Chương 12

6. Đánh thức người ch.ết


Phòng của Jace vẫn gọn gàng như mọi khi – giường được gấp gọn ghẽ, sách đặt trên giá theo thứ tự bảng chữ cái, những cuốn vở và sổ ghi chép được xếp thành chồng gọn ghẽ trên bàn. Kể cả vũ khí của anh cũng xếp dọc theo tường theo trình tự về kích thước, từ thanh đao bản lớn cho tới bộ dao găm nhỏ.


Clary, đứng ở ngưỡng cửa, cố nén tiếng thở dài. Anh sống quá ư ngăn nắp. Cô luôn nghĩ, đó là cách Jace cố kiểm soát những yếu tố của cuộc sống nếu không sẽ bị những hỗn loạn làm cho điên đảo. Anh đã sống rất lâu mà không biết anh là ai – hay cái gì, cô gần như không thể bực anh vì sự cẩn thận sắp xếp những tập thơ theo thứ tự bảng chữ cái được.


Nhưng, cô có thể – và đã – bực vì việc anh không có ở đây. Nếu anh không trở về sau khi rời khỏi cửa hàng đồ cưới, vậy anh đã đi đâu? Khi nhìn quanh phòng, một cảm giác mơ hồ choáng ngợp cô. Không thể nào mà bất cứ chuyện gì trong này có thể xảy ra, đúng không? Cô đã hiểu chia tay là như thế nào qua việc nghe những cô gái phàn nàn về chúng. Đầu tiên là lảng tránh, dần dà từ chối không gọi lại hay viết thư lại. Những bức thư lập lờ chẳng nói rõ có chuyện gì không ổn, rằng người kia chỉ muốn có chút không gian riêng. Rồi sau đó bài diễn văn sẽ về “Không phải do em, mà là do tôi.” Rồi tới phần khóc lóc ỉ ôi.


Cô chưa bao giờ nghĩ chuyện của cô và Jace sẽ có một phần nào như thế. Điều họ có không hề thông thường, hay là đề tài của những luật lệ về các mối quan hệ và chia tay thông thường. Họ hoàn toàn thuộc về nhau, và sẽ luôn luôn là như thế, chắc chắn là như thế.


Nhưng có lẽ họ thường cảm thấy thế nhỉ? Tới khi họ nhận ra họ cũng giống như mọi người khác, và mọi thứ họ nghĩ sẽ thật sự vỡ vụn.


available on google playdownload on app store


Có gì đó màu bạc lấp lánh bên trong phòng khiến cô chú ý. Đó là cái hộp cô Amatis đã đưa cho Jace, có hình trang trí xinh đẹp về những chú chim ở xung quanh. Cô biết anh đã đọc đi đọc lại nhiều lần, đọc thư rất chậm, đọc hết các ghi chú và ảnh. Anh không nói nhiều về nó cho cô nghe, và cô cũng không muốn tò mò tọc mạch. Cảm xúc của anh đối với người bố ruột là một điều anh phải tự mình cảm nhận.


Cô thấy giờ mình đang bị cái hộp thu hút. Cô nhớ anh đã ngồi ở bậc thang ở ngoài Sảnh Hiệp Định ở Idris, ôm cái hộp trong lòng. Làm như anh có thể ngừng yêu em vậy, anh đã nói thế. Cô chạm vào gáy hộp và ngón tay tay tìm thấy cái móc và mở ra dễ dàng. Bên trong là đủ các giấy tờ, những tấm ảnh cũ. Cô cầm ra một và nhìn, rất hứng thú. Có hai người trong đó, một phụ nữ và một người đàn ông trẻ tuổi. Cô ngay lập tức nhận ra đó là em gái chú Luke, cô Amatis. Cô đang nhìn vào người đàn ông đang say mê đắm đuối tình yêu đầu. Chú ấy đẹp trai, cao ráo và tóc vàng, dù mắt chú màu xanh lam chứ không phải vàng, và đường nét của chú không góc cạnh như ở Jace… và nhưng, biết chú là ai – cha của Jace – đã đủ khiến bụng cô quặn lại.


