Chương 002 : Trên đời còn tri kỷ
Trong cỗ xe ngựa chất đầy những hũ rượu. Rượu này là của gã thiếu niên mua, nên gã uống hết chén này đến chén khác, lại còn uống khá nhanh. Lý Tầm Hoan đang nhìn gã, ánh mắt vui tươi. Rất ít khi chàng gặp được những người mà chàng cảm thấy hứng thú, nhưng thật sự chàng đã có hứng thú với thiếu niên này.
Tuyết rơi trên đường đã đóng kết lại thành băng cứng ngắt. Xe đi trên đường băng rất dễ bị trơn trượt, dù là ngựa tốt cũng khó mà điều khiển được. Nhưng gã đại hán râu ria bờm xờm kia đã quấn vào bánh xe mấy sợi dây xích sắt, cho đỡ trơn khi đi trên băng tuyết.
Những sợi dây xích nghiến trên băng tuyết, phát ra những âm thanh rào rào liên tục. Đột nhiên, thiếu niên để chén rượu xuống, nhìn Lý Tầm Hoan: “Tại sao huynh nhất định phải kêu ta lên xe ngựa mới chịu uống rượu?”
Lý Tầm Hoan cười, rồi nói: “Vì khách sạn đó không phải là nơi chúng ta có thể lưu lại lâu.”
Thiếu niên hỏi: “Tại sao thế?”
Lý Tầm Hoan đáp: “Bất luận là ai, sau khi đã giết người, nhất định cũng ít nhiều bị phiền phức. Ta không sợ giết người, nhưng bình sinh sợ nhất là phiền phức.”
Thiếu niên im lặng hồi lâu, rồi múc trong hũ rượu ra một ly, ngửa đầu lên, nốc cạn. Lý Tầm Hoan mỉm cười nhìn gã, tựa như đang thưởng thức kiểu cách uống rượu của gã.
Lát sau, thiếu niên thở ra một hơi dài rồi nói: “Tuy giết người không phải là một chuyện vui vẻ, nhưng cũng có một số người thật sự đáng giết. Vì vậy, ta không thể không giết người.”
Lý Tầm Hoan mỉm cười hỏi: “Có thật là ngươi giết Bạch Xà vì năm chục lượng bạc không?”
Thiếu niên đáp: “Không có năm chục lượng bạc, ta cũng giết hắn. Nhưng có năm chục lượng bạc thì càng tốt.”
Lý Tầm Hoan hỏi: “Tại sao ngươi chỉ lấy năm chục lượng bạc?”
Thiếu niên trả lời: “Vì hắn chỉ đáng giá năm chục lượng bạc.”
Lý Tầm Hoan cười: “Trên giang hồ còn lắm người đáng giết, trong số đó có nhiều kẻ đáng giá hơn năm mươi lượng. Sau này có lẽ ngươi sẽ trở thành một đại phú ông, và ta sẽ thường xuyên có rượu để uống.”
Gã thiếu niên nói: “Tiếc rằng ta đang quá nghèo, nếu không thì ta cũng sẽ tặng huynh năm mươi lượng.”
Lý Tầm Hoan hỏi: “Vì sao?”
Gã thiếu niên nói: “Vì huynh đã giết một người giùm ta.”
Lý Tầm Hoan cười ha hả: “Ngươi nói sai rồi! Con người đó không những không đáng giá tới năm chục lượng, mà một đồng cũng không đáng.”
Rồi đột nhiên Lý Tầm Hoan lại hỏi: “Ngươi có biết vì sao Gia Cát Lôi muốn giết ngươi không?”
Gã thiếu niên lắc đầu: “Không biết.”
Lý Tầm Hoan nói: “Bạch Xà chưa giết hắn, nhưng đã làm cho hắn mất chỗ đứng trên giang hồ. Ngươi lại giết Bạch Xà, thì hắn chỉ còn cách giết ngươi để lấy lại thể diện. Hắn đã tự thổi phồng chính mình, nên hắn không thể không giết ngươi để được nở mày nở mặt. Trong giang hồ, lòng người rất hiểm ác, chỉ sợ ngươi không ngờ hết được.”
Thiếu niên trầm ngâm hồi lâu, rồi lên tiếng, tựa như tự nói với mình: “Con người có khi còn ác độc hơn lang sói. Khi lang sói muốn giết anh, thì tối thiểu cũng cho anh biết trước.”
Gã lại uống một ly rượu, đột nhiên nói tiếp: “Ta chỉ từng nghe con người nói lang sói ác độc nhưng chưa từng nghe lang sói nói con người ác độc. Thật ra, lang sói vì phải sống nên mới giết người. Còn con người thì có thể giết người mà không biết tại sao phải giết. Theo ta biết, số người bị con người giết thì nhiều hơn so với bị lang sói giết rất nhiều.”
Lý Tầm Hoan nhìn chằm chằm vào gã thiếu niên, rồi từ từ hỏi: “Vì thế mà ngươi thích kết bạn với lang sói ư?”
Thiếu niên lặng thinh một lát, đột nhiên vừa cười vừa nói: “Chỉ tiếc là lang sói không biết uống rượu.”
Đây là lần đầu tiên Lý Tầm Hoan nhìn thấy nụ cười của chàng thiếu niên này. Chàng chưa từng nghĩ, một nụ cười lại làm cho gương mặt người ta biến đổi nhiều như thế. Gương mặt của thiếu niên vốn lạnh lùng cô độc, lại rất quật cường, thường làm cho Lý Tầm Hoan liên tưởng đến một con chó sói lưu lạc một mình giữa vùng băng tuyết. Nhưng khi khóe mắt chàng thiếu niên này lộ vẻ cười, thì cả con người gã liền thay đổi, ôn hòa, thân thiết, khả ái vô cùng.
