Chương 0 : Dẫn nhập: Phân tích Lĩnh Nam Chích Quái

V. Phân tích Lĩnh Nam Chích Quái.
A. Những truyện thần thoại:
Đây là những truyện như Hồng Bàng, Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh, Đổng Thiên Vương, Tản Viên.


Đầu tiên, ta thử phân tích truyện Hồng Bàng, Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh mà ta có thể mệnh danh là Bốn vĩ tích của Lạc Long Quân [29]. Lạc Long Quân tên là Sùng Lãm, con của Kinh Dương Vương, con cháu Thần Nông và Long Nữ, con gái của thần Động Đình Hồ.


Vĩ tích thứ nhất của Lạc Long Quân là triệt hạ Ngư Tinh. Ngư Tinh là một quái vật ăn thịt người; thân nó dài hơn năm mươi trượng, mặt như mặt người, chân giống như chân rết, biến hiện như gió bão. Dân chúng vô cùng kinh dị. Lạc Long Quân thương dân mới đóng một chiếc thuyền lớn chèo đến tận hang Ngư Tinh ở giữa biển Đông, rèn một khối sắt rồi bế một người lên giứ cho Ngư Tinh ăn; Ngư Tinh há miệng định nuốt mồi thì khối sắt nung đỏ đã được lao thẳng vào miệng. Cuộc thủy chiến giữa Lạc Long Quân và Ngư Tinh bùng nổ dữ dội. Được sự cộng tác của Thủy Dạ Xoa ngăn gió bão, Lạc Long Quân toàn thắng, đầu tiên chém được khúc đuôi của Ngư Tinh, sau chém được khúc đầu. Ngư Tinh chỉ còn một khúc giữa nổi lềnh bềnh trên mặt biển.


Vĩ tích thứ hai là diệt trừ Hồ Tinh chín đuôi. Con hồ này là một con yêu quái đã sống hơn một ngàn năm, chuyên môn dụ dỗ con trai con gái vào hang để làm gì không biết. Lạc Long Quân sai bộ hạ lái nước sông vào làm cho hang của hồ tinh bị ngập lụt trôi đi để lại một cái vực sâu nay gọi là Tây Hồ. Lạc Long Quân còn dùng bùa phép trấn yểm để cho hồ tinh không lai vãng đến được nữa.


Vĩ tích thứ ba của Lạc Long Quân là cộng tác với thân phụ là Kinh Dương Vương để sát hại Mộc Tinh. Mộc Tinh nguyên là cây chiên đàn sống hơn ngàn năm, thân cao nghìn tầng nên biến thành yêu tinh hay ăn thịt người, mỗi năm phải chọn một người cho nó ăn nó mới để cho dân chúng yên ổn. Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân thắng được yêu tinh nhưng cuộc giao chiến rất khủng khiếp; Mộc Tinh không bị giết mà chỉ thua chạy để rồi được nhân dân suy tụng là thần Xương Cuồng.


Vĩ tích thứ tư của Lạc Long Quân là bắt cóc nàng Âu Cơ, vợ yêu của Đế Lai. Đế Lai chống cự mãnh liệt nhưng Lạc Long Quân có sức mạnh quán thế lẽ nào lại chịu bó tay, nhất là khi Âu Cơ đã thỏa thuận chung sống với chàng. Đế Lai buồn bã trở về Bắc, sau bị hại vào tay Hoàng Đế.


available on google playdownload on app store


Truyện thần thoại thứ hai là truyện Đổng Thiên Vương tức truyện Thánh Gióng. Câu truyện xảy ra đời Hùng Vương thứ ba, tức là đời khuyết sử. Trong khi Hùng Vương đang lo âu vì bị Ân Vương đàn áp thì Long Quân xuất hiện báo trước sự giáng sinh của một kỳ nhi. Kỳ nhi giáng thế, ba năm qua rồi mà vẫn chưa biết nói; một hôm, một sứ giả đến làng Phù Đổng tức là làng của kỳ nhi và kỳ nhi bỗng biết nói; sau đấy, kỳ nhi lớn như thổi, cưỡi ngựa sắt xông ra mặt trận, gươm sắt của kỳ nhi vung lên làm cho lực lượng của Ân Vương tan tành. Nạn can qua chấm dứt, kỳ nhi cỡi ngựa bay thẳng lên trời, chỉ để lại cho thế gian một vết chân trên núi đá.


Truyện núi Tản Viên cũng là một truyện thần thoại rất lý thú. Thần Tản Viên hay là Tản Viên Sơn Đại Vương là một trong số năm mươi người con trai của Lạc Long Quân theo bố lên núi. Đại Vương từ phía cửa Thần Phù mà đi lên, thường thích dừng chân ở những nơi đồi núi để ngắm cảnh. Sau Đại Vương cùng với Thủy Tinh cùng đến hỏi Mỵ Nương; Vương được Mỵ Nương nhưng bị Thủy Tinh muôn đời căm thù, lúc nào cũng muốn làm cho hạnh phúc của Vương ngập lụt trong cơn phẫn nộ của chàng.


