Chương 32: CHỦ CÔNG



Gió cát thổi mang theo những hạt bụi rát cả khuôn mặt.
Mùi ẩm, mùi mặn của biển len qua từng thớ áo, khiến Trần Minh không khỏi lo lắng — thuốc súng có bị ẩm không.


Hắn cưỡi ngựa lại bên tên tiểu chỉ huy, Bùi Tý, hỏi nhanh:
“Thuốc súng có bảo quản như ta dặn không?”
Bùi Tý nghiêm trang đáp:
“Dạ có, thiếu gia.


Đạn và thuốc nổ hoả mai đều bọc trong giấy dầu, nhét vào túi vải da cho mỗi hộ viện.
Đạn pháo và thuốc thì lấy da trâu bọc lại, mưa gió đến cũng không lo.”


Trần Minh nghe vậy gật đầu một cái, cưỡi ngựa sang bên Trần Lâm.
Trần Lâm nhìn thằng nhóc cháu mình, chỉ muốn thở dài — ghét bỏ ra mặt.


Chỉ thấy Trần Minh ngực bọc giáp hình thù kỳ lạ, tay quấn giáp da, đùi cũng thế.
Đầu đội nón sắt nhọn, nhìn chẳng có chút thẩm mỹ nào.
Nếu biết Trần Lâm đang nghĩ gì, Trần Minh sẽ chỉ phì cười.


Bởi bộ giáp ấy — là áo chống đạn, giáp tay, giáp chân phong cách thế kỷ 21,


nón là kiểu Tây Âu thời Trung Cổ, nhưng hắn chế lại, cho nhọn đỉnh đầu một chút — cho hợp với Nho gia, vì người Á Đông để tóc dài.


Nhìn trang bị của Trần Minh, nguyên đám hộ viện đều xấu hổ không thôi, nói nhỏ với nhau:
“Thiếu gia nhà mình thật sợ ch.ết.”
Trần Minh nghe được, khinh miệt trong lòng, lười so đo với đám thiếu hiểu biết.


Hắn rút tờ danh sách mà Trần Tùng sáng nay đưa, lẩm nhẩm đọc:
“Dự trữ tồn kho 2.000 khẩu hoả mai, đã tính trang bị cho 1.000 hộ viện.
10 khẩu pháo, 1.000 đàn thuốc sát trùng…


Hộ viện 1.000 quân, theo quân 3.00 người, còn lại canh gác bảo vệ Trần thị và sản nghiệp.
240 quân cầm hoả mai, 35 người làm pháo thủ với 7 khẩu pháo, còn lại đều là hậu cần và quân y được đào tạo trong mấy tháng nay.”


Trần Lâm nghe xong cau mày:
“Ngươi dự trữ nhiều như vậy, chẳng lẽ bán cho Tây Sơn?”
Trần Minh nhếch mép:


“Trong thành đa số đám quân Nguyễn để lại toàn đồ cũ đời Tống, nào là hoả mai Bồ Đào Nha, Hà Lan, nòng to nòng nhỏ — bắn được là phúc tổ.
Chứ còn xui xui thì tạc nòng.


May mắn bắn được thì chưa tới 80 thước.
Để Tây Sơn cầm thứ đó ra chiến trường, Nguyễn Hoàng chỉ có khóc thét.”
Hắn bật cười, giọng tự tin:


“Con đang nâng cấp sản nghiệp theo dây chuyền. Ít nhất một tháng cũng đúc được tám trăm khẩu Trần thị hoả mai.
Chỉ cần lấy được Quy Nhơn, Nguyễn Hoàng cung cấp nguyên liệu đầu vào,


vũ khí Tây Sơn chúng ta thầu định, lúc đó tha hồ hốt bạc.
Tây Sơn được xài hàng chất lượng mà rẻ,
chúng ta vừa kiếm tiền, vừa tạo giá trị tồn tại — hai bên đều vui.”