Lý Tầm Hoan chưa từng thấy một nụ cười nào có thể làm động lòng người đến thế.
Gã thiếu niên cũng đang nhìn kỹ Lý Tầm Hoan. Đột nhiên, gã hỏi: “Huynh có phải là một người có danh tiếng không?”
Lý Tầm Hoan cười đáp: “Có danh tiếng không phải là một chuyện tốt.”
Gã thiếu niên nói: “Nhưng ta hy vọng có được danh tiếng. Ta hy vọng trở thành người nổi danh nhất trong thiên hạ.”
Lúc gã nói câu này, vẻ mặt thật thà như một đứa trẻ nói rằng nó đang khao khát một món đồ chơi.
Lý Tầm Hoan cười: “Đã là con người thì trong thâm tâm ai cũng muốn nổi danh. Ít ra thì ngươi cũng thành thật hơn rất nhiều người khác.”
Gã thiếu niên lắc đầu: “Ta khác với những người khác. Ta không thể không thành danh được, nếu không thành danh, ta chỉ có con đường ch.ết mà thôi.”
Lý Tầm Hoan hơi sửng sốt, không nhịn được bèn hỏi: “Tại sao lại thế?”
Gã thiếu niên không trả lời, ánh mắt lộ ra vẻ bi thương, phẫn nộ.
Lý Tầm Hoan chợt phát giác, gã thiếu niên này có lúc ngây thơ thật thà như một đứa trẻ, nhưng có lúc lại tiềm ẩn rất nhiều bí mật. Thân thế của gã chắc hẳn giống như một mê cung, đầy rẫy bất hạnh và bi thương đan chéo lẫn nhau.
Lý Tầm Hoan nhẹ nhàng nói: “Ngươi muốn nổi danh, thì ít nhất cũng phải cho mọi người biết danh tính của mình trước.”
Trầm ngâm một lúc khá lâu, thiếu niên mới chậm rãi nói: “Những người quen biết ta đều gọi ta là A Phi.”
A Phi?
Lý Tầm Hoan cười cười, hỏi lại: “Chẳng lẽ ngươi họ A sao? Trên thế gian đâu có họ này?”
Thiếu niên lắc đầu: “Ta không có họ.”
Trong ánh mắt của hắn, đột nhiên có một ngọn lửa cháy bừng lên. Lý Tầm Hoan cảm thấy ngọn lửa ấy ngay cả nước mắt cũng khó mà dập tắt được, bèn không nhẫn tâm hỏi thêm.
Nhưng gã thiếu niên A Phi đột nhiên nói tiếp: “Đến khi ta nổi danh, ta sẽ công bố danh tánh, còn bây giờ...”
Lý Tầm Hoan dịu dàng nói: “Bây giờ, ta cứ gọi ngươi là A Phi.”
A Phi nói: “Hay lắm! Bây giờ huynh cứ gọi ta là A Phi. Thật ra, cho dù gọi ta bằng cái tên nào, cũng không sao.”
Lý Tầm Hoan cười: “A Phi! Ta mời ngươi một ly.”
Mới hớp nửa ly, Lý Tầm Hoan đã nổi ho sặc sụa. Trên nét mặt trắng bệch của chàng lại nổi lên những vệt đỏ hồng bệnh hoạn. Thế nhưng chàng vẫn điềm nhiên, ngẩng mặt lên uống cạn nốt nửa ly còn lại.
A Phi kinh ngạc nhìn Lý Tầm Hoan, tựa hồ không ngờ được một hiệp khách giang hồ lại có thể chất suy nhược như thế. Gã không nói gì, chỉ nhìn một cái rồi ngửa cổ uống cạn ly rượu của mình nhanh như chớp.
Lý Tầm Hoan chợt nhìn A Phi, rồi cười nói: “Trong số bằng hữu của ta, khi nhìn thấy ta ho hen, ngươi là người đầu tiên không khuyên ta cai rượu.”
A Phi hỏi: “Ho hen thì không nên uống rượu ư?”
Lý Tầm Hoan cười: “Đụng đến rượu cũng không nên.”
A Phi chau mày hỏi: “Thế sao huynh lại uống? Phải chăng huynh có rất nhiều chuyện thương tâm?”
Ánh mắt sáng loáng của Lý Tầm Hoan chợt mờ đi, nhìn thẳng A Phi, nói: “Ta chưa từng hỏi những điều ngươi không muốn trả lời. Ta đã hỏi cha mẹ ngươi là ai, võ công ngươi do ai truyền thụ, ngươi từ đâu đến và ngươi sẽ đi đâu hay chưa?”
A Phi lắc đầu: “Chưa. Chưa hỏi.”
Lý Tầm Hoan lại nói: “Thế thì sao ngươi lại hỏi ta?”
A Phi im lặng ngồi nhìn Lý Tầm Hoan khá lâu, rồi mỉm cười: “Đúng thế. Ta không hỏi huynh nữa.”
Lý Tầm Hoan cũng cười, hình như định mời A Phi một ly rượu nữa. Nhưng chàng vừa rót rượu ra thì đã lại gập mình xuống ho sặc sụa, hai vai co rút lên, ho không kịp thở.
