Chương 5: RA QUY NHƠN



“Hoà tan vậy là được rồi, đem tro tảo biển bỏ vào ngâm, đợi nó lắng lại, sau đó dẫn qua cái bình ta mới thiết kế này để lọc, cuối cùng nấu lên…”


Trần Minh đang hướng dẫn người hầu lọc muối thô thành muối tinh như thế kỷ 21.


Lý lão và Trần Tùng kế bên nhìn thành phẩm sau khi Trần Minh tự nấu muối hồi nãy, hai người sờ, bóp, và nắn những hạt muối, mịn màng như cát, và trắng như bột mì.


Sau đó hai người nhìn nhau, người nào người nấy ánh mắt hưng phấn không thôi.
“Nhớ dẫn cái ống xả nhiệt từ lò xi-măng và lò sắt để sấy khô muối cho tiết kiệm thời gian.


Có nhiệt không xài để đó bay hơi cũng lãng phí, đó là lý do ta muốn mở phòng nấu muối kế bên xưởng rèn là vậy đấy.”


Trần Minh hướng dẫn từng bước, sau đó giải thích cặn kẽ từng chi tiết cho các gia đinh người hầu Trần thị.
“Tùng thúc, đợi chúng ta nấu được vài trăm cân muối rồi đem ra Quy Nhơn bán luôn một lần.


Lý lão, mấy hôm nay sản lượng thép thế nào rồi?”
Trần Minh quay qua nhìn hai người đang chơi với mấy bao muối hồi nãy nấu, bất đắc dĩ lắc đầu nói.


“Thiếu gia, mười mấy ngày hôm nay, sản lượng thép của Trần thị chúng ta sản xuất đã vượt tổng sản lượng của cả Đại Nam mười mấy năm nay.


Lần này đi, phải mướn thêm hai mươi mấy chiếc xe bò mới kéo hết ra Quy Nhơn bán được.
Với lại chúng ta hết quặng rồi, không mua thêm về, không nấu được nữa.”
Lý lão tính toán rồi trả lời Trần Minh.


Trần Tùng đứng kế bên nghe Lý lão nói cũng giật mình, chen vào hỏi:
“Nhiều như vậy sao?
Chúng ta tiêu thụ một lần số lượng khổng lồ như thế sợ không ổn lắm.


Ta đề nghị lần này ra Quy Nhơn chỉ lấy tầm ba bốn thành đi bán, số còn lại đợi bắt được mối làm ăn thương hội ngoài Quy Nhơn, bảo họ tự lại Trần gia chúng ta lấy.”
Trần Minh nghe Trần Tùng nói vậy bèn trả lời ngay:


“Ta đồng ý với ý kiến của Tùng thúc, nhưng bổ sung thêm — chỉ bán phân nửa thôi.
Nửa còn lại ta có chỗ dùng, mọi người đừng hỏi, mai này sẽ biết.


Với lại bán phân nửa, đã đủ bổ túc chi tiêu do xây lò mới mấy ngày nay rồi.”
Tất nhiên là phải để phân nửa lại, còn đúc súng và đúc pháo nữa.
Tây Sơn sắp đánh Quy Nhơn rồi.


Vào Quy Nhơn sắp tới, mua bán chỉ là phụ, mục đích chính của Trần Minh là liên lạc với Tây Sơn.
Lý lão nói:
“Theo tiến độ này, vài ngày nữa mấy trăm cân muối sẽ không khó.


Lúc đi nhớ để Khang lão gia ở lại nhà trông coi nhà cửa.
Phu nhân cùng cô gia vào Nam chưa về, không ai ở nhà trông coi hết.”
Trần Minh nghe Lý lão nói, hắn cũng quên bén luôn đại cô và dượng của mình.


Thật nhớ hai người đó quá.
Còn có Ngọ thúc nữa — quản gia Trần Ngọ, chăm Trần Minh như con ruột.
Từ tình cảm Trần Minh có thể thấy, hắn vốn là người của thời đại này.


Do ở tương lai quá lâu, nên vẫn chưa tiếp nhận được.
Hắn đôi khi biết, nhưng trong vô thức vẫn cho mình là người xuyên không, chiếm lấy thân thể xa lạ.
Nhưng thực chất đây là cơ thể của hắn.


Có lẽ việc linh hồn đi tới tương lai mới thực sự là xuyên không, chỉ có điều không mang theo ký ức của Trần Minh thế kỷ 18 mà thôi.
“Ngươi để lại phân nửa số sắt thép là tính làm gì?


