Chương 29: RƯỢU, SẮT GIỮA TRỜI GIÓ LẠNH



Trưa hôm đó, sau khi sắp đặt xong chỗ ở cho cha con Châu thị, Trần Minh lui ra mà không gặp phụ thân Châu Ngọc Chi, theo nàng nói, đợi phụ thân nàng quen chỗ nghỉ ngơi lấy lại sức sẽ gặp hắn.


Trần Minh cười không nói gì, dắt Ngọc Chi về trạch viện Đại Cô chào hỏi, để phụ thân nàng nghỉ ngơi, căn dặn người hầu chăm sóc cho phụ thân nàng.


Sắp xếp xong hết thảy, hắn hóa làm hướng dẫn viên du lịch dắt hai sĩ phu Bắc Hà đi tham quan khu công nghiệp thế kỷ mười tám của Trần thị. Phan Huy Dịch và Đặng Trần Tường hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác.


Nhìn từng máy kéo sợi Jenny, cùng với máy dệt tự động chạy nhịp nhàng, ống quấn sợi bông xoay tròn liên tục, cùng những nữ công nhân vừa công tác vừa nói chuyện, Trần Minh giới thiệu về tiền lương ăn ở của công nhân ở đây, làm hai người ngạc nhiên không thôi.


Hắn dắt hai người tham quan xưởng luyện kim, trừ xưởng tiện và đúc súng pháo — hắn thừa biết hai người vào đây có mục đích nhưng chả quan tâm.


Lò luyện kim kiểu Bessemer, hắn gọi vui là “lò thổi thở ra sắt.” Xi măng vôi thủy lực do chính hắn khuấy, mẻ đầu tiên nổ như pháo Tết, mẻ thứ hai mới đông. Khí nén thì nồi hơi phụ trách, vừa sôi vừa khè như con rồng say rượu. Thứ lò sơ khai ấy không tinh, nhưng lấy mười cái bù một cái khéo — đến nay hắn đã đốt gần hết vốn liếng mà vẫn cười hề hề.


Tuy lượng sản được ba trăm tấn thép mỗi tháng, nhưng Trần Minh vẫn đang phát sầu vì sản lượng này vẫn còn quá chậm. Tương lai nào vũ khí, nào tàu bọc thép, cuối cùng là… đường sắt.


Tham vọng của Trần Minh chỉ có Trần Minh mới biết. Người ngoài nhìn vào cứ nghĩ hắn đang kiếm tiền, nhưng thực chất là bố cục mưu đồ cả Đại Nam.


Sau khi kết thúc chuyến tham quan ở xưởng rượu, hắn dắt hai người ra chỗ bàn đá ngoài phòng thí nghiệm uống trà. Hắn hỏi cảm nghĩ hai người thế nào, chỉ nghe Phan Huy Dịch hỏi hắn:
“Trần tộc trưởng nghĩ gì về Chúa Trịnh?”


“Sắp tàn, thế gia đại tộc xung quanh Bắc Hà đã bão hòa, nếu không diệt bớt, Chúa Trịnh chưa cần Đàng Trong ra tay cũng tự vong.” — Trần Minh khoanh tay, ngẩng mặt lên trời hồn nhiên trả lời.


Chỉ nghe Đặng Trần Tường nheo mắt nhìn hắn nói:
“Bậy bạ, thế gia thì liên quan gì Chúa Trịnh?”


Trần Minh nhìn Đặng Trần Tường như đồ đần. Hắn hiểu vì sao Ngô Thì Nhiệm hay trào phúng Trần Tường, tên này chiến lược mưu lược, không thua ai, nhưng tích luỹ chưa dày, chắc thường xuyên bị bỏ ngồi bàn giấy ở kinh thành, ôm bổng lộc nhìn thiên hạ.


Cũng phải — dù sao hai thanh niên này vẫn trẻ, một người thì hơn Trần Minh vài tuổi, người còn lại hai mươi bảy – hai mươi tám, hai người làm gì cáo như mấy lão già trong triều đình được.


“Huynh nên về Bắc Hà mà đi tham quan hơn là vào Đàng Trong do thám cho Chúa Trịnh, sẽ có ích hơn đấy. Huynh có biết mỗi tá điền nộp thuế, thuế đó gồm hàng trăm loại thuế đẩy lên lưng tá điền, nhưng tới tay triều đình vẫn chỉ có vài loại thuế chưa đếm đủ đầu ngón tay.