A Phi vội mở cửa sổ cho thoáng khí, nhưng lúc ấy cỗ xe đột nhiên dừng lại.
Lý Tầm Hoan quay đầu nhìn ra cửa sổ, hỏi: “Có chuyện gì thế?”
Gã đại hán râu xồm nói: “Có người cản đường.”
Lý Tầm Hoan hơi cau mày: “Là người như thế nào?”
Đại hán râu cười khẽ: “Là người tuyết.”
Lý Tầm Hoan cùng A Phi nhìn ra, thấy giữa đường có một người tuyết khá lớn, không biết con nít nhà ai đã dựng lên. Người tuyết có cái bụng tròn vo, trên mặt có nhét hai viên than làm đôi mắt.
Hai người bước xuống, đứng dựa vào thành xe nhìn người tuyết.
A Phi chăm chú nhìn, dường như gã chưa từng thấy người tuyết bao giờ.
Lý Tầm Hoan nhìn gã, mỉm cười hỏi: “Ngươi chưa từng dựng người tuyết hay sao?”
A Phi lắc đầu: “Ta chỉ biết tuyết là thứ đáng ghét. Chẳng những tuyết làm cho con người lạnh lẽo mà còn làm cho cây cỏ tiêu điều, muông thú tuyệt tích. Tuyết làm cho muôn vật đói rét.”
Gã vốc lên một nắm tuyết, ném ra xa. Cục tuyết vỡ ra, biến mất trong sa mù. Gã nhìn xa xa, chầm chậm nói: “Đối với hạng người được ăn no mặc ấm, tuyết có thể là đáng yêu. Họ không những có thể đắp người tuyết để chơi mà còn có thể thưởng thức cảnh tuyết rơi, nhưng đối với những người như ta...”
Đột nhiên gã trừng mắt nhìn Lý Tầm Hoan: “Huynh có biết không? Ta là một kẻ lớn lên giữa vùng hoang dã, cho nên mưa, gió, tuyết đều là thù địch của ta.”
Thần sắc Lý Tầm Hoan thoáng vẻ ảm đạm. Chàng cũng vốc một nắm tuyết, rồi nói: “Ta không ghét tuyết, nhưng ghét nhất là có kẻ cản đường.”
Chàng vừa nói vừa ném cục tuyết vào mặt người tuyết.
Tuyết văng tứ tung, nhưng người tuyết không ngã xuống. Hai con mắt bằng than rơi xuống, khuôn mặt đắp bằng tuyết cũng vỡ ra, để lộ một khuôn mặt khác bên trong. Khuôn mặt bên trong lớp tuyết lại là mặt người.
Lại là mặt người ch.ết.
*
* *
Sắc mặt của người ch.ết vốn đã chẳng có gì dễ coi, khuôn mặt này lại càng ghê gớm đặc biệt, khó mà nhìn lâu được. Đôi mắt trên mặt trông rất ác độc, giống như mắt cá ch.ết bị ép lồi ra ngoài.
A Phi buột miệng kêu lên: “Chính là Hắc Xà!”
Tại sao Hắc Xà lại bị giết ở đây? Tại sao kẻ giết hắn lại đem hắn nhồi lại thành người tuyết, rồi đặt đứng giữa đường?
Đại hán râu bước lại, khom mình xuống thi thể Hắc Xà, xem xét cẩn thận dường như muốn tìm xem vết thương chí mạng ở đâu.
Lý Tầm Hoan trầm tư, vụt hỏi A Phi: “Ngươi có biết ai đã giết Hắc Xà không?”
A Phi lắc đầu: “Không biết!”
Lý Tầm Hoan cười: “Chính là cái túi vải ấy!”
A Phi chau mày: “Cái túi đó ư?”
Lý Tầm Hoan gật đầu: “Từ lúc Gia Cát Lôi lấy cái túi ra để trên bàn, ta cũng không để ý lắm, nhưng đến khi Hắc Xà chạy đi rồi thì không thấy cái túi ấy đâu nữa. Cho nên ta nghĩ rằng Hắc Xà đã cố ý làm bộ điên cuồng, để lén đem cái túi đi mà không ai chú ý.”
A Phi nói: “Đúng lắm.”
Lý Tầm Hoan nói: “Nhưng hắn không ngờ đem cái túi ấy đi là rước lấy họa diệt thân. Người ta giết hắn có lẽ cũng chỉ vì cái túi ấy.”
Không biết chàng đã cầm ngọn tiểu đao trên tay từ lúc nào, nhẹ nhàng vuốt ve lưỡi dao, chầm chậm hỏi, như tự hỏi: “Không hiểu cái túi ấy đựng vật gì? Sao lại lắm kẻ hứng thú với nó như thế? Đáng lý lúc ấy ta phải mở ra xem.”
A Phi đang im lặng để nghe, đột nhiên nói: “Nếu người ta giết hắn là vì cái túi ấy, tại sao khi đoạt được vật rồi lại còn phải dùng xác hắn làm người tuyết để cản đường làm gì?”
Lý Tầm Hoan hơi có vẻ kinh ngạc.
Chàng vẫn tưởng gã thiếu niên này chẳng hiểu nhân tình thế sự gì lắm, nhiều lúc ngây thơ như một đứa trẻ. Thế nhưng chỉ một nhận xét này đủ chứng tỏ gã cũng cao về trí tuệ, nhanh về phản ứng, ngay kẻ lịch lãm giang hồ như mình cũng chưa chắc đã bằng.
