Chương 0026 : Quái khách trong quán nhỏ
Mùa thu, lá vàng xào xạc.
Ở cuối đường có một tòa trang viện đồ sộ, nhưng dáng vẻ của nó lại giống như cây cỏ mùa thu, nghĩa là đã đến thời kì tàn tạ.
Hai cánh cổng lớn màu đỏ sậm dường như đã rất lâu không ai động tới, hai vòng khoen cũng bắt đầu rỉ sét.
Bên trong vòng tường cao, không nghe một tiếng động nào của con người. Thỉnh thoảng tiếng chim kêu rời rạc trong chiều tàn thu muộn càng làm khung cảnh thêm phần xác xơ hoang vắng.
Trang viện này đã có một quá khứ huy hoàng, sản sinh ra bảy vị tiến sĩ, ba vị thám hoa. Trong số đó lại có một vị danh hiệp võ lâm, tài ba nghĩa khí tuyệt diệu vô song.
Mười hai năm trước, trang viện đã thay đổi chủ nhân. Hai năm trước, ở đây đã xảy ra những chuyện kinh động võ lâm, không ít cao thủ nổi tiếng giang hồ đã vùi thân giữa bốn bức tường này.
Từ đó về sau, trang viện bỗng nhiên im lìm tĩnh mịch. Cả hai vị chủ nhân cuối cùng đột nhiên biến mất tuyệt vô âm tín, cũng không biết đi về đâu.
Từ đó, trong giang hồ có những truyền thuyết rất đáng sợ. Người ta xì xầm to nhỏ, bảo đó là một tòa nhà ma.
Bất cứ ai bước vào đây, dù là cao tăng kỳ sĩ, dù là mỹ nhân nghiêng nước nghiêng thành, chỉ cần đặt chân qua ngưỡng cửa là gặp phải kết thúc bi thương.
Trang viện đó bây giờ, ban ngày không còn tiếng cười nói ồn ào huyên náo, ban đêm không còn ánh đèn đuốc rực rỡ. Chỉ có một ngôi tiểu lâu ở vườn sau, đêm đêm còn le lói một đốm lửa cô đơn.
Dường như trong tiểu lâu này có một người vẫn ngày đêm trông đợi. Nhưng không biết người đó trông đợi ai, và trông đợi cái gì?
*
* *
Con ngõ dọc theo tường sau trang viện rất hẹp, mùa nắng thì gió cuốn bụi bốc mù mịt, mùa mưa thì lầy lội không thể cất bước. Bức tường của trang viện quá cao, khiến con ngõ hẹp ấy quanh năm rất ít khi được ánh dương quang rọi tới.
Nhưng bất cứ một nơi nào, dù tối tăm, dù ẩm thấp đến mấy, cũng vẫn có những con người chui rúc mà sống.
Có thể vì họ không còn nơi nào khác, mà cũng có thể họ đã chán ngấy cảnh sống đua chen, nên chui rúc vào đây để thế gian quên lãng họ đi.
Trong con ngõ hẹp ấy có một cái quán rất nhỏ, phía trước thì bán mấy món ăn đạm bạc rẻ tiền, phía sau có mấy gian phòng tồi tàn.
Chủ nhân của quán này là một lão già gù lưng, được người ta gọi là Tôn Đà Tử.
Lão cũng biết, ở trong cái ngõ tối tăm ấy thì tuyệt nhiên không thể có loại khách cao sang. Nhưng lão chấp nhận ở đây để tiếp những người khách bình dân, để duy trì một cuộc sống đạm bạc.
Lão có vẻ bằng lòng với cuộc sống tồi tàn, bất kể ai khinh bỉ chê cười, vì lão biết rằng bất kể giàu sang phú quí đến đâu cũng không thể đổi lấy sự bình ổn trong lòng.
Cuộc sống của Tôn Đà Tử rất lặng lẽ, rất tịch mịch.
Nhưng có lúc lão cũng nhìn ngọn đèn xa xa trên căn lầu nhỏ, tự nói với mình: “Người trên tiểu lâu kia, tuy được mặc gấm vóc lụa là, được ăn sơn hào hải vị, nhưng chưa chắc đã sung sướng hơn ta. Có thể nói là người đó còn đau khổ, còn cô đơn hơn ta rất nhiều.”