Đừng có mà dại dột làm bậy bạ đấy nhé.
Trần thị bây giờ tuy to nhưng cũng mỏng manh lắm, gánh không nổi cho ngươi chơi đùa đâu.”
Trần Tùng lo lắng nói.
Trần Minh nghe vậy vội giảo biện:


“Thúc yên tâm đi, ta không có ngu đâu.
Nhà còn bao việc, mà sẵn lần này đi ra Quy Nhơn, ngoài nguyên liệu, ta tính mua thêm súng hoả mai.
Lúc này giặc cỏ hoành hành, chúng ta nên phòng bị trước.”


Mới vừa nói xong, thằng nhóc này lại đòi mua súng hoả mai.
Con mẹ nó, thằng nhóc khốn khiếp này sinh ra là để làm trái ý mình.
Trần Tùng trán nổi gân xanh, nhìn là biết sắp bão nổi.


Trần Minh thấy vậy, do thói quen sinh tồn trong nhà này, hắn vội chạy trước.
Ở lại chắc chắn sẽ bị ẩu đả ngay.


Nhắc tới vũ khí, trên đường về, Trần Minh ghé vào khố phòng — nơi cất giữ trang bị vũ khí của quân hộ viện Trần thị.
Đại Nam thế kỷ 18 cũng giống như thế kỷ 21: cất giấu, chế tạo vũ khí riêng là phạm pháp.


Chỉ có điều, Đại Nam thế kỷ 18 khác biệt là pháp luật lỏng lẻo hơn.
Miễn sao đừng để cho quan phủ biết, còn lại muốn làm gì thì làm.
Thậm chí, có dù có biết, hối lộ vài lượng bạc là xong.


Trong khố phòng, bên ngoài các giá vũ khí đao kiếm đặt ngăn nắp.
Phía sâu trong cùng là nơi đặt những khẩu hoả mai, và những loại pháo phật lăng cơ nhỏ.


Nhìn những khẩu hoả mai của Bồ Đào Nha thế kỷ 16 — nòng súng lớn nhỏ khác biệt, pháo thì rỉ sét — Trần Minh đen mặt muốn chửi thề.
“Đây là kho vũ khí đào thải thì đúng hơn.


Nhìn mấy cây súng này, thậm chí cả pháo, bắn được hay không là cả một vấn đề.
Cũng may mình nhanh trí cải tiến công nghệ nấu thép.


Nếu mà ngoài Quy Nhơn mấy thương hội bán đồ dỏm kiểu này, thà không mua thì hơn.”
Trần Minh nói thầm trong bụng.
Hắn nghiên cứu mấy khẩu súng và đếm số lượng — súng hai trăm khẩu, pháo mười khẩu.


Súng này cần phải xài máy tiện, tiện lại nòng súng và cải tiến.
Pháo thì phải gắn thêm lò xo chống giật, gắn thêm ổ trục điều chỉnh hướng, sau đó cài thước ngắm.


Rồi còn phải biên soạn sách hướng dẫn đo và ngắm bắn cho pháo binh học.
Trần Minh thầm than — có lẽ là trong ý trời có định số.


Tương lai hắn tham gia nhiều câu lạc bộ, bây giờ lại có đất dụng võ cho những thứ vớ vẩn hắn học trong tương lai.

10 ngày sau.


Trên con đường thương đạo nối từ huyện Nhai ra thành Quy Nhơn, trời vừa hửng nắng sau cơn mưa nhẹ.
Tiếng lộc cộc của xe bò hòa với tiếng hô kéo hàng, tiếng trâu rống, tiếng quạ kêu lạc giữa bầu trời xanh.


Hai bên đường là những dãy đồi thấp, xen kẽ ruộng muối và cánh đồng lúa non.
Gió từ biển thổi vào mang theo hơi muối mằn mặn, khiến cả đoàn người đi đường vừa mệt vừa thấy… đói.


Đoàn xe của gia tộc họ Trần kéo dài hơn một dặm — hơn hai mươi cỗ xe bò lớn nhỏ, chở muối, sắt, gạo, và hàng dệt.


Đi kèm là năm chục hộ viện binh sĩ, áo vải nâu, mang giáo dài, lưng đeo gươm, đi bộ theo đội hình nghiêm chỉnh.
Trần Minh ngồi trong chiếc xe thứ ba, mái phủ bằng vải dầu, xóc nảy liên tục theo ổ gà trên đường.


Hắn ngửa mặt lên trời, chán nản:
“Lạy trời, sao thời này chưa phát minh ra giảm xóc hay lò xo xe…
Nếu không, cột sống ta thành tro mất.”


Trước mặt hắn là Trần Tùng — người chú ruột, trung niên hơn bốn mươi, da rám nắng, râu tỉa gọn, ánh mắt sắc sảo như chim ưng.
Trần Tùng vừa cầm cương xe, vừa lèm bèm như cái mõ gõ suốt dọc đường.


“Minh à, con vô thành nhớ giữ ý tứ.
Con là thiếu tộc trưởng, là cháu đích tôn họ Trần – danh môn của miền Trung này.
Khi nói chuyện phải biết trên biết dưới, gặp quan thương hay dân buôn đều phải có khí độ.