A Phi lại hỏi tiếp: “Phải chăng hung thủ đã đoán biết huynh sẽ là người đầu tiên đi qua con đường này? Phải chăng hắn làm thế để chặn cỗ xe này lại?”
Lý Tầm Hoan không trả lời, lại hỏi: “Ngươi đã tìm ra vết thương chí mạng của hắn chưa?”
Đại hán râu chưa kịp đáp thì Lý Tầm Hoan lại nói: “Thôi! Ngươi khỏi cần tìm nữa.”
A Phi cũng gật đầu: “Không sai! Người ta đã tới rồi, còn tìm nữa làm gì.”
Thị giác và thính giác của Lý Tầm Hoan có thể gọi là mẫn cảm số một thiên hạ, nhưng bây giờ chàng thấy thính giác của gã thiếu niên này ít nhất cũng tinh nhạy bằng chàng.
A Phi tựa như bẩm sinh đã có một bản năng tự nhiên như dã thú, có thể nhận ra những chuyện mà người thường không nhận ra được.
Lý Tầm Hoan mỉm cười khen ngợi gã, rồi dõng dạc cất tiếng: “Quý vị đã đến, tại sao không ra đây uống rượu?”
Bên ven đường chợt có tiếng động, tuyết trên cây rào rào rơi xuống. Một người lớn tiếng cười nói: “Mười năm không gặp, không ngờ phong độ của Lý Thám Hoa vẫn y hệt như xưa. Thật là đáng chúc mừng!”
Trong tiếng cười, một người gò má nhô cao, sắc mặt trắng bệch, mắt sáng như mắt chim ưng, chỉ còn một tay, bước những bước dài từ ven rừng bên trái tiến ra.
Ven rừng bên phải cũng xuất hiện một người ốm tong teo, gầy như que củi, trên mặt không có thịt. Tưởng như chỉ một cơn gió thoảng cũng có thể thổi hắn bay đi mất.
A Phi nhận ra ngay bước chân của lão ốm không lưu lại dấu vết gì trên mặt tuyết. Tuyết tuy đã đóng thành băng, nhưng trên mặt băng vẫn có một lớp tuyết mới rơi.
Người này bước trên tuyết không để dấu tích, một phần là nhờ thân thể gầy gò, nhưng không ai dám phủ nhận khinh công của lão rất cao cường.
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Tại hạ mới nhập quan chưa đầy nửa tháng, không ngờ tr.a tổng tiêu đầu của Kim Sư Tiêu Cục và Thần hành vô ảnh Ngu Nhị tiên sinh đã biết mà đến thăm. Thì ra thể diện của tại hạ thật là không nhỏ.”
Lão già ốm nhom cười âm hiểm: “Tiểu Lý Thám Hoa danh bất hư truyền, chỉ thoáng nhìn qua là không quên được. Chúng ta chỉ gặp nhau một lần mười ba năm về trước, không ngờ Thám Hoa còn nhớ được lão què Ngu Nhị này.”
A Phi lúc này mới nhìn xuống chân lão ốm, thật không tưởng tượng nổi một người có khinh công cao minh như vậy lại tàn phế một chân. Gã hiểu, Ngu Nhị bị tàn phế bẩm sinh, nên từ nhỏ phải khổ luyện khinh công hơn người để bù đắp chỗ khuyết tật.
A Phi không nhịn nổi, lộ vẻ thán phục lão già này.
Lý Tầm Hoan lại mỉm cười: “Nhị vị còn mấy người bạn nữa, sao lại không mời ra một lượt, vì tại hạ mà giới thiệu một chút?”
Ngu Nhị đáp: “Không sai. Bọn họ đã được nghe đại danh của Tiểu Lý Thám Hoa từ lâu, cũng muốn gặp mặt các hạ một lần.”
Lúc đó trong rừng lại có bốn người tiến ra. Tuy giữa ban ngày ban mặt, nhưng Lý Tầm Hoan vừa thoáng thấy bốn người này đã thấy hơi hơi lạnh gáy.
*
* *
Tuổi tác bốn người này không nhỏ, nhưng chúng ăn mặc y như trẻ nít. Quần áo màu sắc sặc sỡ khác nhau, đôi giày cũng là giày trẻ con có thêu đầu cọp, trên lưng lại quấn những tấm vải thêu hoa kết tua. Cả bốn đều là đại hán mắt to mày rậm, diện mạo hung tợn, nhưng lại làm bộ chau mày chu mỏ, cười giỡn bi bô như con nít nghịch ngợm, trông thật là chướng mắt, cơm đã ăn hai ngày cũng muốn nôn ra. Cổ tay cổ chân chúng lại đeo đầy vòng bạc sáng loáng, cứ mỗi bước đi lại chạm vào nhau khua lên leng keng.
Đại hán râu vừa thấy bốn tên này, lập tức xanh mặt, hạ giọng: “Hắc Xà không phải bị người ta giết ch.ết.”
Lý Tầm Hoan “À” một tiếng.
Đại hán râu nói tiếp: “Hắn bị bò cạp và rắn rết cắn ch.ết đấy!”
Lý Tầm Hoan biến sắc, trầm giọng hỏi: “Thì ra chư vị là Ngũ Độc Đồng Tử, môn hạ Cực Lạc Động ở Miêu Cương.”
Một trong bốn tên, gã Hoàng y đồng tử ngửa mặt cười ha hả: “Bọn ta cực khổ lắm mới đắp được một người tuyết tuyệt đẹp. Thế mà ngươi làm hư mất, ta phải bắt đền.”