Cô đặt bức ảnh về Stehen Herodale xuống ngay, và suýt bị đứt tay vì con dao đi săn mỏng đặt ngang hộp. Những con chim được khắc trên tay cầm. Lưỡi dao đã hơi gỉ sét, hay bị dính cái gì đó giống như gỉ sét. Chắc chắn nó không được lau sạch. Cô vội đóng hộp lại, và quay đi, cảm giác tội lỗi đè nặng trên hai vai cô.


Cô đã nghĩ đến việc bỏ lại giấy nhắn, nhưng rồi quyết định sẽ ở lại đợi tới khi cô có thể trực tiếp nói chuyện với Jace, cô rời đi và xuống hành lang ra cầu thang máy. Lúc trước cô đã gõ cửa phòng Isabelle, nhưng có vẻ cô nàng cũng không có ở nhà. Kể cả những ngọn đuốc phù thùy ở các hành lang dường như cũng tối hơn bình thường. Cảm thấy cực kỳ chán nản, Clary ấn nút gọi của thang máy – và nhận ra, nó đã sáng rồi. Có ai đó đang từ tầng dưới lên trên Học Viện.


Jace, cô ngay lập tức nghĩ, nhịp đập tăng cao. Nhưng tất nhiên đó không phải anh ấy rồi, cô tự nhủ. Đó có thể là Izzy, cô Maryse, hoặc –
“Chú Luke?” cô ngạc nhiên khi thấy cửa thang máy mở. “Chú làm gì ở đây?”


“Chú đang định hỏi cháu điều tương tự đấy.” Chú rời khỏi thang máy, kéo cửa xếp lại sau lưng. Chú đang mặc một chiếc áo gió viền lông cừu ở gần khóa kéo mà mẹ Jocelyn đã cố bắt chú ném nó đi từ ngày họ bắt đầu hẹn hò. Clary nghĩ, điều đó thật tuyệt khi dường như chẳng có gì thay đổi nổi chú Luke, dù cho chuyện gì đã xảy ra trong đời chú. Chú vẫn là chú, và luôn luôn như vậy. Kể cả cho cái chú thích là chiếc áo khoác cũ mèm trong nham nhở như bị chuột gặm. “Nhưng chú đoán ra được. Vậy, thằng bé có ở đây không?”


“Jace ạ? Không chú ạ.” Clary nhún vai. Cố ra vẻ không quan tâm. “Không sao đâu ạ. Mai cháu sẽ gặp anh ấy vậy.”
Chú Luke lưỡng lự. “Clary –”
“Lucian.” Một giọng lạnh lùng vang lên từ sau họ thuộc về cô Maryse. “Cám ơn anh đã tới mà không báo trước.”
Chú quay sang gật đầu với cô. “Chào Maryse.”


Maryse Lightwood đứng ở ngưỡng cửa, bàn tay đặt hờ lên khung cửa. Bà đang đeo găng tay màu lông chuột rất hợp với bộ vét xám được may đo. Clary tự hỏi liệu có bao giờ Maryse mặc đồ bò không. Cô chưa bao giờ thấy mẹ của Isabelle và Alec mặc gì ngoài những bộ vét và đồ chiến đấu thể hiện sức mạnh. “Clary,” bà nói, “Cô không nhận ra cháu ở đây.”


Clary đỏ mặt. Maryse dường như chẳng hề phiền hà gì chuyện cô đi hay đến lúc nào, nhưng Maryse thật ra vẫn chưa hề biết rõ về mối quan hệ giữa Jace và Clary. Khó mà trách bà được. Maryse còn buồn vì sự ra đi của Max, và bà tự mình gặm nhấm nỗi đau thương đó, vì chồng bà, Robert, vẫn ở Idris. Bà có những chuyện quan trọng hơn cần suy nghĩ hơn là chuyện tình yêu tình báo của Jace.


