Chương 11
Simon lưỡng lự. Cậu chắc chắn không thể nói cho chú Luke nghe về chuyện tình cảm của cậu - chú Luke và Maia ở cùng một đàn, và người sói trung thành với nhau hơn là một nhóm bụi đời. Nó sẽ đặt chú Luke vào tình thế khó xử. Nhưng điều đó cũng đúng thôi, vì chú Luke cũng là nguồn giúp đỡ. Là sói đầu đàn Manhattan, chú có thể tiếp cận nhiều nguồn thông tin, và cũng như đặt ra luật lệ trong chính sách của cư dân Thế Giới Ngầm. “Chú có biết ma cà rồng nào tên Camille không?”
Chú Luke huýt sáo khe khẽ. “Chú biết cô ta là ai. Chú ngạc nhiên vì cháu cũng biết đấy.”
“À, cô ấy là thủ lĩnh ma cà rồng New York. Cháu biết vài điều về họ,” Simon nói, có chút ngượng nghịu.
“Chú không nhận ra là cháu biết. Chú tưởng cháu muốn giống người hết mức có thể.” Không có sự thành kiến nào trong giọng nói chú Luke, chỉ có tò mò mà thôi. “Giờ, khi chú nắm quyền kiểm soát đàn sói phía nam Manhattan từ tay sói đầu đàn trước, cô ta đã để Raphael nắm quyền. Chú không nghĩ có ai biết chính xác cô ta đã đi đâu. Nhưng cô ta là một huyền thoại. Một ma cà rồng cực kỳ nhiều tuổi, theo những gì chú biết. Cực kỳ độc ác và ranh ma. Cô ta có thể khiến cả Tiên tộc lao đao đấy.”
“Chú gặp cô ta bao giờ chưa?”
Chú Luke lắc đầu. “Chú chưa bao giờ nghĩ sẽ có cơ hội. Vì sao cháu tò mò về chuyện đó?”
“Raphael nhắc tới cô ta,” Simon nói sát với sự thật nhất.
Chú Luke nhăn trán. “Cháu mới gặp Raphael sao?”
Trước khi Simon kịp trả lời, chuông cửa lại lanh canh vang lên và Simon ngạc nhiên khi thấy Jace bước vào. Clary không hề nhắc tới chuyện anh ta sẽ tới.
Cậu nhận thấy, đúng ra là gần đây Clary chẳng nhắc gì tới Jace cả.
Jace hết nhìn chú Luke lại nhìn Simon. Anh ta có vẻ như hơi ngạc nhiên khi thấy Simon và chú Luke ở đó, dù khó mà nói chính xác được. Dù Simon tưởng tượng rằng Jace biểu hiện nét mặt rất phong phú khi ở bên Clary, nhưng bình thường đối với người khác, anh ta chỉ có một vẻ mặt lạnh như tiền. “Anh ta trông như,” có lần cậu đã nói với Isabelle, “giống như đang nghĩ tới cái gì đó ngang tầm vũ trụ, nhưng nếu cậu hỏi anh ta đang nghĩ gì, anh ta sẽ đấm vào mặt cậu.”
“Vậy thì đừng có hỏi,” Isabelle đã đáp vậy, như thể cô nghĩ Simon thật lố bịch. “Chẳng ai bảo hai người phải là bạn cả.”
“Có Clary ở đây không ạ?” Jace hỏi và đóng cửa lại sau lưng. Anh ta có vẻ mệt mỏi. Mắt anh ta có quầng thâm, và dường như anh ta chẳng thèm mặc áo khoác, dù gió mùa thu khá lạnh. Mặc dù cái lạnh không còn ảnh hưởng tới Simon nhiều, nhưng nhìn Jace chỉ mặc quần bò và áo thun dài tay khiến cậu phát rét.
“Con bé đang giúp Jocelyn,” chú Luke giải thích. “Nhưng cháu có thể ở đây cùng chờ với bọn chú.”
Jace khó chịu nhìn những bức tường treo mạng, vương miện và những chuỗi hạt ngọc trai giả. “Mọi thứ… quá trắng.”
“Tất nhiên phải trắng thôi,” Simon nói. “Dành cho lễ cưới mà.”