Chữ “đền” vừa dứt, Hoàng y đồng tử đã xồng xộc lao thẳng tới. Các loại chuông khánh gắn đầy trên vòng bạc ở cổ tay, cổ chân của hắn khua lên leng keng nhức óc đinh tai.
Lý Tầm Hoan chỉ nhìn hắn cười cười, không nhúc nhích chút nào. Nhưng Ngu Nhị bỗng vọt lên không, chụp tay gã đồng tử áo vàng, kéo nghiêng qua một bên.
Kim sư tr.a Mãnh vội cười lớn: “Lý Thám Hoa gia tài thiên vạn, cho dù người vàng đi nữa cũng thừa sức đền bù, chứ đừng nói chi người tuyết. Xin bốn vị đừng gấp gáp, để tr.a mỗ giới thiệu đã.”
Hồng y đồng tử cười hi hí: “Biết rồi, biết rồi... Ta biết hắn họ Lý, gọi là Lý Tầm Hoan.”
Hắc y đồng tử tiếp: “Ta còn biết hắn tinh thông đủ bốn món tứ đổ tường, từ lâu đã muốn bắt hắn dẫn đi tìm những nơi vui chơi khoái lạc.”
Lục y đồng tử nói: “Học vấn hắn cũng rất cao, đã từng thi đỗ Thám Hoa. Nghe đâu cả cha lẫn ông nội hắn cũng từng đỗ Thám Hoa.”
Hồng y đồng tử cười lớn: “Chỉ tiếc là Tiểu Lý Thám Hoa không thích làm quan, lại thích làm cường đạo.”
Bọn chúng nói qua nói lại toàn chuyện cũ rích, chỉ có A Phi chăm chú nghe. Gã thật không ngờ cuộc đời của người bạn mới quen này lại có nhiều góc độ như thế. Nhưng gã lại chưa hiểu, bọn này chỉ biết một phần nhỏ trong cuộc sống của Lý Tầm Hoan mà thôi. Mà một phần đó cũng đủ nói đến ba ngày ba đêm chưa hết.
A Phi cũng không phát giác được, nét mặt của Lý Tầm Hoan vẫn tươi cười, nhưng trong lòng lại cực kỳ buồn bã. Cứ mỗi lần Lý Tầm Hoan nghe thiên hạ nhắc tới chuyện đời mình là lại đau như xé ruột.
Đột nhiên, Ngu Nhị trầm mặt xuống nói: “Các vị biết về Lý Thám Hoa cũng khá nhiều đấy, nhưng chắc chưa nghe nói đến thần đao của Tiểu Lý là đệ nhất thiên hạ, phóng ra chưa trật đao nào.”
Hoàng y đồng tử cười khì khì, nói: “Phóng ra chưa trật đao nào... Ha ha, té ra ngươi sợ ta ch.ết vì ngọn đao ấy nên kéo ta lại phải không? Ngươi sợ khó nói chuyện với sư phụ ta, nên ngăn chặn không cho ta ch.ết đấy ư?”
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Xin các vị cứ yên tâm, đao thứ hai của tại hạ chưa chắc đã phóng ra được. Chỉ một đao thì dứt khoát không thể giết ch.ết cùng lúc sáu người.”
Bỗng nhiên họ Lý trầm mặt xuống, trừng mắt nhìn tr.a Mãnh: “Nếu các vị muốn báo thù cho Gia Cát Lôi, xin cứ việc ra tay.”
Kim sư tr.a Mãnh cười khan hai tiếng rồi nói: “Gia Cát Lôi quả là đáng ch.ết, sao có thể trách Lý huynh được?”
Lý Tầm Hoan nói: “Quí vị không báo thù cho Gia Cát Lôi, vậy chẳng lẽ tìm tại hạ để mời đi uống rượu sao?”
tr.a Mãnh trầm ngâm, chưa biết phải nói ra sao.
Ngu Nhị cười lạnh lẽo: “Chúng ta chỉ muốn Lý Thám Hoa vui lòng trao cái túi ấy lại mà thôi.”
Lý Tầm Hoan chau mày: “Cái túi ư?”
tr.a Mãnh gật đầu: “Phải, cái túi ấy là của người ta giao cho Kim Sư Tiêu Cục. Nếu lỡ bị mất, thì thanh danh mấy mươi năm qua của tiêu cục chúng tôi cũng mất theo trong một sớm một chiều.”
Đưa mắt về phía thi thể Hắc Xà, Lý Tầm Hoan hỏi: “Cái túi ấy không có trong mình hắn sao?”
tr.a Mãnh cười lớn: “Lý huynh nói giỡn rồi. Có mặt Lý huynh ở đó thì làm sao Hắc Xà lấy được?”
Lý Tầm Hoan chau mày, thở dài, lẩm bẩm: “Bình sinh ta sợ nhất là phiền phức, mà sao những chuyện phiền phức lại cứ tìm ta...”
Không nghe rõ, tr.a Mãnh nói tiếp: “Chỉ cần Lý huynh trao cái túi ấy lại, không những tại hạ lập tức đi ngay, mà còn phải hậu tạ để Lý huynh uống rượu tiêu sầu nữa.”
Lý Tầm Hoan nhẹ vuốt con dao nhỏ trong tay, đột nhiên cười: “Không sai! Cái túi ấy đích xác ở trong tay ta, nhưng ta chưa quyết định được có nên trao lại cho các vị hay không. Tốt nhất là các vị để cho ta suy nghĩ một chút.”