“Cháu đang định về ạ,” Clary nói.
“Chú sẽ chở cháu về sau khi xong việc,” chú Luke nói và đặt tay lên vai cô. “Maryse, có vấn đề gì nếu Clary ở lại trong lúc chúng ta nói chuyện không? Vì tôi muốn con bé ở lại.”


Maryse lắc đầu. “Chắc không sao đâu.” Bà thở dài và vuốt tóc. “tin tôi đi, thật ra tôi không muốn làm phiền anh chút nào. Tôi biết tuần tới anh sẽ kết hôn – à mà chúc mừng anh nhé. Tôi không biết tôi đã chúc mừng chưa nữa.”
“Chưa,” chú Luke nói, “nhưng không sao đâu. Tôi cám ơn.”


“Chỉ mới sáu tuần,” Maryse cười nhẹ. “Nhưng mọi chuyện đều đảo lộn hết.”
Tay chú Luke nắm chặt lấy vai Clary, dấu hiệu duy nhất cho thấy chú đang phật ý. “Cô gọi tôi không phải chỉ để chúc mừng tôi kết hôn đấy chứ?”


Maryse lắc đầu. Clary thấy bà có vẻ mệt mỏi và giờ trên mái tóc từng rất đen của bà đã điểm thêm vài sợi bạc. “Không phải. Chắc anh đã nghe về những xác ch.ết chúng tôi tìm thấy trong tuần qua?”
“Những xác ch.ết Thợ Săn Bóng Tối, có nghe.”


“Chúng tôi vừa tìm thấy thêm một thi thể nữa vào tối nay. Bị nhét trong thùng Dumpster gần Công viên Columbus. Phạm vi đàn của anh hoạt động.”
Chú Luke nhướn mày. “Đúng, nhưng những xác khác –”


“Thi thể đầu tiên được tìm thấy ở Greenpoint. Địa phận của pháp sư. Xác thứ hai nổi trong hồ tại Công Viên Trung Tâm. Địa bàn của thần tiên. Giờ chúng ta có phạm vi của người sói.” Cô nhìn chú Luke. “Điều đó khiến anh nghĩ sao?”


“Có ai đó rất không hài lòng về Hiệp Định mới đang cố để Thế Giới Ngầm chống lại Thế Giới Ngầm,” chú Luke nói. “Tôi có thể đảm bảo với cô rằng đàn của tôi không liên quan tới chuyện này. Tôi không biết ai đứng đằng sau vụ này, nhưng đó là một nỗ lực hết sức vụng về, nếu cô hỏi ý kiến tôi. Tôi hy vọng Clave sẽ nhìn thấu suốt.”


“Còn nữa,” Maryse nói. “Chúng tôi đã tìm được danh tính của hai thi thể đầu tiên. Chúng tôi mất khá nhiều thời gian, vì xác đầu tiên bị thiêu rụi gần như không thể nhận dạng, còn xác thứ hai bị phân hủy ghê gớm. Anh có đoán ra họ là ai không?”
“Maryse –”


“Anson Pangborn,” cô nói, “và Charles Freeman. Tôi nên báo cho anh biết, sau khi Valentine ch.ết, chúng ta đều không nghe được tin gì về họ –”
“Nhưng điều đó là không thể,” Clary ngắt lời. “Chú Luke đã giết ch.ết Pangborn vào hồi tháng tám - ở Renwick’s.”


“Chú ấy giết Emil Pangborn,” cô Maryse giải thích, “Anson là em trai của Emil. Cả hai đều thuộc Hội Kín.”


“Cũng như Freeman,” chú Luke nói. “Vậy có người không chỉ giết Thợ Săn Bóng Tối mà còn chú tâm nhắm vào các cựu thành viên của Hội Kín? Và bỏ xác họ lại lãnh thổ từng giống nòi thuộc Thế Giới Ngầm một?” Chú lắc đầu. “Nghe như có kẻ đang giúp tăng thêm… số lượng thành viên thủ cựu của Hội Clave. Bắt họ phải nghĩ lại về Hiệp Định mới, có lẽ. Chúng ta đáng ra phải tính tới chuyện này.”