“Màu trắng đối với Thợ Săn Bóng Tối là màu của đám tang,” chú Luke giải thích. “Nhưng Jace, đối với người thường, đây là sắc màu của đám cưới. Những cô dâu mặc đồ trắng tượng trưng cho sự trong trắng.”
“Cháu tưởng cô Jocelyn bảo cô không mặc váy trắng,” Simon nói.
“Ờ,” Jace nói. “Chắc thời trong trắng đã đi rồi.”
Chú Luke sặc cà phê. Trước khi chú kịp nói - hay làm - gì, Clary đã trở lại phòng. Tóc cô giờ đã vấn lên bằng những kẹp ghim lấp lánh, với vài lọn tóc xoăn thả xuống. “Mình không biết,” cô nói khi tới gần họ hơn. “Chị Karyn tóm lấy mình mà làm tóc, nhưng mình không biết có nên dùng ghim lấp -”
Cô ngừng nói khi thấy Jace. Từ thái độ của cô, Simon biết chính cô cũng không nghĩ anh sẽ đến. Cô hơi hé miệng lộ vẻ ngạc nhiên, nhưng cô chẳng nói gì. Jace, ngược lại, nhìn chăm chú, và lần duy nhất trong đời, Simon có thể đọc được thái độ của Jace như đọc một cuốn sách. Như thể mọi thứ trên thế giới đều biến mất, chỉ còn lại Jace và Clary, và anh đang nhìn cô với vẻ khao khát và ham muốn không hề che giấu và khiến Simon phát ngại, như thể cậu đang xen vào giây phút riêng tư của hai người họ vậy.
Jace húng hắng. “Em xinh lắm.”
“Jace.” Clary có vẻ bối rối hơn bao giờ hết. “Mọi chuyện đều ổn chứ? Em tưởng anh không đến vì có buổi họp của Conclave.”
“Đúng đó,” chú Luke nói. “Chú có nghe tin có xác ch.ết của một Thợ Săn Bóng Tối trong công viên. Có tin gì mới không?”
Jace lắc đầu, vẫn nhìn Clary. “Không. Chú ấy không phải thành viên của Conclave New York, nhưng ngoài ra chưa ai biết tung tích chú ấy. Chẳng một cái xác nào được xác định danh tính. Hội Tu Huynh Câm đang bắt tay tìm kiếm.”
“Tốt. Các Tu Huynh sẽ tìm ra họ là ai,” chú Luke nói.
Jace chẳng nói gì. Anh vẫn nhìn Clary, và có gì đó cực kỳ kỳ lạ trong cái nhìn đó, Simon nói - một cái nhìn bạn sẽ dành cho một người bạn yêu nhưng sẽ chẳng bao giờ, không bao giờ có được. Cậu biết Jace đã có cảm giác đó về Clary một lần rồi, nhưng giờ sao?
“Jace?” Clary nói và tiến lại gần anh thêm một bước.
Anh không nhìn cô nữa. “Cái áo khoác em mượn anh ngày hôm qua ở công viên,” anh nói. “Em còn cầm không?”
Giờ còn bối rối hơn, Clary chỉ vào đống quần áo, một cái khoác da lộn màu nâu hoàn toàn bình thường, đang treo trên lưng ghế. “Nó ở đằng kia. Em định mang tới cho anh sau khi -”
“Ờ,” Jace nói và cầm nó lên rồi vội vàng xỏ tay, như thể anh đột ngột vội, “giờ em không phải mang đâu.”
“Jace,” chú Luke nói bằng giọng bình tĩnh thường lệ, “bọn chú định ăn bữa tối sớm tại Park Slope sau khi thử đồ xong. Cháu có muốn đi cùng không?”
“Không,” Jace nói và kéo khóa áo. “Cháu có buổi luyện tập vào chiều nay. Cháu đi đây.”
“Luyện tập?” Clary nhắc lại. “Nhưng chúng ta vừa luyện tập hôm qua mà.”
“Một vài người trong chúng ta phải luyện tập hàng ngày, Clary ạ.” Jace không có vẻ tức giận nhưng có chất gay gắt trong giọng anh, và Clary đỏ mặt. “Anh sẽ gặp em sau,” anh nói thêm mà không buồn nhìn cô, và cứ thế lao ra cửa.
