm cười: “Nhưng khi huynh gặp muội thì chẳng kinh ngạc gì. Không lẽ huynh đã biết muội là ai rồi sao?”
Lý Tầm Hoan nói: “Chỉ vì những người được gọi là mỹ nhân, trong võ lâm có lẽ không nhiều lắm.”
Lâm Tiên Nhi cười nói: “Nhưng cũng có lẽ, khi huynh gặp đồ đệ của Y Khốc thì nghĩ tới đôi Thanh Ma Thủ của muội, và khi gặp Du Long Sinh thì lại nhớ tới Ngư Trường Kiếm của muội, có phải không?”
Lý Tầm Hoan mỉm cười hỏi lại: “Kỳ lạ thật. Cô đã biết ta ở chỗ này, tại sao còn dám đến để gặp ta?”
Lâm Tiên Nhi cắn môi than thở: “Nàng dâu dù có xấu xí đến thế nào thì cũng không thể không gặp bố mẹ chồng. Có muốn né tránh cũng chẳng ích gì, cho nên khi nghe Long tứ gia gọi là muội lập tức chạy đến đây ngay.”
Lý Tầm Hoan nói: “À, thì ra Long huynh bảo cô đến đây.”
Lâm Tiên Nhi cười: “Chẳng lẽ huynh lại không biết ý của Long tứ gia sao? Long huynh từ trước đến giờ đều muốn tác hợp cho chúng ta. Cũng có thể Long huynh cảm thấy đã có lỗi với huynh... đã giành lấy...”
Nghe đến đây, sắc mặt của Lý Tầm Hoan đột nhiên trầm hẳn xuống, chàng đã biết cái điều mà nàng muốn nói. Nhưng khi sắc mặt chàng vừa trầm xuống thì Lâm Tiên Nhi lập tức ngưng lại không nói tiếp nữa.
Nàng không bao giờ muốn nói những gì mà người ta không muốn nghe.
Lý Tầm Hoan cũng lặng yên, tựa như đang chờ nàng nói tiếp. Qua một hồi lâu, chàng mới nói từng tiếng một: “Long huynh không có lỗi gì với ta cả. Bất cứ người nào cũng không có lỗi với ta, chỉ ta mới có lỗi với người khác thôi.”
Lâm Tiên Nhi hỏi: “Huynh đã có lỗi với ai?”
Lý Tầm Hoan lạnh lùng đáp: “Ta có lỗi với rất nhiều người, ngay cả chính ta cũng không nhớ hết.”
Lâm Tiên Nhi nhẹ nhàng nói: “Dù huynh nói thế nào đi nữa, nhưng muội biết chắc rằng huynh không phải là con người như thế.”
Lý Tầm Hoan nói: “Nếu vậy, cô nghĩ ta là con người như thế nào?”
Lâm Tiên Nhi nói: “Đương nhiên là muội biết. Từ lúc muội còn nhỏ, rất nhỏ, đã nghe người ta kể về huynh rồi. Vì thế khi muội biết đây là nơi trước đây huynh từng ở, muội đã vui mừng đến nỗi không thể ngủ được.”
Nàng nhẹ nhàng quay người lại nói: “Huynh xem, nơi đây có giống như khi huynh rời đi mười năm về trước hay không? Ngay cả bình rượu mà huynh để trên kệ sách, muội cũng không dời đi. Huynh có biết vì sao muội làm như thế không?”
Lý Tầm Hoan chỉ nhìn nàng bằng đôi mắt lạnh nhạt.
Lâm Tiên Nhi lại tiếp: “Đương nhiên là huynh không thể biết được. Nhưng muội có thể nói cho huynh biết, bởi vì chỉ như thế này muội mới cảm giác được đây là chỗ ở của huynh. Nhiều lúc muội còn cảm thấy huynh vẫn ở trong căn nhà này, đang ngồi trên cái ghế này, chăm chú nhìn muội và nhẹ nhàng trò chuyện với muội.”
Đôi mắt nàng chợt hơi mờ đi, nhỏ nhẹ nói: “Có lúc nửa đêm muội thức dậy, cảm thấy như huynh vừa nằm bên cạnh, trên chăn gối vẫn còn phảng phất hơi thở của huynh.”
Đột nhiên Lý Tầm Hoan vụt cười lớn rồi nói: “Ngoài ta ra, chắc chắn còn có những người khác nữa chứ?”
Lâm Tiên Nhi cắn chặt môi rồi đáp: “Huynh tưởng rằng trong ngôi nhà này còn có người khác ra vào hay sao?”
Lý Tầm Hoan điềm nhiên nói: “Nơi đây đã thuộc về muội, thì muội muốn cho ai vào đây cũng đâu có gì trở ngại?”
Lâm Tiên Nhi hỏi lại: “Huynh cho rằng bọn Du Long Sinh, Khưu Độc... đều đã vào đây hay sao?”
Khóe mắt nàng lộ sắc giận, nói tiếp: “Nói cho huynh biết, từ trước đến nay muội chưa từng cho một ai bước qua ngưỡng cửa này cả, vì thế mà bọn họ phải đợi trong rừng mai. Muội mà chịu cho bọn họ vào đây, thì có lẽ Khưu Độc và Tần Trọng chưa bị giết ch.ết.”
Lý Tầm Hoan chau mày hỏi: “Đã đến thế này thì sao cô nương không cho họ vào đây?”
Lâm Tiên Nhi cắn chặt môi: “Bởi vì nơi đây là chỗ của huynh. Muội cần phải thay thế huynh để mà giữ lấy, tuyệt nhiên không để cho nam nhân khác vào đây làm mất mát những... những... của huynh để lại.”
Nàng tựa hồ không biết dùng chữ gì.
Lý Tầm Hoan mỉm cười, nói hộ: “Mùi vị?”
Lâm Tiên Nhi đỏ mặt cúi đầu, hỏi lại: “Ý của muội, huynh có hiểu chưa?”
Lý Tầm Hoan cười: “Đến bây giờ ta mới biết con người của ta có mùi vị... Đó là mùi vị gì vậy? Có thơm tho gì không, hay là ngược lại?”
Lâm Tiên Nhi cúi đầu xuống thấp hơn: “Muội nói ra những chuyện đó, không phải để cho huynh cười nhạo muội đâu.”
Lý Tầm Hoan hỏi: “Thế thì vì lẽ gì?”
Lâm Tiên Nhi hỏi lại: “Huynh còn chưa hiểu ý của muội ư?”
Lý Tầm Hoan lại cười rồi hỏi lại: “Nếu thế thì không cần ai mai mối tác hợp, ta cũng có nhiều hy vọng rồi?”
Lâm Tiên Nhi nói: “Nếu không phải muội đã biết... sớm biết huynh đối với muội... thì hôm đó làm sao muội có thể...”
Tuy rằng mỗi câu nàng chỉ nói một nửa, nhưng cũng có những lời nói chỉ nên nói ra một nửa thôi, thì ý tưởng được diễn đạt hiệu quả hơn nhiều, thú vị hơn nhiều.