Như vậy, qua phần phân tích trên, ta thấy rằng truyện thần thoại trong Lĩnh Nam Chích Quái là những truyện giải thích nguồn gốc của dân tộc Việt Nam, biểu dương những công trình gian khổ của tổ tiên trong nỗ lực xây dựng đất nước, đề cao tính cách thần thánh của giống nòi. Ta không dám nói đó chỉ là những chuyện hoang đường, bởi vì truyện dù hoang đường đến đâu cũng chứa đựng một phần sự thực và truyện thực đến đâu cũng pha trộn đôi chút hoang đường. Tính cách nổi bật trong loại truyện này là thần lực đã giữ một vai trò chủ yếu, nhưng thần lực tán trợ cho nhân lực để cho nhân lực thực hiện được những vĩ tích siêu phàm. Các nhân vật trong truyện còn mang những kích thước kỳ dị của thời đại ban sơ; không khí còn thơm mùi đất mới; cả thế gian đang bừng nở trong ánh nắng buổi đầu.


B. Những truyện truyền thuyết:


Sau truyện thần thoại là truyện truyền thuyết. Truyện này không biểu dương năng lực của giống nòi trong quá khứ mà chỉ giải thích lý do của một phong tục, biện minh nguồn gốc của một hiện tượng lịch sử hay địa lý. Dĩ nhiên thời gian của câu truyện vẫn có thể là thời tiền sử như truyện Trầu Cau, Truyện Bánh Chưng, Dưa Hấu, hoặc trong những thời đại sau như trong truyện Kim Qui v. v.... Truyện thường được dựng trong khung cảnh của một di tích lịch sử mà ý nghĩa đã bị lớp bụi thời gian làm phai mờ; đó là truyện Kim Qui, một truyện truyền thuyết lịch sử; có khi truyện nhắc lại nguồn gốc sâu xa của một tập tục như truyện Trầu Cau, truyện Bánh Chưng và đó là những truyện truyền thuyết phong tục; ngoài ra, còn có những truyện truyền thuyết giải thích một hiện tượng địa lý, tỉ dụ truyện Dưa Hấu, truyện sông Tô Lịch.


1) Lịch sử:


Về loại truyền thuyết lịch sử, ta có thể kể truyện Kim Quy là một truyện điển hình. Truyện và lịch sử có thể xác nhận An Dương Vương không phải là một nhân vật hoang đường. Theo Giao Châu Ngoại Vực Ký [30] viết vào thế kỷ thứ 3 thì Triệu Đà "cử chúng công An Dương Vương", như vậy An Dương Vương thực sự là một nhân vật lịch sử, mặc dầu bị Maspéro phủ nhận [31]. Nhưng câu chuyện xảy ra giữa An Dương Vương và Triệu Đà đã được nhà viết truyện truyền thuyết sắp đặt lại. Mở đầu là dòng dõi của An Dương Vương và mối thù truyền kiếp của nhà vua với Hùng Vương mà duyên do cũng chỉ là một câu truyện tình. Sau đấy là những nỗi khó khăn của nhà vua khi xây thành, việc nhà vua gặp một ông già từ phương Tây đi đến báo cho nhà vua biết sự cộng tác của Sứ giả Thanh Giang tức thần Kim Qui. Thế rồi tác giả kể lại những phút sôi nổi khi thần Kim Qui đương đầu với chủ quán Ngộ Không là người đã dùng tà thuật để làm cho thành của An Dương Vương bị lay đổ. Ngộ Không thất bại, quỷ tinh tan rã, thành Cổ Loa được xây cất, nhưng lúc thần Kim Qui ra đi là lúc An Dương Vương gặp khó khăn với Triệu Đà. Triệu Đà không thắng được Vương vì Vương có nỏ thần của Kim Qui trao tặng. Một mưu nhỏ của Đà đã đủ làm cho Trọng Thủy là con thành phò mã và chính vì sự nhẹ dạ của Mỵ Nương mà Trọng Thủy biết được bí quyết của Vương và làm cho Vương thất bại. Trên đường đi tìm thần Kim Qui, Vương đã giết Mỵ Nương; Trọng Thủy tìm đến với nàng thì chỉ còn ôm ấp một thây ma đã lạnh ngắt. Thành Cổ Loa vẫn còn đấy cùng với giếng Trọng Thủy, cách Hà Nội 17 cây số về phía Đông quan lộ số 3, ở giới hạn hai tỉnh Bắc Ninh và Phúc Yên. Câu truyện có lẽ chỉ có một phần nào đúng sự thực, và khung cảnh sẵn có của thành Cổ Loa chắc đã cung cấp nhiều tài liệu cho nhà làm truyện vốn giàu tưởng tượng sáng tạo. Nhà viết truyện truyền thuyết chỉ cần một di tích lịch sử đã đủ xây dựng nên cốt truyện. Cái tài của ông là tìm cho những thành phần của di tích lịch sử ấy một sự liên lạc hợp lý. Sự liên lạc hợp lý ấy đã có trong truyện Kim Qui.