Khi cửa đóng lại, Clary giơ tay và bực bội giật mấy cái ghim khỏi tóc. Mái tóc đổ như thác xuống vai cô.
“Clary,” chú Luke nhẹ nhàng nói. Chú đứng dậy. “Cháu đang làm gì thế?”
“Tóc cháu.” Cô giật cái ghim cuối cùng, mạnh. Mắt cô sáng lên, và Simon biết cô đang nén khóc. “Cháu không muốn ăn mặc thế này. Trông ngu ngốc quá.”
“Không, không đâu cháu yêu.” Chú Luke nhặt những cái ghim và đặt xuống một cái bàn trắng nhỏ xinh. “Nghe này, đám cưới làm đàn ông lo lắng, hiểu chứ cháu? Điều đó không có nghĩa gì.”
“Đúng.” Clary cố mỉm cười. Cô gần cười được; nhưng Simon biết cô không tin chú Luke. Cậu không thể trách cô được. Sau khi nhìn thấy vẻ mặt Jace, Simon còn chẳng tin mình nữa là.
Từ xa xa, đại lộ số năm sáng rực như một ngôi sao trong trời chiều chạng vạng xanh lam. Simon đi cạnh Clary dọc theo từng dãy nhà của đại lộ, Jocelyn và chú Luke đi trước họ vài bước. Clary đã thay váy sang mặc đồ bò, một chiếc khăn trắng dày sụ quanh cổ. Mỗi lần cô đưa tay lên vân vê cái nhẫn ở cổ, một biểu hiện lo lắng mà cậu tự hỏi liệu cô có nhận thấy không.
Khi họ rời khỏi tiệm áo cưới, cậu đã hỏi liệu dạo này cô có thấy Jace làm sao không, nhưng cô không thật sự trả lời. Cô nhún vai cho có, rồi bắt đầu hỏi cậu về các chuyện của cậu, cậu đã nói chuyện với mẹ chưa, và nếu cậu chưa nói chuyện với mẹ, thì ở cùng Eric có khiến cậu khó chịu gì không. Khi cậu nói là cậu đang ở tạm chỗ Kyle, cô đã ngạc nhiên.
“Nhưng cậu còn chẳng biết gì về anh ta,” cô nói. “Anh ta có thể là một kẻ giết người hàng loạt lắm chứ.”
“Mình đã nghĩ đến rồi. Mình đã kiểm tr.a căn hộ, nhưng nếu anh ta có một tủ lạnh đựng đầy tay người thì mình vẫn chưa thấy. Mà anh ta cũng thật thà lắm.”
“Thế căn hộ ra sao?”
“Đẹp theo tiêu chuẩn Alphabet City. Hôm nào cậu nên ghé qua mới được.”
“Không phải tối nay,” Clary nói và có chút xao lãng. Cô lại lần sờ cái nhẫn. “Ngày mai nhé?”
Đi gặp Jace sao? Simon nghĩ, nhưng không hỏi thêm. Nếu cô không muốn nói, cậu cũng không ép. “Chúng ta đến nơi rồi.” Cậu mở cửa giùm bạn và một luồng gió mang theo mùi món souvlaki ào tới.
Họ tìm được một bàn bên cạnh một cái ti vi màn hình phẳng cỡ lớn treo tường. Họ lục tục vào chỗ trong khi cô Jocelyn và chú Luke đang say sưa nói chuyện về kế hoạch đám cưới. Có vẻ, đàn của chú Luke, thấy bị xúc phạm khi không được mời tới - dù danh sách khách mời khá hạn chế - và một hai đòi phải tổ chức một buổi ăn mừng riêng ở một nhà máy mới tu sửa tại Queens. Clary nghe, không nói gì; phục vụ tới, giơ tay ra đưa thực đơn như thể có thể dùng nó làm vũ khí. Simon bỏ thực đơn xuống bàn và nhìn ra ngoài cửa sổ. Bên kia đường có một phòng tập thể dục, và cậu có thể nhìn thấy người qua lớp tường kính trong suốt của nó, đang chạy trên những máy tập chạy, tay đánh theo nhịp còn headphone dán chặt vào tai. Toàn chạy mà chẳng tới đâu. Đúng là câu chuyện đời mình.