Lý Tầm Hoan thản nhiên cười: “Té ra hôm đó chỉ vì cô thích ta mà làm như thế. Ta cứ tưởng cô vì Kim Ty Giáp.”
Lâm Tiên Nhi đáp: “Đương nhiên muội cũng vì Kim Ty Giáp, nhưng nếu đối tượng không phải là huynh thì muội làm sao chịu... làm sao chịu...”
Lý Tầm Hoan nói: “Như vậy là nhất cử lưỡng tiện ư?”
Lâm Tiên Nhi nói: “Huynh nhất định cũng ngạc nhiên, không hiểu sao muội lại cần cái Kim Ty Giáp đó.”
Lý Tầm Hoan nói: “Thật sự là ta có ngạc nhiên.”
Lâm Tiên Nhi nói: “Đó chỉ là vì muội muốn chính tay giết ch.ết Mai Hoa Đạo.”
Lý Tầm Hoan “À” một tiếng.
Lâm Tiên Nhi nói: “Chắc huynh cũng đã biết, bất cứ ai giết ch.ết Mai Hoa Đạo, muội phải lấy người đó. Câu này tuy rằng chính muội nói ra, nhưng muội rất đau khổ trong lòng.”
Lý Tầm Hoan cười: “Cô muốn chính tay giết Mai Hoa Đạo, chẳng lẽ muốn làm vợ chính mình?”
Lâm Tiên Nhi nói: “Muội làm như thế chỉ vì không muốn lấy người khác. Nếu chính muội giết ch.ết Mai Hoa Đạo thì không cần phải lấy ai khác cả.”
Nàng chợt ngẩng mặt lên, nhìn chằm chằm vào Lý Tầm Hoan, dịu dàng nói: “Bởi vì trong tất cả nam nhân trên thế gian này, không có ai lọt vào mắt muội.”
Lý Tầm Hoan chăm chú nhìn nàng: “Còn ta thì sao?”
Lâm Tiên Nhi đỏ mặt lên rồi mỉm cười: “Huynh đương nhiên là ngoại lệ.”
Lý Tầm Hoan nói: “Tại sao lại thế?”
Lâm Tiên Nhi thì thầm đáp: “Bởi vì huynh hoàn toàn không như những nam nhân khác. Bọn họ không khác gì giống chó, bất cứ muội đối với họ như thế nào, họ cũng cứ lẽo đẽo theo muội. Chỉ có huynh...”
Lý Tầm Hoan lãnh đạm cười: “Tại sao cô không để ta giữ Kim Ty Giáp? Ta giết ch.ết Mai Hoa Đạo, rồi cô lấy ta làm chồng, như thế có phải nhất cử lưỡng tiện không?”
Lâm Tiên Nhi khựng lại, tức khắc lại mỉm cười: “Ý kiến này thật là tuyệt diệu. Sao muội lại không nghĩ ra nhỉ?”
Lý Tầm Hoan chớp chớp mắt: “Ý kiến hay như vậy, thì ngoài ta còn ai nghĩ ra được nữa?”
Lâm Tiên Nhi tựa như không thấy hàm ý chế giễu trong câu nói ấy, nắm tay Lý Tầm Hoan: “Muội biết Mai Hoa Đạo sắp đến. Đêm mai muội sẽ ở đây đợi hắn.”
Lý Tầm Hoan hỏi lại: “Có phải cô muốn đêm mai ta cũng đến đây không?”
Lâm Tiên Nhi đáp: “Muội sẽ là miếng mồi nhử hắn đến đây. Huynh có Kim Ty Giáp trong mình thì dù không chế ngự được hắn, hắn cũng không đả thương huynh được. Khi huynh đã chế ngự hắn rồi thì...”
Nàng đỏ mặt cúi đầu, đôi mắt hút hồn không ngớt liếc nhìn Lý Tầm Hoan. Nàng không nói bằng miệng, chỉ nói bằng ánh mắt.
Lý Tầm Hoan chớp mắt mỉm cười: “Hay lắm. Đêm mai nhất định ta sẽ đến, nếu không đến thì quả là ngu ngốc.”
Lâm Tiên Nhi khẽ rút tay về, nhưng mấy ngón tay vừa nhỏ vừa xinh lại nhẹ nhàng vẽ trên lưng bàn tay của Lý Tầm Hoan những vòng tròn, tựa như đang vẽ những sợi dây trói buộc tim chàng.
Lý Tầm Hoan bật cười: “Kể ra thì cô đã thông minh hơn một chút.”
Lâm Tiên Nhi đỏ mặt: “Muội vốn thông minh rồi mà.”
Lý Tầm Hoan nói: “Muội đã học được một điều, là phải để nam nhân chủ động.”
Lâm Tiên Nhi thở gấp, run rẩy nói: “Nhưng... nhưng huynh... bây giờ không thể... Phải không?”
Lý Tầm Hoan nhìn thẳng mặt nàng, ánh mắt vẫn điềm đạm như ao nước mùa thu, nhưng nụ cười trên miệng không bình thản lắm: “Sao cô biết bây giờ ta sẽ không thể?”
Lâm Tiên Nhi cố cười: “Bởi vì huynh là người quân tử. Có phải thế không?”
Lý Tầm Hoan cười buồn: “Cho đến nay, ta mới làm quân tử một lần. Lần đó ta đã ân hận suốt ba ngày.”
Lâm Tiên Nhi vẫn cười, nhích chân toan chạy.
Nhưng Lý Tầm Hoan đã kéo nàng lại, cười nói: “Thì ra cô chẳng những học được cách để nam nhân chủ động, mà còn học được cách giả vờ chạy trốn nữa.”
Lâm Tiên Nhi hứ một tiếng, rồi thở gấp: “Đó... đó có phải là biện pháp huynh đã dạy muội không?”
Chương 10 - Mười tám năm oán cũ
Lý Tầm Hoan thở dài: “Ta đã dạy quá nhiều, mà cô học cũng quá nhanh.”
Chàng bỗng xô nhẹ nàng ra, phủi phủi quần áo đứng dậy, rồi quay mặt ra cửa sổ, lên tiếng: “Chương trình hôm nay đến đây là hết. Nếu các hạ thấy xem chưa đã, thì đêm mai xin đến sớm hơn.”
Ngoài cửa sổ có tiếng cười khẩy: “Thủ đoạn của các hạ quả thật cao minh. Mong rằng phi đao của các hạ cũng cao minh như thế!”
Thanh âm càng lúc càng xa, đến chữ cuối cùng đã ngoài mười trượng.
Lâm Tiên Nhi biến sắc hỏi: “Du Long Sinh ư?”
Lý Tầm Hoan điềm nhiên: “Cô sợ hắn ghen ư?”
Ánh mắt Lâm Tiên Nhi lộ vẻ ác độc. Nàng lạnh lùng cười nói: “Hắn là cái thứ gì mà dám ghen? Hừ! Không ngờ thế gia đệ tử mà làm những chuyện đê tiện như thế. Từ nay về sau, nếu muội có đếm xỉa đến hắn thì mới là chuyện lạ.”