Mặt tr.a Mãnh hơi đổi sắc nhưng Ngu Nhị đã vội hỏi: “Không biết các hạ cần suy nghĩ bao lâu?”
Lý Tầm Hoan nói: “Chỉ cần một giờ cũng đủ. Sau một giờ chúng ta sẽ gặp nhau ở đây.”
Không cần suy nghĩ, Ngu Nhị nói ngay: “Được, cứ như thế.”
Hắn không nói gì nữa, vẫy tay gọi đồng bọn đi ngay.
Hoàng y đồng tử cười hi hí: “Nửa giờ cũng chạy đủ xa rồi, sao phải chờ đến một giờ?”
Ngu Nhị nghiêm giọng: “Sau khi bước vào giang hồ, trước khi lui về ẩn dật, Tiểu Lý Thám Hoa đã giao chiến hơn ba trăm trận lớn nhỏ, chưa từng chạy trốn bao giờ.”
*
* *
Chúng đến đã mau, mà rút đi lại càng mau hơn nữa. Trong nháy mắt, những tiếng vòng bạc khua leng keng đã xa ngoài mười trượng.
A Phi đột nhiên nói: “Cái túi ấy nhất định không có trong tay huynh.”
Lý Tầm Hoan im lặng gật đầu.
A Phi lại hỏi: “Đã không có thì sao lại thừa nhận?”
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Dù ta nói không có, thì họ cũng không tin, sớm muộn gì rồi cũng phải đánh nhau. Vì thế ta đành phải nhận bừa cho đỡ phiền phức.”
A Phi lại hỏi: “Đã biết sớm muộn gì rồi cũng phải đánh nhau, thì còn phải hẹn lại làm gì?”
Lý Tầm Hoan nói: “Trong vòng một giờ, ta phải tìm ra một người.”
A Phi hỏi: “Người nào?”
Lý Tầm Hoan nói: “Kẻ lấy cắp cái túi đó!”
A Phi hỏi: “Huynh biết kẻ ấy là ai không?”
Lý Tầm Hoan nói: “Đêm qua nơi khách điếm có mặt ba người của Kim Sư Tiêu Cục. Gia Cát Lôi và Triệu lão nhị đã ch.ết, còn lại một người. Ta cần tìm người ấy.”
A Phi nghĩ ngợi một lúc rồi hỏi: “Tên đó lùn tịt, mặc áo da màu tím thêu hoa, lưng đeo nhuyễn tiên, bên mép tai có một chùm lông đen, có đúng không?”
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Ngươi chỉ nhìn thoáng qua hắn, không ngờ nhớ được tỉ mỉ đến thế!”
A Phi cũng cười: “Bộ dạng như hắn, chỉ nhìn bằng một mắt cũng đủ nhớ rồi.”
Lý Tầm Hoan nói: “Không sai! Ta muốn tìm con người đó. Hôm qua ở khách điếm, chỉ có hắn mới biết giá trị của cái túi ấy. Từ lúc đầu hắn đã cố ẩn nấp, rồi nhân lúc không ai để ý lén đoạt lấy. Hắn muốn đánh lạc hướng tr.a Mãnh, bèn đổ trách nhiệm ấy lên đầu Lý mỗ.”
A Phi trầm ngâm một lúc, chỉ “À” một tiếng.
Lý Tầm Hoan cười buồn, nói tiếp: “May mà đây không phải là lần đầu tiên ta bị người khác giá họa.”
A Phi nói: “tr.a Mãnh biết chúng ta đi theo đường này, chắc cũng do chính hắn báo tin?”
Lý Tầm Hoan gật đầu: “Không sai.”
A Phi nói: “Để tránh sự hoài nghi của tr.a Mãnh, có lẽ tạm thời hắn chưa dám trốn.”
Lý Tầm Hoan lại nói: “Không sai.”
A Phi nói: “Nhất định hắn đang ở một chỗ với bọn tr.a Mãnh. Chúng ta chỉ cần tìm được tr.a Mãnh là có thể tìm được hắn.”
Lý Tầm Hoan vỗ vỗ vai A Phi, cười: “Chỉ cần ba đến năm năm đi lại giang hồ, nhất định không còn ai qua mặt ngươi được. Nếu còn cơ hội gặp nhau, mong rằng chúng ta vẫn là bằng hữu.”
Họ Lý cười ha hả rồi tiếp: “Cũng vì ta thật sự không muốn có một địch thủ như ngươi.”
A Phi im lặng một chút, rồi nhìn chàng, hỏi: “Bây giờ huynh muốn ta đi ư?”
Lý Tầm Hoan nói: “Đây là việc của ta, không liên quan đến ngươi. Bọn chúng không thể tìm ra ngươi, tại sao ngươi lại không đi?”
A Phi hỏi: “Ngươi sợ liên lụy đến ta, hay là không muốn đi chung với ta?”
Ánh mắt Lý Tầm Hoan lộ vẻ đau khổ nhưng miệng vẫn cười tươi: “Thiên hạ không buổi tiệc nào không tàn, gặp nhau trước sau rồi cũng chia tay. Sớm muộn đôi ngày không thành vấn đề.”
Trầm ngâm một lúc, A Phi thò tay vào trong xe, rót đầy hai ly rượu: “Ta mời huynh thêm một ly nữa.”