“Có thể,” Maryse nói. “Chúng tôi đã gặp Nữ Hoàng Seelie, và tôi đã gửi thư cho Magnus dù anh ta ở đâu.” Bà đảo mắt; Maryse và Robert dường như đã chấp nhận mối quan hệ giữa Alec với Magnus theo một cách dễ chịu tới đáng ngạc nhiên, nhưng Clary có thể đảm bảo chí ít Maryse không nghĩ đó là chuyện nghiêm túc. “Tôi chỉ cho rằng điều đó có khả năng xảy ra thôi, -” Bà thở dài. “Dạo gần đây tôi kiệt sức lắm rồi. Tôi thấy mình không thể tỉnh táo suy nghĩ nổi. Tôi hy vọng anh có thể đưa ra một vài ý kiến về hướng giải quyết. một ý tưởng gì đó mà tôi không tài nào nghĩ ra được.”


Chú Luke lắc đầu. “Có ai đó không có thiện chí với hệ thống mới. Nhưng đó có thể là bất cứ ai. Tôi đoán không có bằng chứng gì trên những xác ch.ết?”
Maryse thở dài. “Không có gì. Giá mà người ch.ết có thể nói, Lucian nhỉ?”


Như thể Maryse vừa giơ tay kéo tấm màn che mắt Clary vậy; mọi thứ tối sầm, trừ một biểu tượng duy nhất, treo lơ lửng như một tấm biển hiệu sáng choang nổi bật giữa màn đêm đen kịt.
Có vẻ là sức mạnh của cô không hề biến mất.


“Nếu như…” cô nói chậm, ngước mắt lên nhìn cô Maryse. “Nếu họ có thể thì sao ạ?”


Nhìn chăm chăm mình trong tấm gương nho nhỏ trong phòng tắm nhà Kyle, Simon không thể nào không băn khoăn ba cái chuyện ma cà rồng không thể soi gương tới từ đâu. Cậu thấy mình phản chiếu rõ ràng trên bề mặt tấm gương dính bụi này – mái tóc nâu bù xù, đôi mắt to màu nâu, làn da trắng không tì vết. Cậu đã lau sạch máu tứa ra ở chỗ môi bị bầm, dù da cậu có thể tự lành.


Cậu biết, nói một cách khách quan, trở thành ma cà rồng cho cậu vẻ ngoài quyến rũ hơn. Isabelle đã giải thích rằng các chuyển động của cậu giờ trở nên thanh lịch và, dù trước đây cậu thấy mình lôi thôi lếch thếch thế nào thì giờ cậu mang một vẻ đẹp theo kiểu bất cần, như thể vừa bước dậy khỏi giường. “Giường của một người khác,” cô đã nhắc thế, và cậu đã đáp rằng mình đã đoán ra ý cô là gì, cảm ơn.


Nhưng khi tự ngắm mình, cậu không hề thấy điều đó. Như thường lệ, làn da trắng chẳng thấy lỗ chân lông làm cậu khó chịu, cũng như những đường gân đen chạy như mạng nhện hiện rõ trên thái dương – bằng chứng cho thấy hôm nay cậu chưa uống máu. Cậu thấy mình xa lạ và không giống cậu. Có lẽ cái chuyện “khi thành ma cà rồng, bạn không thể nhìn mình trong gương” là một sự ước ao. Cũng có thể đơn giản là vì hình ảnh bạn thấy trong gương kia chẳng còn là bạn của ngày xưa cũ nữa.


Tắm rửa xong, cậu trở lại phòng khách, bắt gặp Jace đang nằm dài trên ghế sô pha nệm ʍút̼, đọc cuốn Chúa tể Những chiếc nhẫn đã rách tươm của Kyle. Anh bỏ nó xuống bàn khi Simon vào. Tóc anh trông ướt như vừa té nước lên mặt trong bồn rửa bát vậy.