Lý Tầm Hoan cười: “Cô không sợ hắn đòi lại thanh Ngư Trường Kiếm ư?”
Lâm Tiên Nhi nói: “Cho dù muội vứt thanh Ngư Trường Kiếm trước mặt hắn, chưa chắc hắn đã dám nhặt.”
Lý Tầm Hoan “À” một tiếng.
Lâm Tiên Nhi mỉm cười nói tiếp: “Muội đã nói rồi mà. Loại người như hắn, trời sinh cốt cách giống như loài chó. Người ta càng đánh càng mắng, chó càng cố đi theo vẫy đuôi nịnh bợ.”
Lý Tầm Hoan nói: “Có một con chó theo sau vẫy đuôi, cũng hứng thú lắm chứ?”
Lâm Tiên Nhi kéo tay Lý Tầm Hoan lại: “Huynh phải đi ngay ư? Không thể ngồi đây một lúc nữa sao?”
Lý Tầm Hoan cười: “Ta mà ngồi đây một lúc nữa, e rằng con chó kia quay lại cắn thì mất cả hứng thú.”
Lâm Tiên Nhi nói: “Hừ! Hắn dám...”
Nàng chưa nói hết, đã nghe tiếng Du Long Sinh từ xa vẳng tới: “Chương trình bên này đã kết thúc, nhưng chương trình bên kia lại bắt đầu. Các hạ không đi xem ư?”
Lý Tầm Hoan bật cười: “Cô thấy đấy! Ta nói có sai đâu, hắn quyết không cho ta ngồi yên.”
Lâm Tiên Nhi cả giận: “Thật là đáng ghét.”
Đột nhiên nàng lại cười, kéo tay Lý Tầm Hoan, nói tiếp: “Đêm nay không được ngồi yên thì hãy còn đêm mai. Đêm mai, huynh nhớ đến sớm hơn.”
*
* *
Du Long Sinh đã đi thật. Lý Tầm Hoan vừa ra khỏi rừng mai thì nghe xa xa có tiếng quát tháo đánh nhau ầm ĩ.
Trong tiếng ồn ào đó, Lý Tầm Hoan nghe thấy giọng của đại hán đánh xe râu quai nón. Chàng bèn lập tức thi triển thân pháp Yến Tử Tam Sao Thủy, chỉ ba cái giậm chân là đến nơi phát ra tiếng động.
Sau hòn giả sơn có ba gian nhà, trên mặt sân trước nhà đang diễn ra trận đấu. Quyền phong mãnh liệt của hai đối thủ hất tuyết trên sân bay mù mịt đầy trời.
Đại hán râu giận dữ hét lớn: “Họ Tần kia! Ngươi tự xưng là hiệp nghĩa, thực ra không đáng một đồng. Con của ngươi không trị được thì có phải là lỗi của người ta đâu, sao ngươi lại hạ độc thủ với người ta?”
Đối thủ của hắn, chính là Thiết đảm chấn bát phương Tần Hiếu Nghĩa, cũng giận dữ đáp: “Ngươi là cái thứ gì? Đã không tự biết thân phận đầy tớ, lại đến đây can thiệp vào chuyện của lão phu. Lão phu phải giết ngươi luôn cho gọn.”
Long Tiêu Vân đang đứng một bên, cố gắng khuyên giải. Còn Du Long Sinh chắp tay sau lưng đứng nhìn.
Lý Tầm Hoan vừa như chim yến lượn tới, Long Tiêu Vân lập tức đứng lên đón lại, giậm chân nói: “Hiền đệ, mau mau khuyên can họ đi. Mai Hoa Đạo chưa hiện thân mà người trong nhà đã va chạm nhau trước rồi, còn làm được gì nữa chứ?”
Du Long Sinh cười nhạt: “Quả là dưới tay tướng giỏi không có quân hèn. Không ngờ bản lãnh thủ hạ của Lý Thám Hoa đến như vậy, tính tình lại cực kỳ hung hãn.”
Lý Tầm Hoan điềm nhiên đáp: “Không sai. Hắn có thể rất hung hãn dữ tợn. Nhưng nếu đừng ai chọc đến hắn, thì nhất định hắn chẳng biết hung hãn là gì.”
Lý Tầm Hoan không đợi Du Long Sinh đáp, đã quay sang hỏi Long Tiêu Vân : “Tại sao lại thế này?”
Long Tiêu Vân nói: “Vì Tần Trọng bị thương không chữa được, nên Tần tam ca...”
Lý Tầm Hoan chau mày: “Con của lão trọng thương không chữa được, lão lại trút giận lên đầu Mai Nhị tiên sinh ư?”
Long Tiêu Vân cười khổ: “Phụ tử tình thâm, Tần tam ca không tránh khỏi đau lòng, nhất thời lỡ tay đả thương Mai Nhị tiên sinh, nhưng vết thương không nặng lắm đâu!”
Lý Tầm Hoan cười lạnh, không nói gì.
Long Tiêu Vân nói: “Hiền đệ khuyên can hắn đi. Ta biết hắn chỉ nghe một mình hiền đệ thôi.”
Lý Tầm Hoan lạnh lùng đáp: “Sao lại phải khuyên hắn? Nếu hắn không ra tay thì tiểu đệ cũng phải ra tay.”
Long Tiêu Vân nghẹn lời, không biết nên nói gì.
Quyền phong của đại hán râu cuộn gió vù vù, chiêu thức tuy không tinh diệu lắm, nhưng sát khí đủ hớp hồn đối thủ. Tần Hiếu Nghĩa bị ép đến gần hết hơi.
Du Long Sinh cười khẩy: “Đấu pháp của tên này quả là hiếm thấy.”
Lý Tầm Hoan chỉ “À” một tiếng.
Du Long Sinh tiếp: “Hắn không cần phòng thủ, mỗi khi xuất quyền đều chấp nhận cho người ta đánh trả một chiêu. Thứ quyền pháp đó thật sự khó hiểu.”
Lý Tầm Hoan chầm chậm đáp: “Thực ra thì chuyện đó lại rất dễ hiểu.”
Du Long Sinh lại “À” một tiếng.
Lý Tầm Hoan tiếp: “Chỉ vì người ta đánh hắn một quyền thì hắn coi như phủi bụi, nhưng hắn đánh trúng ai một quyền thì không chừng người đó nát ra như bụi.”
Du Long Sinh biến sắc, nhưng chưa kịp nói gì thì bỗng nghe một tiếng quát đầy phẫn nộ: “Cái thứ chó cậy oai chủ, đồ đầy tớ dám phạm thượng. Lão phu phải giáo huấn ngươi một phen.”
Cùng với tiếng quát, Triệu Chính Nghĩa bay tới.
Lão đang tính xông vào đánh đại hán râu, chợt thanh âm của Lý Tầm Hoan lạnh lùng vang lên: “Nếu ai muốn lấy hai đánh một, lấy nhiều hϊế͙p͙ ít, phi đao của tại hạ buộc phải phóng ra.”