Số thuế còn lại vào đâu ta lười nói, huynh ra ngoại ô Thăng Long một trăm – hai trăm dặm là biết ngay.” — Trần Minh ngáp ngáp nói.
Phan Huy Dịch gật đầu với Đặng Trần Tường, nhìn hắn như nói: “Không sai.”


Đơn giản vì Phan Huy Dịch thường xuyên theo quan lớn xuống huyện đi kinh lý mới biết. Chính vì vậy, hắn nhìn Trần Minh càng khiếp sợ nghĩ:


“Kẻ này ở Đàng Trong mà rõ nội tình Đàng Ngoài trong tầm tay. Xem ra nhiệm vụ kỳ này khó.”
Trần Minh nếu nghe được suy nghĩ Phan Huy Dịch, sẽ nói:
“Không cần ra đàng ngoài, đàng trong này cũng không hiếm.


Chừng nào còn dùng Nho giáo cai trị, quyền tuyển bạt quan lại,
quyền nói chuyện triều chính vẫn còn nằm trong tay sĩ phu, thế gia đại tộc,
thì triều đại nào cũng vậy thôi.”


Trần Minh lười đôi co với hai người, nói thẳng:
“Hai huynh đừng nói mấy lời sáo rỗng như phò tá Chúa này nọ.
Thuyền Chúa to lắm, ta sợ trúng gió, không dám lên.
Còn về kỹ nghệ công nghiệp,


ta có cho Chúa, cũng sẽ bị đám quan lại bán lại cho thế gia đại tộc.
Đám quan lại cũng từ thế gia ấy mà ra, hàn môn sĩ tử được bao nhiêu.
Nhà ta gánh nhỏ, các huynh tha cho nhà ta đi.
Mấy huynh cũng thấy rồi đó,


nhà ta không bóc lột ai,
ta lại thanh cao lại sĩ diện hão,
không dám đi bắt chẹt nông dân,
chỉ dám tự mình làm ra đồ đem bán nuôi sống cả nhà.
Nếu mà làm theo mấy huynh qua phò Chúa,


lại quay về cảnh bóc lột bá tánh,
ta sợ ngày sau con cháu nó không dám đốt nhang cho ta.”


Lời Trần Minh nói tuy có vẻ dân dã, nhưng rơi vào tai hai người sĩ phu Bắc Hà — những người tôn thờ “Trung Quân Ái Quốc” — giống như từng tiếng búa tạ đập vỡ cái mà họ học cả đời.


Phan Huy Dịch là người theo đạo nhưng biết tùy cơ ứng biến, nói chính xác hơn là biết thời thế.
Chỉ có Đặng Trần Tường, tuy thông minh, nhưng lại là một cây sồi thối, mang theo bảo thủ cố chấp của Nho gia.


“Chúng ta uống rượu đi, hôm qua chưa được say với hai huynh, ta chưa tận hứng.”
— Trần Minh thấy hai người mặt xanh mét liền nói, mắc công hai người này thẹn quá thành giận bay vào ẩu đả hắn thì không hay lắm.


Hắn bèn gọi người giúp việc dọn trà, bưng rượu và đồ nhắm.
Hắn bảo người giúp việc nấu rượu cho nóng, uống cho phong cách Tam Quốc.


“Xưa có Tào Tháo nấu rượu luận anh hùng, nay có ta Trần Minh cũng nấu rượu, nhưng nặn anh hùng.”
Trần Minh giơ chén cụng rồi cạn trước, hắn chặc lưỡi hỏi:
“Trong thiên hạ hiện nay ai mới là anh hùng?”


Hai người thấy hắn giống như chưa uống đã say, còn bày đặt học theo Tào Tháo nói nữa chứ.
Phan Huy Dịch buồn cười đáp:
“Trương Phúc Nguyên, tay nắm trọng binh, kẹp Chúa Nguyễn, có tướng làm chư hầu.”


“Có tài nhưng tật nhiều hơn tài. Giỏi lo mà hẹp lòng, nắm binh quyền mà sợ mất ghế, lại sưu cao thuế nặng, làm sao xứng anh hùng?”
— Trần Minh nóc một chén nữa đáp.