Cậu cố đẩy những suy nghĩ đen tối đi, và gần thành công. Đây là một trong những quang cảnh quen thuộc nhất trong cuộc đời cậu, cậu nghĩ - một bàn trong góc một nhà ăn, cậu cùng Clary và gia đình cô. Chú Luke luôn là người nhà, kể cả khi chú chưa định kết hôn cùng mẹ Clary. Simon đáng ra phải cảm thấy như ở nhà. Cậu cố mỉm cười, khi nhận ra mẹ Clary vừa hỏi cậu điều gì đó mà cậu không nghe thấy. Mọi người trong bàn đang chờ đợi cậu trả lời.
“Xin lỗi,” cậu nói. “Cháu không - Cô vừa nói gì ạ?”
Cô Jocelyn mỉm cười kiên nhẫn. “Clary bảo ban nhạc vừa có thêm thành viên hả?”
Simon biết cô chỉ đang tỏ ra lịch sự. À, lịch sự theo cách các bậc phụ huynh luôn thế khi họ giả vờ quan tâm cực kỳ tới sở thích của bạn. Nhưng, cô cũng từng tới một vài buổi trình diễn của họ, chỉ để cho có đủ người. Cô quan tâm tới cậu chứ; cô luôn quan tâm tới cậu. Trong những nơi tăm tối, sâu thẳm trong đầu óc Simon, cậu luôn nghĩ cô biết cảm giác của cậu với Clary, và cậu tự hỏi nếu cô có gì cô có thể kiểm soát, liệu cô có muốn cô con gái có một lựa chọn khác không. Cậu biết cô không hoàn toàn thích Jace. Điều đó quá rõ ràng trong cái cách cô gọi tên anh ta.
“Dạ,” cậu nói. “Kyle ạ. Anh ta khá kỳ cục, nhưng cực kỳ tốt bụng.” được chú Luke gợi ý nói thêm về sự kỳ cục của Kyle, Simon nói cho họ nghe về căn hộ của Kyle - cẩn trọng bỏ qua chi tiết giờ đó cũng là căn hộ của cậu nữa - việc làm bưu tá đưa thư đi xe đạp, và chiếc xe bán tải cổ lỗ sĩ của anh ta. “Và anh ta trồng mấy loại cây rất kì lạ ở ban công,” cậu nói thêm. “Khônng phải thuốc phiện - cháu kiểm tr.a rồi. Nhưng nó có những chiếc lá màu bạc -”
Chú Luke nhíu mày, nhưng trước khi chú kịp nói gì, người hầu bàn đã tới, mang theo một bình cà phê bằng bạc lớn. Cô ta khá trẻ, có mái tóc màu bạch kim bện hai bên. Khi cô ta cúi xuống rót cà phê cho Simon, tay cô ta khẽ chạm vào cánh tay cậu. Cậu có thể ngửi thấy mùi mồ hôi, và mùi máu nhè nhẹ. Máu người, mùi thơm ngọt ngào hơn tất thảy. Cậu cảm thấy cảm giác quặn ruột quen thuộc. Cậu đang đói, và cậu chỉ muốn trở về chỗ Kyle uống mấy túi máu giờ chắc có nhiệt độ ngang với trong phòng đã bắt đầu phân hủy - nghĩ thật buồn nôn, kể cả với một ma cà rồng.
Cậu chưa từng uống máu người, đúng không? Cậu sẽ uống thôi. Và khi đó, cậu sẽ không thể nào quên.
Cậu nhắm mắt. Khi cậu mở mắt ra, người phục vụ đã đi và Clary đang tò mò nhìn cậu từ bên đối diện. “Cậu ổn không?”
“Ổn.” Cậu cúp tay quanh cốc cà phê. Nó đang run. Trên họ, TV đang phát bản tin tối.
“Eo,” Clary nói và nhìn lên màn hình. “Cậu có nghe nó nói gì không?”