Thân hình Triệu Chính Nghĩa lập tức khựng lại, quyền không dám tung ra. Nhưng miệng lão ta vẫn quát: “Đầy tớ của ngươi cả gan phạm thượng, ngươi đã không dạy dỗ mà còn bênh vực. Chẳng lẽ giang hồ không có công đạo hay sao?”
Lý Tầm Hoan lạnh lùng hỏi lại: “Công đạo trong giang hồ là sao? Hai người đánh một mới là công đạo ư?”
Triệu Chính Nghĩa lớn tiếng quát: “Ngươi phải hiểu, đây không phải là giao đấu tỉ võ, mà là chúng ta dạy dỗ đầy tớ giùm ngươi.”
Lý Tầm Hoan nói: “Từ trước đến nay, hắn không cần ai dạy dỗ cả. Nhưng nếu Triệu đại gia muốn tỉ thí mấy chiêu với hắn thì có thể đổi phiên, gọi Tần tam gia lùi ra, rồi chính mình tiến lên động thủ.”
Triệu Chính Nghĩa giận dữ: “Hắn là cái thứ gì mà đáng tỉ thí với ta?”
Lý Tầm Hoan điềm nhiên: “Đúng lắm. Hắn không phải là cái thứ gì cả, hắn là người.”
Rồi chàng nhìn thẳng, cười vào mặt Triệu Chính Nghĩa: “Thế Triệu đại gia có phải là cái thứ gì không?”
Triệu Chính Nghĩa giận đến méo mặt, sắc diện đổi từ xanh qua vàng rồi lại từ vàng qua xanh. Đến lúc này Long Tiêu Vân không thể không lên tiếng, nhưng hắn cũng chưa biết phải nói gì.
May mà ngay lúc đó chợt nghe một tiếng “binh” thật lớn, hai quyền chạm trúng vào nhau. Tần Hiếu Nghĩa bị chấn động, văng ra té xuống đất.
Long Tiêu Vân và Triệu Chính Nghĩa tranh nhau chạy tới đỡ hắn dậy.
Đại hán râu cười gằn: “Còn ai muốn dạy dỗ ta nữa không? Cứ việc xuất thủ đi.”
Du Long Sinh vẫn chắp tay sau lưng, cười khẩy: “Thì ra hôm nay chủ nhân không dạy dỗ đầy tớ, mà là đầy tớ dạy dỗ chủ nhân.”
Tần Hiếu Nghĩa vừa thở hổn hển vừa thì thầm vào tai Triệu Chính Nghĩa. Họ Triệu đứng bật dậy, mắt sáng lên, nhìn trừng trừng đại hán râu, lên tiếng: “Không ngờ ngươi đã luyện được công phu hoành luyện giang hồ ít thấy, thế mà ta lại xem thường. Chẳng trách gì Tần tam gia thiếu đề phòng, bị ngươi ám toán.”
Đại hán râu cười khẩy: “Mình thua vì bị ám toán, người khác thua vì học nghệ không tinh. Lý lẽ đó ta nghe đã quá nhàm, ngươi khỏi phải nói thêm.”
Triệu Chính Nghĩa cả giận quát: “Họ Thiết kia! Lão phu niệm tình ngươi cũng là hảo hán, nên có ý bảo vệ cho, thế mà ngươi lại không biết tốt xấu.”
Đại hán râu hơi biến sắc, ngang nhiên đáp: “Thiết mỗ chẳng cần Triệu đại gia bảo vệ mà vẫn sống đến ngày nay. Thiết mỗ không nghe ngươi nói nổi nữa. Nếu ngươi có bản lãnh gì hay thì cứ đưa ra xem thử.”
Triệu Chính Nghĩa trừng trừng nhìn hắn, cái nhìn như phun lửa, cười lạnh: “Hay lắm, hay lắm...”
Lão nói một lúc năm sáu câu “hay lắm”, nhưng vừa nói vừa dìu Tần Hiếu Nghĩa bỏ đi.
Long Tiêu Vân vội chạy theo, vừa cười dàn hòa vừa xin lỗi: “Quí vị có gì thì nói, hà tất...”
Tần Hiếu Nghĩa nhìn trời, cười thê thảm một tràng, rồi đáp: “Cha con ta đều thảm bại ở đây, còn gì để nói?”
Long Tiêu Vân lùi một bước, cúi đầu xuống, không ngớt lau mồ hôi trán. Đến lúc hắn ngẩng lên thì Tần Hiếu Nghĩa và Triệu Chính Nghĩa đã đi xa rồi.
Lý Tầm Hoan thở dài: “Đại ca! Tiểu đệ vừa trở về đã gây ra nhiều phiền phức như thế. Nếu tiểu đệ sớm biết...”
Long Tiêu Vân bỗng cười lớn: “Hiền đệ đừng nói như vậy. Chúng ta có bao giờ sợ phiền phức đâu?”
Lý Tầm Hoan gượng cười: “Nhưng tiểu đệ biết đại ca rất khó xử...”
Long Tiêu Vân lại cười: “Hiền đệ đừng lo lắng gì cả. Bất luận hiền đệ làm chuyện gì, ngu huynh cũng đứng về phía hiền đệ.”
Lý Tầm Hoan nghe một luồng nhiệt khí dâng lên trong ngực, lệ ứ trong khóe mắt như sắp tràn ra.
Long Tiêu Vân nhìn gã đại hán râu như định nói gì, nhưng rồi lại nói lảng sang chuyện khác: “Trời sắp sáng rồi, có lẽ đêm nay Mai Hoa Đạo không đến. Hiền đệ đi đường xa mệt mỏi, nên nghỉ sớm một chút.”
Lý Tầm Hoan gật đầu đáp: “Phải lắm.”
Long Tiêu Vân tiếp: “Huynh đã sai người quét dọn Thính Trúc Hiên cho đệ rồi, nhưng nếu hiền đệ thích ở chỗ cũ thì huynh sẽ bảo Tiên Nhi dọn qua ở chung với Thi Âm.”
Lý Tầm Hoan nói: “Không cần đâu. Thính Trúc Hiên cũng rất tốt.”
Long Tiêu Vân lại nhìn gã đại hán râu, nhưng vẫn không nói một lời. Sắc mặt gã họ Thiết hiện vẻ buồn buồn, tựa như có rất nhiều tâm sự.
*
* *
Gió mạnh thổi vào bụi trúc nghe như tiếng sóng biển.
Nửa đêm nghe tiếng gió xào xạc trong rừng tre, dù là một người đang vui vẻ cũng phải cảm thấy thê lương cô độc, huống chi Lý Tầm Hoan là người đã nản lòng thối chí mười mấy năm trời.
Dưới ánh sáng chập chờn của ngọn đèn rất nhỏ, những vết nhăn trên trán của Lý Tầm Hoan càng rõ ràng hơn.
Đại hán râu đang ngồi im lặng, lòng nặng trĩu đầy tâm sự. Không biết đã bao lâu, đột nhiên hắn nghiến răng đứng dậy, như đã hạ một quyết tâm rất lớn, rồi lên tiếng: “Thiếu gia! Đã đến lúc tại hạ buộc phải đi.”