“Thế chẳng lẽ Chúa Trịnh Hâm?” — Đặng Trần Tường cười cười.


“Ham mê hưởng lạc, tài mà thích xa hoa lãng phí, lại phế trưởng lập ấu, vài năm nữa ổng lên đường Bắc Hà loạn một bầy.” — Trần Minh nhắm mắt mà phán, không thua Tào Tháo.


Hai người nghe vậy ngưng trọng, nhìn nhau: “Hoàn toàn khớp.”
Chỉ có chưa phế trưởng lập ấu thôi, nhưng cũng sắp rồi — vị kia được sủng ái như vậy.
Hai người thở dài nhìn Trần Minh.


Tên này tuy ngả ngớn, bộ dạng du thủ du thực, không làm chuyện đàng hoàng,
nhưng nãy giờ hắn phán toàn đúng trọng tâm.


Nhất là khi hắn nói thẳng mục đích hai người, và đem lời nói đánh hai người trở tay không kịp.
“Mẹ nó, thanh niên Bình Định trâu như vậy sao?”


“Thế theo Trần thiếu gia ai mới là anh hùng?” — Phan Huy Dịch cầm chén rượu chắp tay mời hắn.
“Anh hùng thì có đó, nhưng chưa chui ra hang, tố chất có, bản lĩnh có, nhưng khổ nỗi không sống lâu. Haizz.”


Trần Minh thở dài nghĩ về Nguyễn Hoàng mà lắc đầu.
“Không biết Trần thiếu gia nói là vị nào ?” Trần Tường giơ chén rượu lên hỏi.


“Chưa nói cho hai huynh được, đợi vài tháng nữa đi.” Trần Minh nghĩ về phá thành Quy Nhơn nói.
Rượu qua nửa canh giờ sau.
Phan Huy Dịch nhìn Trần Minh mỉm cười nói:


“Theo ta thấy Trần thiếu gia cũng được coi là một anh hùng, nhìn thấu vạn vật, soi khắp thiên hạ, tài thơ xuất chúng.
Không biết có được coi là anh hùng ?”
Trần Minh nốc hết ly rượu đế say say chém gió:


“Ta, Trần Minh này sao xứng với hai chữ anh hùng, Trần Minh ta đời này sợ nhất là gì?
Thứ nhất sợ ch.ết, thứ hai sợ phiền, thứ ba… hức… sợ vợ.
Ta cũng muốn dân tộc… hức… thoát khỏi cảnh lầm than…


khổ nỗi phe địch tuy không mạnh, nhưng số lượng đông đảo quá… hức…
chẳng lẽ phải đồ sát hết thế gia, đại tộc toàn cõi Đại Nam này…hức.


Ta nghĩ lại rồi… cái thằng nói câu gì ta, à nhớ rồi ‘thà đóng cửa mà giữ đạo, còn hơn mở cửa mà mất nước’ — thằng đó… hức… nó không ngu, nó khôn bỏ mẹ ra…


Thế gia san sát nộp thuế cho nó, nó không nói vậy lấy ai đóng thuế cho nó…
“Bởi vậy thời nảy, dù có anh hùng, giả sử anh hùng không ch.ết, nhưng cũng không chống lại nổi số phận bị Nho giáo kiềm kẹp. He he.”


— Trần Minh phát biểu cảm nghĩ xong, bưng chén lên cạn sạch, nước mắt bắt đầu rơi trên má.


Hai người nghe Trần Minh nói mà run cả người, không biết hắn nói ai, nhưng nộp thuế cho chỉ đương kim thiên tử và Chúa, hắn đang chửi cả hai Chúa.
Cái này thuộc đại nghịch bất đạo rồi.


Lại còn đồ sát thế gia, chống lại Nho giáo — tên này trong đầu hắn đang nghĩ gì vậy?
Trần Minh tất nhiên không có say.
Hắn chỉ mượn rượu để cảnh tỉnh hai người này.


Rượu chỉ say với người muốn say, người không muốn say làm sao say.
Hắn chỉ tay về phía đông, trợn mắt nhìn hai người:
“Hai huynh biết không, cái đang đe doạ dân tộc này không phải Đại Kim.