Simon nhìn theo. Phóng viên bản tin thời sự đang đeo gương mặt của một phóng viên thời sự cần đeo khi họ phải kể một câu chuyện đặc biệt buồn thương. “Vẫn chưa ai tới xác nhận danh tính cho cậu bé sơ sinh bị bỏ lại trong con hẻm đằng sau bệnh viện Beth Isreal vài ngày trước,” anh ta đang nói. “Cậu bé da trắng, nặng sáu pound tám ounce, và khỏe mạnh. Người ta phát hiện ra đứa bé bị buộc vào ghế ngồi ô tô của trẻ nhỏ đằng sau thùng rác Dumpster sau hẻm,” người phóng viên tiếp tục. “Đáng ngại nhất là có một lá thư viết bằng tay được nhét vào chăn của thằng bé cầu xin những người có thẩm quyền trong bệnh viện giết đứa bé vì ‘tôi không thể làm điều đó.’ Cảnh sát nói có thể mẹ đứa nhỏ có vấn đề về thần kinh, và nói họ đã có ‘những đầu mối nhiều triển vọng.’ Ai có thông tin về cậu bé này có thể gọi điện cho Phòng ngăn chặn tội phạm tại -”
“Thật quá tàn nhẫn,” Clary nói và rùng mình quay mặt khỏi TV. “Mình không hiểu sao người ta có thể vứt một đứa bé đi như vứt rác -”
“Jocelyn,” chú Luke nói, giọng tràn đầy quan tâm. Simon nhìn mẹ Clary. Cô ấy trắng bệch như tờ giấy trông như sắp nôn. Cô vội vàng đẩy đĩa đồ ăn đi, đứng dậy và vội vàng lao vào nhà vệ sinh. Một lát sau, chú Luke rút khăn giấy và đuổi theo.
“Ôi ch.ết tiệt.” Clary che miệng. “Mình không thể tin nổi mình đã nói thế. Mình ngốc quá đi.”
Simon hoàn toàn bối rối. “Có chuyện gì thế?”
Clary ngồi chìm xuống ghế. “Mẹ đang nghĩ về Sebastian,” cô nói. “Ý mình là Jonathan. Anh mình. Chắc cậu vẫn nhớ.”
Cô đang chế giễu cậu. Chẳng ai trong họ có thể quên được Sebastian, người có tên thật là Jonathan đã giết hại bác Hodge và cậu bé Max và suýt đã giúp Valentine chiến thắng cuộc chiến sẽ phá hủy toàn bộ thế giới của Thợ Săn Bóng Tối. Jonathan, người có đôi mắt đen sáng rực và nụ cười sắc lẹm như lưỡi lam. Jonathan, người có dòng máu mang vị như axít trong ác quy khi Simon cắn anh ta một lần. Cậu không thể quên.
“Nhưng mẹ cậu không bỏ hắn.” Simon nói. “Mẹ cậu buộc phải nuôi anh ta dù biết có gì đó cực kỳ có vấn đề với anh ta..”
“Nhưng mẹ ghét Jonathan,” Clary nói. “Mình không nghĩ mẹ có thể vượt qua chuyện đó. Cứ tưởng tượng ra rằng cậu ghét con đẻ mình đi. Mẹ thường lấy ra một cái hộp có chứa đồ sơ sinh và khóc suốt bao năm ròng trong ngày sinh nhật anh ta. Mình nghĩ mẹ khóc cho đứa con mẹ đáng ra đã có - cậu hiểu không, nếu như Valentine không làm điều ông ta đã làm.”
“Và cậu sẽ có một người anh,” Simon nói. “Một người anh thật sự ấy. Không phải một gã tâm thần thích giết người.”
Có vẻ như sắp khóc, Clary đẩy đĩa thức ăn ra. “Giờ mình thấy buồn nôn quá,” cô nói. “Cậu biết cái cảm giác cậu đói nhưng không thể ăn chứ?”
Simon nhìn người phục vụ tóc bạch kim đang dựa người vào quầy tiệm. “Ờ,” cậu nói. “Mình biết.”