Lý Tầm Hoan thay đổi sắc mặt: “Ngươi muốn đi ư? Ngươi muốn đi đâu?”
Đại hán râu ảm đạm nói: “Tại hạ đã mang nặng đại ân đại đức của phụ tử thiếu gia, đáng lẽ phải dành trọn cuộc đời tàn tạ sau kiếp nạn để báo đáp ân tình. Nhưng bây giờ...”
Đêm vắng tĩnh lặng, ngoài xa văng vẳng nghe tiếng ngựa hí.
Đại hán râu buồn bã nói tiếp: “Bọn Triệu Chính Nghĩa đã biết lai lịch của tại hạ rồi, chỉ sợ bây giờ chúng đã đi báo cho bọn cừu nhân của tại hạ. Thật ra tại hạ không để chuyện sinh tử vào lòng, cũng không sợ bọn họ, nhưng...”
Lý Tầm Hoan nói: “Nhưng ngươi sợ liên lụy đến ta, có phải thế không?”
Đại hán râu than thở: “Tại hạ cũng biết thiếu gia không phải là người sợ bị liên lụy. Nhưng vụ án mười tám năm về trước, thủ phạm chỉ là tại hạ, sao lại để cho thiếu gia phải nghe người ta xỉ vả?”
Lý Tầm Hoan im lặng một lúc rồi thở dài nói: “Đó cũng chỉ là sai lầm nhất thời của ngươi trong lúc vô tâm. Suốt mười tám năm qua, ngươi nhẫn nại chịu khổ cũng đã đủ bù đắp rồi, họ cũng không nên ép người quá đáng.”
Đại hán râu cười thê thảm: “Tuy thiếu gia nghĩ thế, nhưng người ta lại không chịu nghĩ như thế. Nợ máu trong giang hồ nhất định phải dùng máu mới rửa sạch được.”
Không đợi Lý Tầm Hoan nói, hắn tiếp luôn: “Huống chi tại hạ còn phải đi thăm Mai Nhị tiên sinh. Sau khi bị thương, lão đã giận dữ bỏ đi, không biết có đi xa được không? Dù sao lão đến đây cũng là vì chúng ta.”
Lý Tầm Hoan im lặng rất lâu, rồi mới nói bằng một giọng thản nhiên: “Ngươi muốn đi đâu?”
Đại hán râu buồn rầu nói: “Bây giờ tại hạ cũng chưa biết nên đi đâu nhưng...”
Hắn chợt mỉm cười: “Nhưng tại hạ nhất định không đi quá xa. Mỗi khi đêm thanh trăng sáng, không chừng tại hạ sẽ mang rượu đến đây để say cùng thiếu gia.”
Lý Tầm Hoan đột nhiên đứng dậy lên tiếng: “Được rồi. Nói cho chắc nhé.”
Đại hán râu gật đầu: “Chúng ta cứ như thế!”
Họ bất giác nhìn nhau, bất giác cùng rơi những giọt lệ nóng. Rồi sau đó họ đều quay mặt đi.
Anh hùng ly biệt có lúc rất lâm ly đoạn trường, nhưng chẳng ai muốn nói thành lời.
Lý Tầm Hoan lạnh lùng nói: “Ngươi muốn đi, ta cũng không cản ngươi. Nhưng ngươi phải để ta tiễn chân một đoạn chứ?”
Con đường sạch sẽ như vừa được rửa, tuyết rơi xuống đêm qua cũng đã được quét ra hai bên.
Từng phiến đá xanh xù xì cũng được ánh sáng chiếu rọi trông như những miếng ngọc màu xanh.
Xa xa, tiếng chợ họp ồn ào, cả mặt đất như thức tỉnh trở lại. Trời chưa sáng hẳn, xem ra hôm nay chắc không có nắng.
Con đường vắng lặng, chỉ ở xa xa có văng vẳng vang lên tiếng gà gáy. Những tiếng ho của Lý Tầm Hoan cũng không đánh thức nổi sự vắng lặng đến nghẹt thở này.
Đại hán râu chợt đứng lại, gượng cười: “Ngàn dặm đưa nhau, rồi cũng tới lúc chia tay. Thiếu gia trở về đi.”
Bước thêm mấy bước nữa, Lý Tầm Hoan mới dừng lại, nhìn vào một cành cây khô lẻ loi ở cuối con đường, ngơ ngác xuất thần một lúc lâu mới chầm chậm quay lưng: “Được, ta về đây. Ngươi bảo trọng.”
Đại hán râu gật đầu, nói nhỏ nhẹ: “Thiếu gia cũng nên bảo trọng.”
Hắn không nhìn Lý Tầm Hoan, chỉ cúi đầu đi về phía trước. Đi được mười mấy bước, hắn đột nhiên dừng chân, quay lại nói: “Thiếu gia, nếu không xảy ra chuyện gì khác, hãy tạm ở lại ít lâu. Dù sao Long đại gia cũng là một hảo hán tử, là một bằng hữu tốt!”
Lý Tầm Hoan ngửng lên trời than: “Được một bằng hữu như Long Tiêu Vân, ta còn mong gì hơn nữa?”
Đại hán râu nói: “Thiếu gia quyết định ở lại, thì không chừng tại hạ cũng sẽ sớm trở về tìm thiếu gia.”
Lý Tầm Hoan cười: “Có thể ta sẽ ở lại đây. Dù sao thì ta cũng không còn nơi nào để đi nữa.”
Tuy chàng đang cười, nhưng nụ cười lại rất thê lương.
Đại hán râu quay mình lại, cắn răng, đi những bước dài rời khỏi đó.
*
* *
Trời dần dần sáng tỏ, nhưng tuyết rơi càng lúc càng dày.
Cả bầu trời toàn một màu xám ch.ết, nặng trĩu như muốn đè bẹp hẳn xuống. Nhưng tâm tính của đại hán râu lại còn u ám, còn nặng nề hơn cả bầu trời.
Bất luận vì sao hắn phải chạy trốn, thì hắn cũng đang bắt đầu một cuộc chạy trốn cô độc.
Hắn đã từng chạy trốn với Lý Tầm Hoan suốt mười năm trời. Không ai hiểu rõ hơn hắn nỗi đau khổ của một cuộc sống chạy trốn, giống như một cơn ác mộng không bao giờ có thể tỉnh lại được.
Nhưng trong mười năm đó, ít nhất hắn cũng ở chung với Lý Tầm Hoan, còn có một người để dựa dẫm hay để chiếu cố. Tối thiểu, tâm tình của hắn cũng còn có một nơi để mà gửi gắm. Còn bây giờ hắn lại hoàn toàn cô độc.
Nếu hắn là một người yếu đuối thì không chừng lại không chạy trốn nữa. Vì hắn biết, trên thế gian này không có gì đau khổ hơn, cô độc hơn là một cuộc sống chạy trốn như thế này. Ngay cả sự ch.ết chóc cũng không đau khổ bằng.