Lý Tầm Hoan đón lấy ly rượu uống cạn một hơi, rồi cười: “Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu, dữ nhĩ đồng tiêu vạn cổ sầu. Ha ha! Mời anh uống cạn chén này; nỗi sầu vạn cổ thả bay cuối trời.”
Ngừng một lát, chàng lại cười rồi gập mình xuống ho sặc sụa.
A Phi lặng nhìn Lý Tầm Hoan một lúc, rồi quay bước bỏ đi.
Lúc này, ở phía chân trời xa xa, tuyết lại lả tả rơi. Trong khoảnh khắc, trời đất thật là tĩnh mịch, nghe được cả tiếng hoa tuyết rơi xuống mặt đất.
Nhìn theo dáng thẳng tắp của gã thiếu niên từ từ khuất trong gió tuyết, nhìn theo hàng dấu chân cô độc dài dằng dặc đang mờ dần trên mặt tuyết, Lý Tầm Hoan rót đầy một ly rượu, nâng lên, khẽ thở dài, lẩm bẩm: “Tiểu bằng hữu, chúng ta hãy cạn thêm một ly nữa. Thật tình ta không muốn ngươi đi, nhưng tương lai của ngươi còn dài, đi theo ta chẳng có lợi gì. Con người Lý mỗ luôn gắn với rủi ro, phiền phức, nguy hiểm và bất hạnh. Tốt nhất là ta không nên kết bạn với người nào nữa.”
Dĩ nhiên A Phi không nghe được câu nói ấy của Lý Tầm Hoan.
Từ nãy đến giờ, gã đại hán râu xồm vẫn đứng như một tượng đá, tựa vào thành xe, không nói một lời. Tuyết rơi đầy đầu đầy mặt, gã cũng không buồn đưa tay phủi.
Lý Tầm Hoan uống cạn ly rượu rồi quay qua nhìn gã nói: “Ngươi ở đây đợi ta. Tốt nhất là nên chôn cất thi thể con rắn này cho tử tế. Một giờ sau, ta sẽ trở lại.”
Đại hán râu cúi đầu nói: “Ta biết Kim sư tr.a Mãnh thành danh nhờ vào chưởng lực mãnh liệt, nhưng chẳng qua chỉ có hư danh. Thiếu gia chỉ trong bốn mươi chiêu đã có thể lấy được thủ cấp của hắn.”
Lý Tầm Hoan mỉm cười: “Có thể không cần dùng đến mười chiêu.”
Đại hán râu lại hỏi: “Còn Ngu Nhị?”
Lý Tầm Hoan nói: “Khinh công của hắn không tồi, nghe đâu ám khí cũng rất ác độc, nhưng ta vẫn thừa sức đối phó.”
Đại hán râu nói: “Nghe nói môn hạ của Cực Lạc Động cũng có mấy thứ công phu tà môn. Vừa rồi chúng đã xuất thủ, quả nhiên chiêu số võ công rất khác ở Trung Nguyên...”
Lý Tầm Hoan mỉm cười, ngắt lời gã: “Ngươi cứ yên tâm! Số người đó không đủ làm ta phải bận tâm.”
Sắc mặt gã đại hán chợt trầm trọng, chậm rãi nói: “Thiếu gia đừng giấu, ta biết chuyến đi này hung hiểm lắm. Nếu không, nhất định thiếu gia sẽ không chia tay với gã A Phi ấy đâu!”
Lý Tầm Hoan chau mày: “Ngươi đã biến thành nhiều chuyện như thế từ lúc nào?”
Đại hán râu không nói gì nữa, đầu lại càng cúi thấp hơn. Khi gã ngẩng mặt lên thì Lý Tầm Hoan đã đi khuất vào rừng rậm, chỉ có tiếng ho còn vọng lại.
Tiếng ho kéo dài, lẫn trong tiếng gió tuyết nghe thật là não ruột.
Cuối cùng, tiếng gió tuyết át hẳn tiếng ho.
Đại hán râu đầm đìa nước mắt, gọi thầm đầy vẻ thê lương: “Thiếu gia! Chúng ta đang sống yên lành nơi quan ngoại, sao lại phải nhập quan để chịu đau khổ chứ? Mười năm qua, chẳng lẽ thiếu gia vẫn chưa thể quên được nàng hay sao? Còn muốn gặp nàng hay sao? Gặp nàng rồi có nói được câu nào chăng? Thiếu gia!... Sao thiếu gia lại khổ đến thế...”
Vừa vào đến rừng, Lý Tầm Hoan hoàn toàn thay đổi, từ một con người uể oải bần thần, đột nhiên trở nên nhẹ nhàng nhạy bén như một con chó săn. Tai, mắt, mũi, tay chân, mọi cơ bắp mọi giác quan đều vận dụng đầy hiệu quả trên đất tuyết, giữa các cành khô, thậm chí ở trên không trung. Chỉ cần có một chút xíu vết tích của địch nhân để lại, có một chút hơi hướm khác thường, là chàng tuyệt nhiên không bỏ qua. Hai mươi năm nay, không có một người nào trên thế gian có thể trốn tránh được khi chàng truy tìm. Hành động của chàng giống như một con thỏ, linh hoạt nhưng không gấp rút chút nào, cũng giống như một vũ công tuyệt đỉnh, bất kể tiết tấu nhanh đến mấy vẫn có thể duy trì động tác nhu hòa đẹp đẽ.
Mười năm về trước, chàng đã bỏ tất cả những gì đang có, thản nhiên đi ra quan ngoại. Lúc đó chàng đã từng đi qua nơi này, nhưng lúc đó đang là tiết xuân ấm áp, đất đầy hoa nở.