Chú Luke trở lại bàn, chỉ để báo với Clary và Simon rằng chú sẽ đưa Jocelyn về nhà. Chú bỏ lại ít tiền, để họ trả tiền trước khi rời tiệm ăn và tới Galaxy Comics tại Đại lộ số Bảy. Nhưng cả hai đều không đủ tập trung để chơi đùa thỏa thích, thế là họ chia tay cùng lời hứa mai sẽ gặp lại.
Simon đạp xe vào thành phố với cái mũ áo đội lên và iPod bật, nhạc đập bùng bùng vào màn nhĩ. Âm nhạc luôn là phương thức ngăn cản mọi thứ của cậu. Khi cậu rời khỏi đại lộ số Hai và xuống Houston, một trận mưa bụi bắt đầu rơi, và bụng cậu đang quặn từng khúc.
Cậu cắt qua đường số một, giờ gần như trống vắng, một dài đen giữa ánh sáng rực rỡ của Đại lộ số Một và đại lộ A. Vì cậu đang bật iPod nên cậu không nghe thấy họ đang tới cho đến khi họ tới gần. Điều đầu tiên gợi ý cho cậu là cái bóng dài tỏa ra trên vỉa hè, trùm lên cả bóng cậu. Một bóng đen khác tới cạnh, ở bên kia cậu. Cậu quay lại -
Và thấy hai người đàn ông đằng sau. Cả hai đều mặc giống hệt gã trấn lột đã tấn công cậu vào đêm kia - bộ đồ gió màu xám, mũ trùm xám kéo cao che gương mặt. Chúng có thể chạm được vào cậu rồi.
Simon nhảy lùi lại, với lực khiến cậu ngạc nhiên. Vì sức mạnh ma cà rồng còn khá mới mẻ, nó vẫn còn khả năng làm cậu giật mình. Khi, một lát sau, cậu thấy mình ngồi ngất nghểu trên bậc thềm đá nâu, cách hai kẻ trấn lột vài foot, cậu quá kinh ngạc tới mức cứng đờ người.
Hai kẻ trấn lột tiến tới. Chúng nói bằng cái thứ ngôn ngữ ậm ừ nơi yết hầu như kẻ trấn lột đầu tiên - người, Simon bắt đầu nghi ngờ, không phải kẻ trấn lột thật sự. Những kẻ trấn lột, theo như cậu biết, không làm việc theo nhóm, và khó mà kẻ trấn lột đầu tiên lại có vài bạn bè trong giới tội phạm quyết định trả thù cho hắn. Có gì đó rõ ràng đang xảy ra ở đây.
Chúng đã tới bậc cửa, và hoàn toàn khóa cậu trên những bậc thang. Simon tháo tai nghe iPod và vội vã giơ tay. “Nghe này,” cậu nói. “Tôi không biết chuyện này là sao, nhưng các người thật sự muốn để tôi yên đấy.”
Hai kẻ trấn lột nhìn cậu. Hay ít nhất cậu nghĩ chúng đang nhìn cậu. Bên dưới cái mũ, thật khó mà nhìn rõ mặt chúng.
“Tôi bắt đầu có cảm giác có người phái hai người tới xử tôi,” cậu nói. “Nhưng đây là việc cảm tử đấy. Thật đấy. Tôi không biết họ trả hai người cái gì, nhưng không đủ đâu.”
Một trong hai gã mặc bộ đồ gió cười lớn. Kẻ kia cho tay vào túi và rút một thứ ra. Một thứ sáng đen dưới ánh đèn đường.
Một khẩu súng.
“Ôi điên mất,” Simon nói. “Các người thật sự, thật sự không muốn làm điều này. Tôi không đùa đâu.” Cậu lùi một bước bước thêm một bước lên bậc tam cấp. Có thể nếu cậu tới đủ cao, cậu có thể nhảy qua đầu chúng hay qua chúng. Bất cứ thứ gì trừ để chúng tấn công cậu. Cậu không nghĩ cậu có thể đối mặt với chuyện như thế này. Không phải một lần nữa.
Gã cầm súng không quan tâm. Có một tiếng lách cách vang lên khi hắn kéo cò súng.