Đại Kim bơi qua Đại Nam mình, dân một đao chặt ch.ết, không sợ.
Cái đáng sợ là cái đám mắt xanh mũi đỏ tóc vàng, đám Tây Dương đang chạy hàng buôn bán ngoài kia kìa.


Xưởng ta có, mọi thứ ta xây chúng nó có hàng ngàn.
Rồi cứ tiếp tục, mai này chúng nó thậm chí có chất lượng nhiều hơn ta.”
Hắn chỉ mấy cái bình thủy tinh trong phòng thí nghiệm nói:


“Thứ ta không có, chúng nó đều có.”
Trần Minh ngồi xuống như trút hết sức lực, lại nói:
“Đến một ngày nào đó, thứ chúng ta bán cho chúng không có giá trị,


hay thứ chúng ta tốn cả đống tiền để mua, nhưng với chúng cũng không có giá trị
— lúc đó chúng ta xong.
Đại Kim cũng xong, các nước xung quanh đây cũng xong luôn. Ha ha ha.”
Trần Minh khóc mà cười.


Tiếng cười bật ra — giòn, mà nghẹn.
Trần Minh cười như kẻ điên, đầu ngửa ra sau, rượu trào ra từ khóe miệng,
rồi hắn cúi gập người lại, hai tay che mặt — nước mắt rơi lã chã, hòa vào rượu.


Hai sĩ phu ngồi đối diện, im lặng hoàn toàn.
Gió thổi vào, rung mảnh rèm, ánh sáng run rẩy trên gò má Trần Minh.
Trong cái cười của hắn — là nỗi sợ hãi, bất lực,


và bi thương của một kẻ thấy trước tương lai mà không biết làm sao ngăn lại.
Để lại hai người kinh hoàng — chúng ta hình như mới biết được một việc còn quan trọng hơn loạn lạc ở đất nước này.


Bọn họ biết về Tây Dương, biết sức mạnh của bọn chúng, nhưng chưa bao giờ đặt bọn đấy ở trong lòng, vì trên lễ pháp Nho gia, người không phạm ta, ta không phạm người.
Nhưng có thật sự là như vậy sao ?


Chiếu theo lời Trần Minh nói,
nếu thứ ở Đại Nam đem bán cho bọn chúng không có giá trị — tức là chúng đã tự sản xuất được rẻ hơn chúng ta.


Thứ ta mua từ chúng nhưng đối với chúng vẫn vô giá trị — tức là thứ chúng ta không có chúng vẫn sản xuất được mà lại số lượng khổng lồ.


Đấy là lúc chúng sẽ không mua nữa mà sẽ là cướp, cướp nước, cướp quốc gia, cướp dân tộc, cướp văn hoá, cướp quyền làm người.


Hai người sắc mặt trắng bệch, trôi hết men say, nhìn Trần Minh giả say nhưng khóc thật, lòng cồn cào bỏ hết nhiệm vụ Chúa cử vào nam.


Chỉ còn quan tâm, liệu còn cách nào để cứu nước nữa không, hai người nhìn nhau, sau đó nhìn sang xưởng thép, từ nơi đó khói từ lò Bessemer bốc lên, như trả lời câu hỏi của hai người.


Rượu Sắt Giữa Thời Gió Lạnh
Rượu say chẳng phải vì men,
Người say vì thấy nỗi hèn nhân gian.
Thép chưa luyện kịp nên gan,
Mà nghe tiếng máy, tiếng than giữa đời.
Đàng ngoài gió thổi chơi vơi,


Đàng Trong mây xám, vẫn hoài binh đao.
Lòng người chìm đắm chiêm bao,
Trời giông bão tố, đã từ biển xa.
Cầm chén hỏi bóng trong đồng,
Trời cao có hiểu giấc nồng kẻ say?
Thấy xa mà chẳng thể thay,


Nhìn dân tộc nhỏ, tim này vụn ra.
Thế gian đúc sắt làm nhà,
Ta đúc giọt lệ — làm ra nhân tình.
Bọn Tây “mắt biếc mũi xanh”,
Mà gây ám ảnh u minh cõi người.
Rượu cay, thép nấu, đời vơi,


Anh hùng có thật — hay còn nặn ra?
Cười vang giữa buổi nắng rơi,
Nước mắt hòa rượu, trôi đời Trần Minh.






Truyện liên quan