Con mà làm bậy, thiên hạ cười cả họ.”
Trần Minh nằm dài ra, uể oải:
“Vâng, con biết rồi, thúc cứ yên tâm.
Con vô thành đâu có định gây chuyện.”
“Còn nữa,” – Trần Tùng vẫn không tha –


“đừng nghe lời xúi bậy của đám Tây Sơn.
Bọn đó là giặc phản loạn, theo chúng thì chỉ có đường vào tù.
Sau này, thúc bá già rồi, sản nghiệp cũng về tay con.


Con là cháu đích tôn, phải giữ lấy họ Trần, hiểu chưa?”
Trần Minh nghe mà muốn đập đầu vào thùng xe.
“Xe xóc đã mệt, giờ còn xóc bằng lời.”
Hắn quay sang, nheo mắt:
“Thúc ơi, con biết rồi.


Nếu con có ủng hộ Tây Sơn thì con ủng hộ âm thầm thôi, mọi người không biết đâu.”
Câu nói vừa ra khỏi miệng, Trần Tùng giật dây cương đánh ‘chát’ vào lưng bò.


Xe dừng khựng lại, mắt ông trợn tròn như hai hòn bi ve.
“Ngươi nói cái gì?
Nói lại cho ta nghe xem!”
Trần Minh biết đã lỡ lời, nhưng nghĩ lại — thôi thì nói thật luôn.


Tối qua hắn đã suy nghĩ, muốn trợ Tây Sơn, không thể giấu người nhà.
Sau đó hắn có ý tưởng — lừa dối trước, đợi cả nhà lên thuyền Tây Sơn hết, thì không có đường hối hận nữa.


Vì thế, Trần Minh nói:
“Thúc có biết Đạo sinh tồn không?”
“Hả? Đạo gì?” – Trần Tùng cau mày.
Hắn vừa ngáp vừa nói, giọng như giáo sư giảng bài:


“Thế gia môn phiệt tồn tại cả nghìn năm nay, nhưng triều đại thì thay liên tục.
Vì sao?
Vì bọn họ biết đạo sinh tồn – dựa thế mà đi, dựa thời mà tới.
Khi triều đình mạnh, họ phò vua.


Khi triều đình suy, họ phò người mới.
Không ai ngu trung đến ch.ết, cũng không ai trung gian tới khô máu.”
Trần Tùng chau mày, định quát, nhưng nghe đến giữa câu lại im.


Trần Minh nói tiếp, giọng càng lúc càng trơn tru, nghe vừa giống nhà hiền triết vừa như thương nhân:
“Chúng ta thu thuế đất Chúa Nguyễn, tất nhiên phải ủng hộ Chúa.


Nhưng khi thấy Chúa đang yếu, mà vẫn ôm chân họ, chẳng khác gì trói mình ch.ết chung.
Thay vì thế, ta vẫn ủng hộ Chúa Nguyễn ngoài mặt, nhưng ngầm giúp Tây Sơn – đặt cược hai đầu.
Ai thắng, ta cũng sống.


Đó gọi là đạo sinh tồn.”
Trần Tùng trố mắt nhìn, không biết nên mắng hay nên nể.
Trong thâm ông ta tự biết Chúa yếu thần mạnh, Trương Phúc Nguyên đang nắm quyền nên khi nghe Trần Minh nói vậy ông hoang mang lắm.


Thằng cháu này mấy tháng trước còn ham chơi, nay nói chuyện nghe như lão già từng trải.
“Thúc nghĩ đi,” – Trần Minh nói tiếp, giọng nhẹ hơn –
“Bây giờ dân Bình Định đang khổ, Chúa Nguyễn không lo được dân.


Tây Sơn khởi nghĩa, dân gọi họ là anh hùng, quan gọi họ là giặc.
Nhưng thử hỏi, giặc mà được dân nuôi cơm thì có còn là giặc không?


Hơn nữa quan trọng nhất, Tây Sơn bây giờ đã ăn gần hết Bình Định rồi, còn mỗi cái Quy Nhơn.
Chúng ta phải lo tính cho tương lai đã.


Bây giờ ta tìm họ trước, thì chi phí nó chắc chắn sẽ ít hơn, khi Tây Sơn tìm đến ta.
Nếu ta vừa phò Chúa, vừa ngầm ủng hộ Tây Sơn, thì bên nào thắng, họ Trần ta vẫn đứng yên trên đất này.”


Tiếng lộc cộc của xe bò hòa vào tiếng gió lùa qua đồng ruộng, kéo dài như một bản nhạc buồn.
Trần Tùng im lặng rất lâu.
Ông là người từng trải, buôn bán khắp nơi, biết rõ thế nào là nước chảy chỗ trũng.