*
* *
Một năm trước đây, vào một buổi hoàng hôn, có một vị khách rất khác người đã đến căn quán nhỏ này. Người khách ấy ăn mặc không sang trọng gì, tướng mạo cũng chẳng có chỗ nào đặc biệt.
Dáng người của chàng cũng khá cao, sắc mặt cũng khôi ngô tuấn tú, nhưng lại rất tiều tụy. Hình như chàng bệnh tật quanh năm, thường phải ôm ngực mà ho đến rũ ra.
Theo vẻ ngoài, chàng thật sự là một con người quá bình thường.
Nhưng khi Tôn Đà Tử vừa nhìn thấy chàng, lại cảm thấy chàng có nhiều điểm khác với người bình thường.
Đối với thân thể gù lưng tàn tật của Tôn Đà Tử, chàng tựa như không để ý, không có một cái nhìn hay cái cười chế nhạo, càng không tỏ vẻ đồng tình hay thương xót.
Bởi vì sự đồng tình hay thương xót, có thể làm người ta khó chịu hơn là chế nhạo.
Đối với thức ăn và rượu, chàng không chê mà cũng không khen. Đây quả là một con người rất ít nói chuyện.
Nhưng điều kỳ lạ nhất, là từ lúc chàng bước vào gian tiểu điếm trong ngõ hẹp này, chưa bao giờ bước ra nửa bước.
Vừa đặt chân vào quán, chàng chọn một cái bàn sâu trong góc, gọi một đĩa đậu rang và một đĩa thịt bò, hai cái bánh bao và bảy hũ rượu.
Sau khi uống cạn bảy hũ rượu, chàng gọi Tôn Đà Tử châm đầy, rồi mang vào một phòng ở phía sau. Chàng ở lì trong đó, đến chiều tối hôm sau mới bước ra gian trước.
Khi chàng xuất hiện, dĩ nhiên bảy hũ rượu đã cạn khô.
Đến nay thì đã một năm rồi, đêm nào chàng cũng ngồi ở cái bàn trong góc ấy, vẫn gọi một đĩa đậu rang, một đĩa thịt bò, hai cái bánh bao và bảy hũ rượu.
Chàng vừa ho sù sụ vừa uống rượu, đến khi hết bảy hũ rượu thì gọi châm thêm bảy hũ khác, rồi lại mang thẳng vào gian phòng ở phía sau, rồi đến hoàng hôn ngày hôm sau mới lại xuất hiện.
Tôn Đà Tử cũng là một người thích rượu, nhưng lão thật sự bái phục sát đất tửu lượng của chàng.
Người có thể uống mười bốn hũ rượu một ngày mà không say, trong đời lão chưa từng thấy.
Có khi không nén nổi, lão rất muốn hỏi cho biết tên họ và lai lịch của người này. Nhưng rốt cuộc thì lão vẫn không hỏi, vì lão biết rằng dù có hỏi, cũng chưa chắc có lời đáp.
Tôn Đà Tử cũng không phải là một con người nhiều chuyện. Chỉ cần khách không nợ tiền trọ, không nợ tiền rượu, không nợ tiền ăn, là lão cũng không mở miệng làm gì.
Cứ như thế vài tháng, có một hôm trời rất lạnh, mưa dầm dề liên tiếp. Một buổi tối, Tôn Đà Tử ra nhà sau, thấy cánh cửa phòng của “quái khách” mở toang. Chàng đang ho đến lăn lộn dưới đất, da mặt đỏ đến dễ sợ, đỏ như sắp rỉ máu ra.
Tôn Đà Tử đỡ chàng ngồi dậy, giữa đêm chạy đi hốt thuốc, sắc thuốc, chăm sóc cho chàng ba ngày ba đêm. Ba ngày sau, chàng ngồi dậy được, lại bắt đầu gọi rượu như cũ.
Lúc đó Tôn Đà Tử chợt nghĩ rằng quái khách tới đây để tìm cái ch.ết, nên nhịn không nổi mà mở miệng khuyên: “Cứ uống như thế này, thì bất cứ ai cũng không thể sống lâu được.”
Chàng cười rất buồn, hỏi lại Tôn Đà Tử: “Theo lão, nếu ta không uống rượu thì có thể sống lâu hơn ư?”