“Tôi hiểu vì sao cậu thích ở đây,” anh nói và đưa tay chỉ toàn bộ những bộ sưu tập poster film và những cuốn sách khoa học viễn tưởng của Kyle. “Ở đây có một lớp mọt sách mỏng bao phủ toàn bộ mọi thứ.”


“Cám ơn.” Simon lườm Jace. Ở gần, dưới cái ánh sáng rực rỡ của ngọn đèn trên đầu, Jace trông có vẻ - ốm. Simon nhận thấy bọng mắt của anh rõ ràng hơn bao giờ hết, còn lớp da những căng trên xương mặt. Tay Jace hơi run khi gạt những sợi tóc lòa xòa trên trán theo một cách rất Jace.


Simon lắc đầu để xua ý nghĩ đó đi. Từ khi nào mà cậu biết Jace tới mức hiểu đâu là hành động rất Jace vậy? Họ còn chẳng phải bạn nữa là. “Trông anh khá tệ đấy,” cậu nói.


Jace chớp mắt. “Hình như giờ không phải lúc hay ho để khơi mào cuộc thi thóa mạ đâu, nhưng nếu cậu muốn, tôi có thể nghĩ ra cái gì đó hay ho đấy.”
“Không, tôi nói thật đấy. Trông anh không ổn.”


“Một lời nhận xét từ một gã chỉ có mức cuốn hút nữ giới ngang với một con chim cánh cụt. Nghe này, tôi nhận ra có thể cậu ghen tị vì Chúa trời đã không ban cho cậu vẻ đẹp mã như tôi, nhưng đó không phải lý do để -”


“Tôi không có ý xúc phạm anh,” Simon quát. “Ý tôi là trông anh như bị ốm ấy. Lần cuối anh bỏ gì đó vào bụng là khi nào?”
Jace ngẫm nghĩ. “Hôm qua thì phải?”
“Anh đã ăn gì đó hôm qua. Anh chắc không?”


Jace nhún vai. “Ờ, tôi không thề trên một chồng Kinh Thánh đâu. Nhưng tôi nghĩ là hôm qua thật.”


Simon đã kiểm tr.a tủ lạnh của Kyle khi xem xét nơi này, và ở đó cũng chẳng có gì nhiều. Một quả chanh héo khô héo quắt, vài lon xô đa, một pound thịt xay, và không thể hiểu nổi vì sao Kyle chỉ có một hộp Pop-Tart duy nhất trong tủ lạnh. Cậu lấy chìa khóa ở quầy bếp. “Đi nào,” cậu nói. “Có một siêu thị ở góc đường. Chúng ta sẽ mua cho anh ít đồ ăn.”


Jace hình như đang có hứng thú phản đối, nhưng sau rồi chỉ nhún vai. “Được,” anh nói, giọng của một người không quan tâm nhiều tới chuyện họ đi đâu hay sẽ làm gì ở đó. “Đi nào.”


Ra ngoài cửa tòa nhà, Simon loay hoay khóa cửa bằng những cái chìa mà giờ cậu vẫn chưa nhớ cái nào đi với ổ nào, trong khi Jace kiểm tr.a danh sách những cái tên bên cạnh chuông cửa của từng căn hộ. “Đó là phòng của cậu, đúng không?” anh hỏi và chỉ vào cái chuông phòng 3A. “Sao chỉ ‘Kyle’ thôi nhỉ? Anh ta không có họ à?”


“Kyle muốn trở thành một ngôi sao nhạc rock,” Simon nói và đi xuống bậc tam cấp. “Tôi nghĩ chắc anh ta thích có một cái tên cộc lốc. Như kiểu Rihanna ấy.”
Jace đi theo, vai hơi dồ lên dưới con gió lạnh, dù anh không hề có ý kéo khóa chiếc áo anh lấy từ chỗ Clary lúc trước. ‘Tôi chẳng hiểu cậu đang nói cái gì.”