Lời Trần Minh nói tuy nghịch tai, nhưng… không sai.
“Dựa thế mà đi, dựa thời mà tới…” – ông lẩm bẩm lại câu đó, ánh mắt dần đổi khác.
Trần Minh thấy thế, trong lòng mừng thầm, bèn tiếp tục “chốt đơn”:


“Thúc, đừng trông mong Quy Nhơn thủ được.
Đám tàn binh già yếu ở Quy Nhơn suốt ngày chỉ có ức hϊế͙p͙ bách tính là giỏi.
Tây Sơn vừa tới, không chịu nổi một đòn đâu.


Lúc họ lấy được Quy Nhơn, cũng là lúc họ tìm đến chúng ta.
Ở Bình Định này, thế gia đại tộc lớn ngoài Võ thị, Châu thị, thì là Trần thị chúng ta.
Lúc đó chỉ có hai con đường:


Một là phục tùng – khi đó là máu chảy đầu rơi, cắt da cắt thịt, của đi thay người.
Hai là ôm đùi Chúa Nguyễn tới cùng, thề ch.ết đi theo.


Thúc hãy xác định rõ, Chúa Nguyễn cụ thể là Trương Phúc Nguyên – tự thân khó đảm bảo, chúng ta là cái thá gì.”
Trần Tùng vẫn không nói gì.
Hắn cười khẽ:


“Thúc à, người thông minh không chọn đúng hay sai – mà chọn sống được.
Đó mới là đạo tồn tại.”
Xe tiếp tục lăn bánh.
Trần Tùng im lặng, mắt nhìn về xa xăm.


Trong đầu ông hiện lên những năm tháng làm ăn, những thương vụ thua lỗ vì tin nhầm người, những lần thoát ch.ết nhờ đổi phe kịp thời.
“Thằng cháu này nói không sai.
Đạo sinh tồn… quả là chân lý.”


Ông hít một hơi dài, thầm nghĩ:
“Thằng nhỏ này từ sau khi ngã ngựa đầu óc nó bị té thông minh lên hay sao ấy.
Lúc nhỏ thì thích tìm tòi mới lạ, thử nghiệm vớ vẩn làm cả nhà rối tinh rối mù.


Đến khi cha nó mất, chưa bao giờ nói được câu ra hồn.
Vậy mà nay nói như quan đại thần.”
Nhưng cũng chính vì thế, ông thấy lo.
“Nó thông minh, nhưng nguy hiểm.
Lời nó mà ra ngoài, cả họ bị giết mất.”


Trần Tùng liếc sang cháu, giọng thấp:
“Minh à, lời hôm nay thúc coi như chưa nghe.


Nhưng… nếu con làm được như lời con nói, nếu con có thể vừa phò Chúa vừa giữ được Tây Sơn, thì họ Trần ta… không chỉ tồn tại, mà còn lớn mạnh.”
Trần Minh cười nhạt, ngả người ra sau:


“Con đâu dám hứa gì.
Con chỉ làm điều cần làm thôi.
Ai thắng thì chúc mừng, ai thua thì cầu siêu.”
Trần Tùng bật cười:
“Mày đúng là dòng máu họ Trần – vừa liều vừa lắm mồm.”


Thành Quy Nhơn – khói bụi và ánh vàng
Trời đã ngả chiều.


Sau một ngày đi đường, thành Quy Nhơn hiện ra ở phía xa – những bức tường đá rêu phong, mái ngói đỏ xếp tầng, khói bếp bay mờ mịt trên các con phố chợ.


Tiếng rao hàng, tiếng lũ trẻ chạy chơi, tiếng gà vịt lẫn lộn, tạo nên một bức tranh sống động.
Đoàn xe họ Trần dừng lại trước quán trọ “Lưu Vân điếm”, nơi các thương đoàn thường nghỉ chân.


Trần Tùng nhảy xuống xe, vươn vai, nói lớn:
“Thúc gửi hàng hoá ở đây, sáng mai mới vào thương hội.
Ngươi có đi chơi nhớ về sớm, mai thúc dắt ngươi đi cho mở mang tầm nhìn.”


Trần Minh cười, nói Trần Tùng yên tâm, sau đó nghiên cứu xem ở Quy Nhơn chỗ nào hấp dẫn.
Trần Tùng gật đầu, xong quay lưng bước đi, miệng lẩm bẩm:
“Làm việc cả ngày, giờ cũng phải giải mệt chút.”


Nói đoạn, ông thẳng tiến về Tửu Y Phường – nơi tụ tập của thương nhân và ca nữ.
Trong đầu ông chỉ còn nghĩ tới rượu ngon và… vài “em yêu” mát tay đấm bóp.


“Đạo sinh tồn của ta bây giờ,” – ông cười thầm – “chính là sống vui từng ngày trước đã.”






Truyện liên quan