Tôn Đà Tử im lặng. Nhưng từ hôm đó trở đi, hai người hình như đã trở thành bằng hữu.
Những lúc quán không có khách, chàng thường ra rủ Tôn Đà Tử ngồi uống rượu, nói những chuyện tào lao thiên địa khắp đông tây nam bắc, và Tôn Đà Tử nhận ra con người ấy hiểu biết khá nhiều.
Chỉ có một điều chàng không chịu nói, đó là lai lịch và tên họ.
Có một lần, Tôn Đà Tử không nhịn được nữa, lên tiếng hỏi: “Chúng ta đã là bằng hữu, ta phải xưng hô với huynh như thế nào?”
Chàng khựng lại một lúc rồi mới mỉm cười đáp: “Ta là một con sâu rượu, không chừng còn là một con ma rượu. Sao lão huynh không gọi ta là Tửu Quỷ? “
Tôn Đà Tử hiểu rằng quá khứ của người này nhất định rất thương tâm, nên chàng không chịu nhắc đến ngay cả danh tính của mình, tình nguyện chôn vùi cuộc đời trong bầu rượu.
Ngoài việc uống rượu ra, chàng còn có một sở thích rất kỳ lạ.
Đó là điêu khắc.
Gần như lúc nào chàng cũng một tay cầm ngọn tiểu đao, tay kia cầm một khúc gỗ. Nhưng trước nay Tôn Đà Tử vẫn không biết chàng đang khắc hình gì, vì chàng chưa bao giờ đưa tác phẩm cho lão xem.
Đây đúng là một vị quái khách, cổ quái đến mức người ta phải sợ.
Nhưng cũng có lúc, Tôn Đà Tử mong ước vị quái khách này vĩnh viễn không ra đi.
*
* *
Sáng nay khi Tôn Đà Tử thức dậy, lão cảm thấy trời quá lạnh, lạnh đến mức lão phải vào lục tủ lấy một cái áo bông cũ rích mặc thêm, rồi mới bước ra trước tiệm.
Buổi sáng hôm nay cũng như mọi buổi sáng, việc mua bán ở cửa hiệu vẫn chẳng có gì là nhộn nhịp. Sau khi mấy người phu xe đi khỏi, Tôn Đà Tử xách một cái ghế tre ra ngồi phía trước cửa để xay đậu nành làm đậu hủ.
Lão vừa ngồi xuống thì bỗng thấy hai người cưỡi ngựa đang phi tới. Rất ít ai cưỡi ngựa vào ngõ hẹp này, nên dĩ nhiên Tôn Đà Tử phải nhìn.
Cả hai người cùng mặc áo màu vàng, người đi trước mắt to mày rậm, người đi sau có mũi cong như mỏ chim ưng. Cả hai đều có râu ngắn, đều trạc ngoại tam tuần.
Tướng mạo hai người đó không có gì kỳ lạ, chỉ có cái áo màu vàng của họ là chói mắt. Họ chẳng chú ý gì đến Tôn Đà Tử, nhưng chốc chốc lại nhìn lên bức tường cao.
Tôn Đà Tử vẫn tiếp tục xay đậu nành. Lão biết hai người này không phải là khách của mình.
Họ đi tiếp qua khỏi ngõ hẹp, một lúc sau lại đi vòng trở lại.
Lần này, họ xuống ngựa ngay trước ngôi quán nhỏ.
Tôn Đà Tử tuy tính tình có chỗ kỳ lạ, nhưng dù sao lão cũng là một người buôn bán, nên dừng tay rồi lên tiếng hỏi: “Hai vị cần chi?”
Gã mày rậm nói: “Chúng ta không cần gì cả, chỉ cần hỏi lão hai câu.”
Tôn Đà Tử cúi xuống xay đậu nành. Lão chẳng thấy hứng thú nói chuyện chút nào.
Gã mũi chim cười nói: “Chúng ta muốn mua của lão mấy câu trả lời, mỗi câu một đồng bạc. Có được không nào?”
Tôn Đà Tử bỗng thấy “hứng thú”, gật đầu nói: “Được.”
Lão vừa nói vừa đưa một ngón tay ra.
Gã mày rậm bật cười: “Đây cũng coi là một câu hay sao? Lão này làm ăn giỏi thật.”