“Tôi biết mà.”
Khi họ vào ở góc tường tới Đại lộ B, Simon liếc Jace. “Vậy,” cậu nói. “Anh theo dõi tôi đấy à? Hay chỉ là thật là tình cờ và thật là bất ngờ anh đang ở trên mái nhà tôi đi ngang qua lúc tôi bị tấn công?”


Jace dừng lại nơi góc tường, đợi đèn giao thông chuyển màu. Rõ ràng là Thợ Săn Bóng Tối vẫn phải tuân thủ luật lệ giao thông như thường. “Tôi đi theo cậu.”
“Giờ là đến phần anh nói anh yêu thầm tôi hả? Bùa chú ma cà rồng lại có tác dụng rồi.”


“Làm gì có cái gọi là bùa chú ma cà rồng chứ,” Jace nói, rõ ràng đang eo éo nhại lại lời nhận xét lúc trước của Clary. “Chính ra tôi đi theo Clary nhưng Clary lên taxi mà tôi thì không đuổi theo nổi. Thế là tôi quyết định đi theo cậu. Chủ yếu là để có việc mà làm.”


“Anh đi theo Clary?” Simon nhắc lại. “Có một kinh nghiệm anh nên biết này: hầu hết các cô gái không thích bị theo đuôi.”


“Clary bỏ quên điện thoại trong túi áo tôi,” Jace nói và vỗ vỗ túi áo bên trái, nơi, có thể, chiếc điện thoại đang yên vị, “Tôi nghĩ nếu biết nơi Clary tới, tôi có thể bỏ nó lại chỗ đó cho Clary.”


“Hoặc,” Simon nói, “anh có thể gọi tới nhà Clary và nói rằng anh cầm điện thoại bạn ấy, và bạn ấy nên tới lấy điện thoại.”


Jace chẳng nói chẳng rằng. Đèn đổi màu, và họ đi qua đường sang siêu thị C-Town. Nó vẫn mở cửa. Simon để ý thấy các siêu thị ở Manhattan chẳng bao giờ đóng cửa, và đó là cả một thay đổi hay ho so với Brooklyn. Manhattan chốn sinh sống tốt cho ma cà rồng. Bạn có thể nửa đêm đi ra ngoài mua đồ mà chẳng ai thấy đó là việc quái dị.


“Anh đang tránh mặt Clary,” Simon nhận xét. “Tôi không nghĩ anh muốn nói cho tôi lý do đâu nhỉ?”
“Không,” Jace nói. “Cứ coi là cậu may mắn khi tôi đã đi theo cậu, hoặc -”
“Hoặc sao? Một kẻ trấn lột nữa sẽ ch.ết à?” Simon nghe ra sự đắng nghét trong giọng cậu. “Anh thấy chuyện xảy ra rồi đấy.”


“Đúng. Và tôi thấy vẻ mặt cậu khi chuyện đó xảy ra.” Giọng Jace bình thường. “Đây không phải lần đầu tiên cậu thấy chuyện đó, đúng không?”


Simon kể cho Jace nghe về kẻ mặc bộ đồ gió đã tấn công cậu ở Williamburg, và sao cậu lại nghĩ hắn là một kẻ trấn lột. “Sau khi hắn ch.ết, hắn biến thành muối,” cậu kết thúc câu chuyện. “Gã thứ hai cũng vậy. Tôi đoán đây chính là điều được nhắc tới trong Kinh Thánh. Những cột muối. Như vợ của Lot[ ].”


[ ] Sáng thế ký 19 kể rằng một ngày nọ có hai thiên thần tới thành Sodom và được Lot mời ở lại qua đêm ở nhà ông. Sáng hôm sau thiên thần giục họ đi nhanh bỏ chạy trước khi Chúa trời giáng nạn xuống thành. Ông Lot cầu xin cho được sống ở một thị trấn gần đó(được biết tới là Zoar) và được chấp nhận. Khi ông Lot và gia đình bỏ chạy, bà vợ vì tiếc nuối cuộc sống sung túc ở nơi đó nên quay đầu nhìn và bị biến thành một cột muối.






Truyện liên quan