Sự tuyệt vọng cô đơn thật sự có thể ép con người phát điên lên được.
Nhưng hắn buộc phải chạy trốn, vì hắn thấy Lý Tầm Hoan có thể ở lại một cách yên ổn. Hắn phải chạy trốn một mình, vì hắn có thể chịu đựng nổi bất cứ đau khổ nào, nhưng nhất định không để liên lụy đến Lý Tầm Hoan.
Bây giờ là lúc hắn cần phải suy nghĩ kỹ càng phương hướng sau này, nhưng hắn lại không dám để bản thân mình yên tĩnh lại. Hắn cứ tìm đến những nơi đông người nhất.
Chân hắn cứ bước đều, không có mục đích, cũng không biết đã đi được bao xa, chợt thấy mình đã đi tới một cái chợ. Bất giác hắn cảm thấy mình rất buồn cười.
Cuộc đời hắn đã đi qua không biết bao nhiêu chỗ, đã sống ở nhiều nơi. Từ những chỗ thế gia vọng tộc cho đến nơi mạt hạng cùng đinh, từ nơi khuê các của thiên kim tiểu thư cho đến những kỹ viện rẻ tiền, chỉ mấy chục đồng là có thể ở lại một đêm. Từ Hắc Long Giang quanh năm lạnh lẽo cho đến vùng nóng bỏng nhất của Thổ Lỗ Phồn, chỉ cần vùi một quả trứng xuống đất là chín ngay.
Hắn đã từng ngủ trên đỉnh Thái Sơn để đón mặt trời lên, cũng từng ở ngoài bờ bể không một bóng người để xem mặt trời lặn. Hắn từng ướt đẫm cả người trong sóng Tiền Đường, cũng từng bị ánh nắng mặt trời thiêu đốt đến nứt môi khan họng giữa sa mạc. Thậm chí hắn đã từng ở trong núi vắng, ăn thịt sống còn đầy máu tươi với những thổ dân man rợ chốn hoang sơ.
Nhưng đây là lần đầu tiên trong đời, hắn đi vào một cái chợ như thế này.
Vào một buổi sáng mùa đông, trên thế gian có lẽ không có nơi nào đông người bằng cái chợ. Bất cứ một ai vào nơi náo nhiệt đó đều không còn cảm thấy cô độc nữa.
Ở đây có những thiếu phụ địu con, những mụ già chống gậy, những người đầu bếp mình đầy dầu mỡ, những thiếu nữ bán nước hoa cho người ta chải tóc...
Muôn người muôn vẻ khác nhau, ai cũng xách giỏ bên mình, chen qua lấn lại. Những phụ nữ ở nông thôn đi mua thức ăn, chỉ vì một đồng tiền mà cãi nhau với người bán thịt đến đỏ mặt tía tai.
Không khí sực nức mùi tanh hôi của thịt cá, mùi dầu chiên quẩy, mùi hơi đất của củ cải trắng, những mùi khó tả bốc ra từ gà vịt.
Những người chưa từng đi chợ sẽ không bao giờ hình dung được một loại mùi vị tổng hợp từ rất nhiều mùi vị như thế. Bất kể ai đi đến đây, không bao lâu thì mũi cũng bị tê liệt.
Tâm tình của đại hán râu đã cởi mở rất nhiều, bởi vì tất cả những mùi vị, những âm thanh kia đều rất rõ ràng, sinh động và tràn đầy sức sống.
Trên thế gian này có rất nhiều người ch.ết vì không muốn sống, có người thì nhảy lầu, có người treo cổ, có người cắt cổ, cũng có người uống bả chuột...
Nhưng tuyệt nhiên chưa có ai tự tử ngay giữa chợ đông đúc, có phải thế chăng?
Nơi đây, đại hán râu tựa hồ đã quên hết những ân oán đầy mùi máu tanh trong chốn giang hồ. Hắn lấy ra hai đồng tiền, đang định mua một cái bánh hun khói ăn thử.
Đột nhiên phía trước có tiếng rao hàng như rống lên: “Bán thịt! Bán thịt... tươi...!”
Tiếng rao vừa cất lên, bỗng có những tiếng kêu thét kinh hãi, rồi mọi người phía trước đều hô hoán tranh nhau lùi lại phía sau. Người lớn thì sắc mặt trắng bệch như sắp ch.ết, con nít thì khóc la ỏm tỏi.
Những người phía sau láo nháo hỏi: “Chuyện gì thế? Chuyện gì mà hoảng sợ đến thế?”
Những người phía trước vẫn chạy trốn, vừa thở hổn hển vừa nói: “Có một người đang bán thịt...”
Những người phía sau cười rộ: “Ở đây cũng có mấy chục người đang bán thịt, có gì đáng sợ đâu?”
Những người phía trước thở như muốn đứt hơi: “Thịt của người này khác hẳn. Hắn đang bán thịt người!”
Ở trong chợ mà có kẻ bán thịt người, việc này làm cho đại hán râu cũng phải kinh sợ.
Người mỗi lúc mỗi đông hơn, tất cả đều sợ hãi, thế mà ai cũng muốn xem. Có rất nhiều phụ nữ đi chợ không chỉ để mua thức ăn, mà còn để gặp gỡ những đại cô nương, những tiểu cô nương, những nô tì nhà nọ, nàng dâu nhà kia, chuyện phiếm với nhau để biết được những bí mật nho nhỏ của thiên hạ, để thóc mách những chuyện riêng tư của người khác.
Bây giờ có chuyện lạ xảy ra, còn ai lại muốn rời khỏi?
Đại hán râu khẽ cau mày, dùng tay rẽ đám đông đi tới.
Mặt hắn lập tức đổi màu, xem ra hắn còn hoảng sợ hơn nhiều người khác.
*
* *
Ở trong chợ, thịt luôn luôn được bày ở một nơi tương đối khô ráo sạch sẽ nhất. Những người bán thịt tay cầm dao, đứng trước thớt, trên mặt thường mang một vẻ tự cao.
Bởi vì họ cảm thấy cái mà mình đang bán là hàng tốt, cao cấp hơn, đắt giá hơn những thứ rau xanh, đậu hủ. Tình cảnh này giống như minh tinh nhìn đào kép phụ không ra gì.
Nhưng họ lại quên rằng mình cũng là người bán, người khác cũng là người bán, hoàn toàn không có gì khác nhau.
Lúc đó, bọn đồ tể thường ngày cao ngạo cũng đang hoảng sợ đến rúm người lại. Mọi người đều rụt cổ lại, trố mắt nhìn, thở mạnh cũng không dám.
Quầy thịt lớn nhất khu đó đang treo một tấm bảng, trên đó viết: “Thịt bò, thịt dê! Mổ ra bán ngay!”