Tôn Đà Tử nói: “Dĩ nhiên là một câu. Đây cũng là một câu nữa.”
Lão đưa hai ngón tay ra.
Gã mũi chim hỏi: “Lão ở đây bao lâu rồi?”
Tôn Đà Tử đáp: “Hai ba chục năm rồi.”
Gã mũi chim hỏi: “Trang viện đối diện quán này là của ai? Lão có biết không?”
Tôn Đà Tử đáp: “Là của nhà họ Lý.”
Gã mũi chim hỏi: “Chủ nhân hiện giờ là ai?”
Tôn Đà Tử đáp: “Họ Long, tên Long Tiêu Vân.”
Gã mũi chim hỏi: “Ngươi đã từng gặp hắn chưa?”
Tôn Đà Tử đáp: “Chưa.”
Gã mũi chim hỏi: “Bây giờ hắn ở đâu?”
Tôn Đà Tử đáp: “Ra ngoài rồi.”
Gã mũi chim hỏi: “Ra ngoài từ lúc nào?”
Tôn Đà Tử đáp: “Hơn một năm về trước.”
Gã mũi chim hỏi: “Từ đó đến nay, có lúc nào hắn trở về không?”
Tôn Đà Tử đáp “Không.”
Gã mũi chim hỏi: “Lão chưa từng gặp hắn, làm sao lão biết rõ như vậy?”
Tôn Đà Tử đáp: “Đầu bếp của trang viện đó thường mua rượu ở đây.”
Trầm ngâm một lúc, gã mũi chim hỏi: “Trong hai ngày nay, có người lạ mặt nào đến hỏi chuyện lão không?”
Tôn Đà Tử đáp: “Không có. Nếu có thì ta đã đại phát tài rồi.”
Gã mày rậm lên tiếng: “Hôm nay bọn ta cho lão được tiểu phát tài.”
Hắn quăng một nén bạc xuống, rồi cả hai không thèm nói thêm một tiếng, phóng mình lên ngựa ra roi đi thẳng. Suốt dọc đường ra đầu ngõ, cả hai cứ nhìn chừng chừng lên bức tường cao đó.
Tôn Đà Tử nhìn thỏi bạc trên tay, lẩm bẩm: “Thì ra ở trên đời cũng có lúc kiếm tiền rất dễ dàng.”
Lão chợt quay đầu lại, chợt thấy Tửu Quỷ không biết đã đứng đó từ lúc nào. Mắt chàng đang chăm chú nhìn dõi theo hướng mà hai người áo vàng vừa ra. Sắc mặt của chàng tuyệt không bộc lộ một ý nghĩ nào khiến người ta có thể đoán được tâm trạng.
Tôn Đà Tử cười hỏi: “Sao hôm nay huynh dậy sớm thế?”
Tửu Quỷ cũng cười đáp: “Đêm qua ta uống nhanh quá, nên mới sáng sớm đã hết mất rượu.”
Chàng gập mình xuống ho sù sụ một hồi lâu, bỗng ngẩng lên hỏi: “Hôm nay là ngày mấy rồi?”
Tôn Đà Tử đáp “Mười bốn tháng chín.”
Sắc mặt trắng bệch của Tửu Quỷ bỗng đỏ lên trông rất lạ mắt. Ánh mắt chàng nhìn ra xa xa, chàng im lặng hồi lâu rồi từ từ hỏi: “Ngày mai là mười lăm tháng chín rồi ư?”
Câu hỏi hết sức kỳ cục, làm Tôn Đà Tử không khỏi bật cười, rồi đáp: “Sau ngày mười bốn, đương nhiên là đến ngày mười lăm.”
Tửu Quỷ như muốn nói thêm gì đó, nhưng lại gập người xuống rồi ho không ngớt, chỉ vào cái hũ rượu trống rỗng ở trên bàn.
Tôn Đà Tử thở dài, rồi lắc đầu: “Nếu ai cũng uống rượu như huynh, thì mọi người bán rượu đã đại phát tài từ lâu rồi.”
*
* *
Mới chập choạng tối, trong tiểu điếm đã thắp lên một ngọn đèn. Tửu Quỷ đã ngồi vào chỗ mọi ngày, bắt đầu uống rượu.