2) Phong tục:
Về loại phong tục, ta có thể kể hai truyện điển hình là truyện Trầu Cau và truyện Bánh Chưng.


Truyện Trầu Cau giải thích tục lệ ăn trầu và cưới xin của ta. Đó là truyện của hai người anh em ruột là Cao Tân và Cao Lang đang ở thuận hòa với nhau thì bỗng nhiên một người con gái đến làm cho hạnh phúc của họ tan vỡ. Người em buồn bã đi lang thang rồi ch.ết hóa thành cây; người anh về sau cũng ch.ết hóa thành một tảng đá; người vợ thương chồng đi tìm cũng lại ch.ết hóa thành cây trầu. Sau đấy Hùng Vương biết truyện và tình cờ khám phá ra cái thú ăn cau trầu. Đó là một cách bóng bẩy để nói đến căn bản của hôn nhân Việt Nam là ái tình.


Truyện Bánh Chưng kể lại sự quý trọng của người Việt Nam đối với bánh dày và bánh chưng. Nguồn gốc của hai thứ bánh ấy có tính cách thần thánh vì chính thần thánh đã báo mộng cho Lang Liệu biết cách làm bánh. Bánh dày hình tròn là hình trời; bánh chưng hình vuông là hình của đất, nhân là chất làm cho trời đất có liên hệ và do đấy có sinh sản.


Hai truyện này được xếp vào loại truyền thuyết vì tính cách giải thích của truyện quá rõ rệt; lời giải thích rất khách quan và có cứ điểm trong thực tại. Có lẽ ý định giáo huấn cũng cảm thấy thấp thoáng sau khung của câu truyện, nhưng ý định ấy chỉ gián tiếp và hoàn toàn phụ thuộc. Bởi vậy, ta không xếp những truyện này vào loại cổ tích bởi vì cổ tích bao giờ cũng chứa đựng một ý hướng giáo huấn.


3) Địa lý:
Truyện truyền thuyết còn có một tính cách là giải thích một hiện tượng địa lý. Trong Lĩnh Nam Chích Quái, hiện tượng đó là sự sản xuất dưa hấu của ta và lịch sử sông Tô Lịch.


Tại sao ta chú ý đến việc trồng tỉa dưa hấu? Nhà viết truyện truyền thuyết giải thích cho ta hiểu nguồn gốc của cây dưa hấu ở nước ta. Đây cũng là một nguồn gốc thần thánh vì chính chim - sứ giả của trời - đã mang hạt dưa đến cho An Tiêm lấy giống. An Tiêm đã tin ở trời; vì lòng tin ấy mà An Tiêm bị Hùng Vương nghi kỵ rồi đẩy ra một hòn đảo hoang vắng; bị đầy ải, An Tiêm vẫn tin ở trời, và tin ở cần lao. Trời đã cảm động trước cuộc đời nhẫn nại ấy và đã sai chim mang hạt dưa đến. Nhờ dưa, An Tiêm đã sống sung túc và làm hòa được với Hùng Vương.


Ngoài ra, ta còn có sự tích sông Tô Lịch kể trong truyện Nam Chiếu. Tô Lịch là tên một vị thần tóc trắng xóa mà Cao Biền thường thấy xuất hiện ở một phụ lưu của sông Cái; sau đấy, Biền lấy tên của thần để đặt cho tên sông. Đó là sông Tô Lịch.


Những truyện này là những giai thoại liên can đến lịch sử, phong tục hay địa lý. Những giai thoại này không được chính sử nhắc đến nhưng chúng rất ích lợi để cho ta hiểu rõ bộ mặt sau của sử học, địa lý và phong tục học.
C. Những truyện cổ tích:


Trong khi truyện thần thoại nói về thần thánh thì truyện cổ tích nói về người với một mục đích ám tàng hay hiển thị là giáo huấn người ấy theo tinh thần của câu truyện đã xảy ra ngày xưa, bởi vậy, truyện cổ tích thường có tính cách luân lý. Trong Lĩnh Nam Chích Quái, ta có thể phân biệt nhiều loại cổ tích.