Chàng còn nhớ rõ, đâu đó quanh vùng này có một tửu điếm nho nhỏ, từ xa đã có thể nhìn thấy màn cửa màu xanh treo phía trên tửu điếm. Chàng cũng đã từng dừng xe lại đó, vào uống mấy cân rượu.
Rượu tuy không ngon lắm, nhưng vùng này non xanh nước biếc, vào tiết xuân thu hút khá nhiều người du ngoạn. Chàng đã thấy rất nhiều thanh niên nam nữ ăn mặc tươi đẹp đang ăn uống vui đùa, còn bản thân mình thì đang uống từng ngụm rượu đắng, từ đây cáo biệt bụi trần. Những ấn tượng này thật là vĩnh viễn không thể quên được.
Khi đó chàng không thể tưởng tượng nổi, sau mười năm trời mình lại trở về nơi đây. Con người chắc chắn cũng đã thay đổi nhiều, những thiếu nữ tóc bím năm nào, nay có thể đã xuất giá làm dâu nhà khác; những lứa đôi ân ái năm nào, nay có thể đã chôn vùi dưới huyệt sâu. Ngay cả những hoa cỏ ngày xưa, hôm nay cũng lấp trong băng tuyết. Nhưng chàng vẫn hy vọng, cái tửu điếm nho nhỏ vẫn còn ở đó.
Chàng hy vọng như thế, không phải vì muốn đến tìm lại những hồi ức năm nào, mà vì cho rằng bọn Kim sư tr.a Mãnh không chừng cũng ở trong tửu điếm đó.
Thế giới của băng tuyết dĩ nhiên có nhiều cái khác với thế giới mùa xuân. Lý Tầm Hoan đi trở lại con đường này, trong lòng không nén nổi, chợt thấy nhói lên.
Phú quí, sản nghiệp, quyền thế, danh dự, địa vị, đôi khi người ta dễ dàng bỏ được. Chỉ có ký ức, chỉ có ký ức chua xót như những xiềng xích ràng buộc, mới khiến người ta vĩnh viễn không thể nào quên.
Lý Tầm Hoan lấy trong bọc ra một bình rượu nhỏ, ngửa cổ uống cạn. Đợi cho cơn ho chấm dứt, chàng mới bước đi.
Cuối cùng, chàng đã nhìn thấy tửu điếm thấp thoáng xa xa. Đó là một căn nhà đơn sơ nằm dưới chân núi, chỉ có vài gian, xung quanh là hành lang tương đối rộng, lan can được sơn màu đỏ đậm, còn rèm cửa thì màu xanh bích.
Lý Tầm Hoan còn nhớ rõ, tiết xuân năm ấy, hoa dại nở đầy triền núi, rực rỡ và thơm ngát. Chàng đã dựa vào cái lan can màu đỏ đậm đó, ngắm hoa uống rượu. Trong cảnh sắc hữu tình như thế, rượu nhạt cũng trở thành rượu ngon. Nhưng bây giờ lớp sơn đỏ cũng tróc đi theo thời gian, còn triền núi chỉ một màu tuyết trắng.
Trên mặt tuyết còn in vài vết bánh xe cùng những dấu chân ngựa xen nhau. Sau nhà, thỉnh thoảng vọng lên tiếng ngựa hí vang hòa quyện cùng gió đông.
Lý Tầm Hoan biết mình đoán không sai. Nhất định bọn tr.a Mãnh đang dừng ở nơi đây, vì trong thời tiết này, nơi đây không thể có du khách nào khác.
Lý Tầm Hoan thận trọng hơn, tiến nhanh về phía tửu điếm. Bốn bề im lặng, trong tửu điếm cũng không có tiếng người. Thoáng chau mày, chàng lại vọt tới nhanh như tên bắn. Gần đến nơi, chàng phát giác tửu điếm tĩnh mịch khác thường. Không một động tĩnh gì, ngoài tiếng hí của ngựa.
Những tấm ván lót nơi hành lang cũng đã mục nát, Lý Tầm Hoan vừa đặt chân lên là nghe một tiếng “két”. Họ Lý giật mình, bắn người lui lại mười thước.
Nhưng trong tửu điếm vẫn lặng im.
Trầm ngâm giây lát, Lý Tầm Hoan nhẹ bước ra phía sau nhà, thầm nghĩ có lẽ bọn Kim sư tr.a Mãnh chưa về đến đây. Nhưng chàng lập tức nhìn thấy tr.a Mãnh. tr.a Mãnh đang trừng mắt nhìn chàng.
*
* *
Mắt của tr.a Mãnh hầu như lồi hết ra ngoài. Mặt hắn không còn một giọt máu, nhưng đầy vẻ dữ tợn khiến người ta phải sợ hãi. Hắn đang đứng dựa vào một cây trụ trước tàu ngựa.
Trong tàu, ngựa vẫn hí nho nhỏ, giậm vó nhè nhẹ xuống nền. tr.a Mãnh vẫn đứng yên, không nói một lời mà cũng không cử động, giống như một cục đất sét, như một pho tượng chưa được sơn phết.
Lý Tầm Hoan nhẹ thở một hơi: “Không ngờ...”
Chàng chỉ nói hai tiếng rồi im bặt, vì đã hiểu rằng tr.a Mãnh không thể nghe chàng nói, mà cũng không còn có thể nghe ai nói được nữa.