Sau quầy thịt là một người đàn bà độc nhãn mập mạp, tay cầm một con dao to bằng nửa cái bánh xe đẩy. Trên cái mặt nung núc thịt của mụ ta có một vết sẹo chạy dài từ mắt phải xuống khóe miệng, con mắt chột che bằng một miếng vải. Những lúc mụ không cười, trên mặt vẫn có những nét cười vừa xảo trá vừa bí hiểm, giống như một hung thần chứ hoàn toàn không giống một nữ nhân.
Trên quầy thịt không phải là thịt bò, cũng không phải là thịt dê, mà lại là một con người.
Một người còn thở.
Người này bị lột sạch quần áo, phô ra làn da trắng nhợt trông thật đáng thương. Hai dãy xương sườn đang run lên, hai cánh tay ốm yếu đang ôm lấy đầu, cổ rụt vào vai, nằm yên trên quầy thịt. Toàn thân người này dường như không có một lạng thịt nào, chỉ có da bọc xương.
Tay trái mụ chột nắm lấy cổ nạn nhân, tay phải cầm con dao to bản múa trên cao, con mắt còn lại lóe lên những tia sáng hung hãn, tràn đầy độc ác mà cũng tràn đầy sát khí.
Đại hán râu vừa nhìn thấy mụ ta, trên mặt bỗng không còn một chút máu, tựa như đang nhìn thấy một con quỉ cái vậy. Trong chốc lát, mồ hôi hắn đã thấm ướt hết quần áo.
Mụ chột vừa thấy hắn thì vết sẹo ở trên mặt đột nhiên biến thành đỏ như máu. Mụ trừng mắt nhìn hắn, rồi nở một nụ cười dữ tợn: “Đại gia đến mua thịt ư?”
Đại hán râu đứng ngơ ngác, hoàn toàn không nghe thấy mụ nói gì.
Mụ chột cười sằng sặc: “Hàng hiếm chỉ bán cho người biết hàng. Ta đã biết, miếng thịt này ngoài đại gia ra, người khác không ai mua hết, vì thế nên ta mới đứng đây đợi đại gia từ sớm.”
Đại hán râu thở ra một hơi dài, cười khổ: “Mười năm không gặp, đại tẩu làm gì phải khổ như thế...”
Mụ chột đột nhiên nhổ một bãi nước bọt nhanh như một viên đạn, trúng ngay vào mặt đại hán râu.
Đại hán râu không né tránh mà cũng không lấy tay chùi, cứ đứng lẳng lặng cúi đầu.
Mụ chột giận dữ thét lên: “Đại tẩu ư? Ai là đại tẩu của thằng súc sinh bán bạn cầu vinh? Ngươi mà dám gọi một tiếng đại tẩu nữa, ta sẽ cắt lưỡi ngươi lập tức.”
Đại hán râu mặt chợt trắng chợt xanh, cúi mặt làm thinh.
Mụ chột cười nhạt: “Ngươi đã bán đứng Ông Thiên Kiệt, bao nhiêu năm nay chắc đã trở thành đại phú đại quí rồi. Người phát tài giàu sang như thế, chẳng lẽ mấy cân thịt này cũng không mua nổi sao?”
Đột nhiên mụ túm lấy tóc nạn nhân, kéo mặt ngẩng lên rồi cười sằng sặc: “Ngươi mà không mua thì ta chỉ còn cách băm nhỏ hắn ra nuôi chó mà thôi.”
Đại hán râu liếc qua một cái, thất thanh kêu lên: “Mai Nhị tiên sinh! Là ngươi ư?”
Người nằm trên quầy thịt hình như đã tê liệt vì hoảng sợ, đôi mắt ngơ ngác lạc thần, nước dãi chảy ròng ròng từ khóe miệng ra, không nói được tiếng nào.
Đại hán râu nhìn thấy dáng vẻ của lão như thế, không nén nổi đau xót, nhẹ giọng hỏi: “Mai Nhị tiên sinh! Sao lão lại gặp phải cảnh như thế này?”
Mụ chột giận dữ quát lớn: “Đừng có nhiều lời. Ta chỉ hỏi ngươi, mua hay không mua?”
Đại hán râu thở dài một hơi, cười khổ: “Không biết ngươi bán như thế nào?”
Mụ chột đáp: “Còn tùy ngươi mua bao nhiêu. Một cân thì có giá của một cân, mười cân thì có giá của mười cân.”
Con dao phay trên tay mụ bỗng chém xuống.
Chỉ nghe phập một tiếng, con dao lớn bằng nửa bánh xe đã ngập lút xuống bàn, chỉ dịch đi nửa tấc thì thủ cấp của Mai Nhị tiên sinh chắc chắn phải văng đi mất.
Mụ chột trừng mắt, nói từng tiếng một: “Nếu ngươi mua một cân, thì phải đổi bằng một cân thịt của ngươi. Tay dao của ta rất chính xác, đảm bảo chỉ chặt một nhát là không dư không thiếu.”
Đại hán râu hạ thấp giọng, hỏi: “Nếu ta muốn mua hết thì sao?”
Mụ chột giận dữ nói: “Nếu ngươi muốn mua nguyên cả con người của hắn, thì phải đi theo ta.”
Đại hán râu mím chặt môi, nói qua kẽ răng: “Được! Ta đi theo ngươi.”
Mụ chột nhìn hắn một hồi lâu, rồi cười một cách độc ác: “Ngươi hãy ngoan ngoãn đi theo ta. Dù ngươi thông minh mấy đi nữa, ta cũng nhất định không để cho ngươi chạy thoát. Ta đã tìm ngươi mất mười bảy năm tám tháng rồi.”
Đại hán râu ngửa mặt lên trời, thở dài: “Ta đã bị ngươi tìm thấy, thật sự cũng không muốn chạy trốn nữa.”
*
* *
Cạnh một ngôi mộ dưới chân núi, có một gian nhà gỗ nho nhỏ, chắc đó là nơi ở của người coi mộ. Nhưng trong mùa đông lạnh giá này, chỉ sợ rằng cô hồn dã quỷ cũng lạnh đến nỗi phải núp trong quan tài không dám chui ra. Đương nhiên người coi mộ cũng không cần phải chạy đi đâu.
Dưới mái hiên nhà có lơ lửng mấy trụ băng, gió lạnh luồn qua những khe gỗ trên vách ùa vào, lạnh như dao cắt. Trong thời tiết này thì chẳng ai có thể ở trong căn nhà này được tới nửa giờ.
Nhưng có một người ở trong căn nhà này đã lâu.
Trong nhà có một chiếc bàn gỗ đã cũ kỹ hư nát, trên bàn đặt một chiếc hũ màu đen.
Người này ngồi xếp bằng dưới đất, mắt nhìn chằm chằm vào cái hũ đến xuất thần.
Hắn mặc áo ngắn, đầu đội nón rách, lưng giắt búa, ở một góc nhà còn có nửa gánh củi. Nhìn đồ vật, thì xem ra đây là một tiều phu.
Nhưng mặt hắn đen xì, lưỡng quyền nhô cao, đôi mày rậm, miệng rộng, ánh mắt sáng ngời tinh nhanh. Nhìn người, thì hắn không giống tiều phu chút nào cả.