1) Lịch sử:


Đầu tiên là loại cổ tích lịch sử đề cập đến một nhân vật lịch sử như Lý Ông Trọng, sau đấy cường điệu nhân vật ấy bằng những nét mạnh bạo hơn cốt nhấn mạnh vào một ưu điểm nào như truyện Không Lộ, Giác Hải, hoặc tô điểm cho truyện thêm những nét kỳ dị khác thường, tỉ dụ truyện Từ Đạo Hạnh và Minh Không.


Truyện Lý Ông Trọng xảy ra cuối đời Hùng Vương, qua An Dương Vương, Tần Thủy Hoàng. Lý Ông Trọng tên thực là Lý Thân, thân cao hai trượng ba thước, cống hiến sang Tần Thủy Hoàng được trọng dụng và trở thành một sự sợ hãi cho Hung Nô; ngay sau khi đã ch.ết mà Lý Thân vẫn đủ uy lực làm cho Hung Nô khiếp đảm và dân Trung Hoa thờ phụng. Truyện cổ tích này có mục đích nêu lên những cái hùng mạnh của dân Việt để tiêu trừ tinh thần tự ti mặc cảm của người mình đối với Bắc phương.


Truyện Không Lộ và Giác Hải kể lại tiểu sử của hai vị thiền sư danh tiếng đời Lý cốt đề cao cuộc đời tu hành khổ hạnh của hai ngài, trình bày một tấm gương sáng về đạo đức cho người đời noi theo.


Truyện Từ Đạo Hạnh và Minh Không cũng vậy, nhưng nhiều chi tiết ly kỳ đã được thêm thắt ra để cho đời sống của hai vị ấy có một màu sắc đặc biệt hấp dẫn.
2) Thế sự:


Loại cổ tích thế sự trình bày những bức tranh tả chân về người đời, lột trần những hành vi xấu xa giả dối của họ, tố cáo những cảnh bất công ngang trái của đời người.


Truyện Man Nương đưa ra ánh sáng đời sống mâu thuẫn của một tăng già, một đàng chăm chỉ tụng niệm, một đàng lại phạm những tội ác ghê tởm sau khi đã xâm phạm tiết hạnh của một người con gái trong chùa tên là Man Nương.


Truyện Hà Ô Lôi phản ảnh những nếp sống hư đốn đời Trần Dụ Tôn, tố cáo cuộc sống bê tha trụy lạc của các bậc vua chúa ngày xưa, sự ɖâʍ ô của họ không kiêng nể một ai và sẵn sàng bênh vực cho tội lỗi. Cảnh sống giả dối của các bà góa cũng được phơi bày bằng những nét thô bạo. Cả một xã hội suy tàn được trưng ra với tất cả những cái xấu xa bỉ ổi. Kết luận của câu truyện là một con người say mê thanh sắc như Hà Ô Lôi đã bị đền tội một cách xứng đáng. Xã hội đã phỉ nhổ con người điếm đàng ấy. Giọng ca ɖâʍ dật của nó không làm cho phong tục dịu dàng hơn mà chỉ gây ra những cảnh náo nức dục tình.


Nhưng thế sự không phải chỉ có những cảnh bế tắc bi đát. Truyện Việt Tỉnh cho ta hiểu rằng cái thiện sẽ thắng thế gian, đạo đức bao giờ cũng được trọng thưởng bằng một đời sống đầy đủ về sau. Thôi Vỹ nhờ công đức của cha mẹ cũng như của chính mình đã được Ân Vương muôn đời hàm ân và tưởng lệ.


3) Tình cảm:


Sau cùng, truyện cổ tích còn mang những màu sắc tình cảm rất đậm đà. Đàm Nhất Dạ là khung cảnh của một truyện tình thi vị như ca dao giữa một công chúa trẻ đẹp và một bác dân quê chài lưới nghèo nàn. Nhưng công chúa đã gặp chàng đánh cá trong một trường hợp hết sức tiền định. Công chúa tưởng rằng sẽ mãi mãi không lập gia đình đã trở về với tình yêu. Họ đã sống với nhau những ngày chứa chan hạnh phúc, trong một tình yêu trong sáng, một tín ngưỡng vững vàng và một tinh thần lao động rất đáng khen. Truyện Đầm Nhất Dạ đã đưa ra một mô hình về tình yêu chân chính trong tự do.


__
29. Ta liên tưởng đến Les sept travaux du roi Hercule trong thần thoại La-Hy.
30. Quyển 37, tờ 4 b, cột 8-12, theo dẫn chứng của René Despierres trong Cổ Loa, Capitale du Royaume Âu Lạc, trang 22.
31. Xem Thông Báo, quyển 23 (1924), trang 373-393.






Truyện liên quan