Simon cắn môi. Khi hoảng loạn, răng nanh của cậu sẽ thòi ra. Cảm giác đau xuyên qua cậu khi chúng cắm vào da cậu. “Đừng -”
Một vật màu đen từ trên trời rơi xuống. Lúc đầu Simon nghĩ đó chỉ là một thứ gì đó rơi xuống từ ô cửa sổ các tầng trên - một cái máy điều hòa bị lỏng ra, hay ai đó quá lười không muốn xuống nhà vứt rác. Nhưng cái thứ đang rơi, cậu thấy, là một người - rơi có hướng, có mục đích, rơi rất đẹp mắt. Người đã rơi trúng gã trấn lột, làm hắn nằm bẹp đất. Khẩu súng bay khỏi tay hắn và hắn hét lên, một tiếng hét chói lói.
Gã thứ hai cúi xuống nhặt khẩu súng. Trước khi Simon kịp phản ứng, gã đã giơ súng và bóp cò. Một tia lửa xuất hiện ở nòng súng.
Và khẩu súng nổ tung. Nó nổ tung và gã trấn lột nổ tung cùng nó, quá nhanh còn chẳng kịp hét. Hắn định cho Simon một cái ch.ết chóng vánh, và hắn nhận được một cái ch.ết còn nhanh hơn. Hắn vỡ tung như thủy tinh, giống như những mảnh màu bay ra trong kính vạn hoa. Có một tiếng nổ nhỏ - tiếng của không khí bị đổi chỗ - và rồi chẳng còn gì ngoài một đống muối bay xuống vỉa hè như một cơn mưa bị đông đặc.
Simon chỉ nhìn thấy mơ hồ, và cậu ngồi bẹp xuống mấy bậc thang. Cậu ý thức được những tiếng ù ù trong tai, và rồi có ai đó nắm chặt lấy cổ tay cậu và lắc, rất mạnh. “Simon. Simon!”
Cậu ngước nhìn. Người đang nắm lấy tay cậu mà lắc là Jace. Anh ta không mặc đồ đi săn, nhưng vẫn mặc quần bò và áo khoác vừa lấy từ chỗ Clary. Trông anh ta khá luộm thuộm, quần áo và mặc mũi dính đầy bụi bẩn và nhọ nồi. Tóc anh ta ướt nước mưa.
“Cái quái gì thế?”
Simon ngước nhìn lên đường. Ngoài đó vẫn chẳng có một bóng người. Mặt đường sáng, đen, ướt và không có người. Kẻ trấn lột thứ hai đã biến mất.
“Anh,” cậu nói, có chút ngái ngủ. “Anh nhảy trúng mấy gã trấn lột -”
“Chúng không phải lũ trấn lột. Chúng đã đi theo cậu từ lúc cậu rời ga tàu điện ngầm. Có ai đã cử chúng tới.” Jace cực kỳ chắc chắn.
“Kẻ còn lại,” Simon nói. “Hắn đã bị sao vậy?”
“Hắn biến mất.” Jace búng ngón tay. “Hắn thấy chuyện xảy ra với bạn hắn, và hắn biến mất, như thế thôi. Tôi không biết chúng là gì. Không phải quỷ, nhưng cũng chẳng hẳn là người.”
“À cái đó thì tôi đoán ra rồi, cảm ơn.”
Jace nhìn cậu kỹ hơn. “Cái đó - chuyện xảy ra với gã trấn lột - là do cậu, đúng không? Ấn Ký của cậu, ở đây.” Anh ta chỉ vào trán cậu. “Tôi thấy nó trắng sáng lên trước khi gã kia bị… phân hủy.”
Simon không nói gì.
“Tôi thấy rất nhiều chuyện,” Jace nói. Lạ là, trong giọng anh ta không có ý mỉa mai hay chế giễu gì. “Nhưng tôi chưa bao giờ thấy chuyện gì tương tự.”
“Tôi không làm,” Simon nói khe khẽ. “Tôi chẳng làm gì cả.”
“Cậu không phải làm,” Jace nói. Đôi mắt vàng của anh ta sáng lên trên gương mặt dính đầy bồ hóng. “Vì chúng ta biết Đấng đã phán rằng: Sự trả thù thuộc về ta; ta sẽ báo ứng, ấy là lời Chúa phán.””