Lúc này ánh mắt của hắn tràn đầy căm phẫn và oán hận, ngồi lặng im, không hiểu đang tưởng nhớ điều gì.
Trên mặt đất cũng đã kết thành băng, nhưng hắn hầu như không cảm thấy lạnh.
Một lúc sau, bên ngoài chợt nghe tiếng bước chân sào sạo. Tay của gã tiều phu lập tức nắm lấy cán búa, trầm giọng hỏi: “Ai?”
Tiếng nói khàn khàn dữ dằn của mụ chột từ ngoài nhà gỗ vọng vào: “Là ta!”
Thần sắc gã tiều phu lập tức khẩn trương, nhỏ giọng hỏi: “Có phải hắn đang ở trong thành không?”
Mụ chột trả lời: “Tin tức của lão Ô Qui rất chính xác. Ta đã đem hắn trở về đây.”
Gã tiều phu đứng bật dậy, mở cửa ra.
Mụ chột đã đem đại hán râu bước vào, thân thể cả hai phủ đầy bông tuyết.
Ngoài trời, tuyết lại bắt đầu rơi.
Gã tiều phu nhìn chằm chằm vào đại hán râu, hầm hầm giận dữ, ánh mắt như tóe lửa.
Đại hán râu cúi mặt lặng thinh.
Qua một lúc lâu, gã tiều phu đột nhiên quay người lại, quì thụp xuống đất, trong mắt đầy lệ, rất lâu không đứng dậy.
Đột nhiên phía trước cửa lại có tiếng chân người.
Mụ chột trầm giọng hỏi: “Là ai?”
Ngoài cửa có tiếng như thanh la bể vọng vào “Ta và lão Thất đây mà”.
Tiếng nói chưa dứt, đã có hai người đẩy cửa bước vào.
Một người là đại hán mặt rỗ, vai gánh một gánh đầy rau cải, một gã ốm yếu gánh đậu hủ. Từ ngoài chợ, hai gã này đã theo sát đại hán râu, chỉ vì hắn đang đầy tâm sự nên không để ý gì đến bọn chúng.
Cả hai cũng nhìn hắn trừng trừng. Gã mặt rỗ bán rau túm lấy áo hắn, từng nốt rỗ trên mặt cũng như đang bốc lửa, giận dữ nói: “Họ Thiết kia! Ngươi còn gì để nói không?”
Mụ chột trầm giọng: “Buông hắn ra. Có gì thì hãy đợi đến đầy đủ rồi sẽ nói cũng không muộn.”
Gã mặt rỗ cắn răng rồi buông tay ra, quay lại cái hũ màu đen trên bàn, cung kính khấu đầu ba cái, rưng rưng nước mắt.
Trong vòng nửa giờ sau, lại có thêm ba người nữa tới. Một người trên lưng mang thùng thuốc, cầm một cái bàn tay cọp, rõ ràng là một thầy lang bán thuốc rong trên giang hồ.
Một người dầu mỡ đầy mình, đang gánh một gánh, phía trước là một hũ rượu, phía sau là một cái tủ đựng vài cái chén thô lậu và mười mấy cái chân vịt cùng cánh vịt.
Một người nữa, là một gã thầy bói mù.
Ba người này nhìn thấy đại hán râu thì vẻ mặt cũng rất giận dữ, nhưng không ai nói gì mà chỉ cung kính hướng về chiếc hũ màu đen trên bàn, khấu đầu ba cái.
Bên ngoài tuyết rơi trắng xóa, trời cũng không hẳn là sáng, trong nhà tối mờ mờ, tràn đầy một vẻ âm u đáng sợ. Bảy người này đều ngồi xếp bằng dưới đất, người nào sắc mặt cũng xanh như tàu lá, răng cắn lại, trông như một bầy quỷ mới từ địa ngục lên để chuẩn bị phục thù.
Đại hán râu sắc mặt rất bi thảm, cúi đầu lặng thinh.
Mụ chột lên tiếng: “Lão Ngũ! Theo ngươi thì lão Tam có đến kịp không?”
Gã mập bán rượu nói: “Nhất định đến kịp. Ta đã nhận được tin của hắn rồi.”
Mụ chột cau mày hỏi lại: “Vậy sao đến bây giờ mà hắn vẫn chưa tới?”
Gã thầy bói mù thở dài, nói chậm rãi: “Chúng ta đã đợi mười bảy năm rồi, chẳng lẽ không đợi thêm một giờ nửa khắc được hay sao?”
Mụ chột cũng thở dài, rồi nói: “Mười bảy năm... Mười bảy năm...”
Mụ ta lập lại tới bảy tám lần, càng nói càng tỏ ra bi thảm hơn.
Hiển nhiên trong suốt mười bảy năm qua, mỗi ngày mỗi tháng đều thật là khó sống, không biết đã trải qua bao nhiêu chua cay, bao nhiêu máu và nước mắt. Ánh mắt của ba người này đều nhìn trừng vào đại hán râu, dường như trong mắt có phun ra lửa.
Gã thầy bói mù nói: “Mười bảy năm nay, ngày nào ta cũng mong gặp lại tên họ Thiết này. Tiếc rằng bây giờ...”
Mỗi thớ thịt trên mặt của gã đều giần giật, nhưng gã chỉ nhỏ nhẹ nói: “Lão Tứ! Bây giờ trông hắn ra sao, nói cho ta biết!”
Gã thầy lang bán thuốc dạo nghiến răng: “Hắn không khác gì mười bảy năm về trước, chỉ có râu ria rậm rạp hơn, người cũng mập hơn một chút.”
Gã thầy bói mù ngửng mặt lên trời, cười đầy vẻ thê lương: “Được, được... Họ Thiết kia, ngươi phải biết mười bảy năm nay ngày đêm ta luôn cầu trời phù hộ cho ngươi mạnh khỏe không đau không bệnh... May mà ông trời không để ta thất vọng.”
Mụ chột nghiến răng: “Hắn bán đứng Ông Thiên Kiệt, đương nhiên đã đại phú đại quí từ lâu. Hắn đâu có trải qua cuộc sống không bằng con heo con chó như chúng ta...”
Mụ ta chỉ vào gã bán rượu nói tiếp: “An Lạc công tử Trương lão ngũ lại phải gánh rượu rao bán ở ngoài chợ, Dịch nhị ca trở thành thầy bói mù... Những chuyện đó chắc ngươi không bao giờ nghĩ đến.”
Gã tiều phu lạnh nhạt nói: “Tất cả chuyện ấy đều do bàn tay hắn gây nên, thì sao hắn lại không nghĩ đến?”
Đại hán râu nhắm nghiền đôi mắt không dám mở ra. Hắn chỉ sợ mi mắt mở ra là lệ sẽ trào ra theo.
Mười bảy năm... mười bảy năm...
Mười bảy năm nay hắn đã chịu đựng bao nhiêu gian khổ, nhưng điều ấy có ai thèm biết đến?
Chợt bên ngoài có tiếng hô lớn: “Đại tẩu! Đại tẩu! Ta có tin mừng đây...”