Trần Lâm nghe mà nể thằng cháu này thật sự.
Nó tính trước hết rồi, thậm chí cả việc sau khi Tây Sơn lấy thành.
Ông chỉ thở ra, nói nhỏ:


“Lần này Tây Sơn huy động tầm một vạn quân, hơn bảy phần là nông dân.
Số còn lại mới là lính chính quy được trang bị tốt.
Trong đó chỉ có 500 khẩu hoả mai, pháo thì 25 đài.


Mười đài là Hồng Y đại pháo của Trần thị,
số còn lại, ngoại trừ 6 đài ngươi cải tiến Phật lăng cơ, toàn bộ đều là pháo nhỏ.”
Ông nói thêm, giọng lo lắng:


“Quân Nguyễn thủ thành là Nguyễn Phúc Hưng,
trấn thủ Bình Định mấy năm nay.
Lính trong thành huy động tầm một vạn quân, vũ khí không rõ, nhưng nghe nói có 800 súng hoả mai và hơn 40 khẩu pháo hồng y.”


Trần Minh khinh bỉ cười:
“Nghe thì nhiều, chứ toàn bọn ô hợp. Con không rành chiến lược, dượng là nghề binh cũng thấy.
Lính Trần thị ta dư sức diệt hết, vài đợt xạ kích đảm bảo chạy tứ tán.


Chưa nói lính chúng ta và Tây Sơn luyện có giáo trình, có phương pháp,
tiền đạn sắp nhiều như tiền mua súng.
Vả lại pháo ta — bắn phát nào chuẩn phát đó.


Ta đưa Nguyễn Hoàng 300 lính của chúng ta, cộng thêm 500 lính hoả mai của Trần Quang Nghĩa — đảm bảo một canh giờ phá thành.”
Trần Lâm nghe mà không phản bác.


Người trong nghề nói chuyện, ông hiểu ngay — chỉ cần 1.000 quân kiểu này, lính Chúa Nguyễn có bao nhiêu ch.ết bấy nhiêu.
Ông thở dài, như xoá tan phiền muộn.
Trần Minh vẫn tiếp tục nói, giọng trầm hơn:


“Cái con lo là hoạ từ phương Bắc, chỉ sợ Chúa Trịnh nhảy vào kiếm một chén canh.
Chưa nói Trương Phúc Nguyên cũng sẽ báo thù nữa.
Một lát để con gặp riêng nói chuyện với Nguyễn Hoàng.”


Sau hơn hai canh giờ hành quân, đoàn quân Trần thị và Tây Sơn cuối cùng cũng hội quân.
Hai bên hợp binh, cùng thẳng tiến về thành Quy Nhơn.
Nguyễn Hoàng nhìn quân Trần thị — tuy ít, nhưng trang bị chỉnh tề, khí thế áp đảo,


thậm chí còn mạnh hơn quân chính quy Tây Sơn,
liền đau răng không thôi.
Hắn bây giờ trong đầu chỉ nghĩ:
“Tiền… tiền… tiền.”
Nguyễn Hoàng đang nhức đầu thì thấy Trần Minh cưỡi ngựa tiến lại bên cạnh.


Nhìn thấy bộ trang phục tác chiến của hắn — áo giáp, nón sắt, găng da, dây lưng chằng chịt —
cả đám tướng sĩ Tây Sơn đều lúng túng, nhịn cười.
Có thằng còn thì thầm:
“Thật con mẹ nó… sợ ch.ết!”


Nguyễn Hoàng ho khụ khụ, nói:
“Ta tưởng Trần thị ngươi tính đặt cược hai bên,
ngươi tham gia chung như vậy, không sợ Chúa Nguyễn tính sổ à?”
Trần Minh cười khẩy, đáp trả:
“Ơ, vậy Trần thị ta lui về vậy,


ta sợ Tây Sơn tổn thất, có vẻ ta lo dư thừa rồi.”
Nguyễn Hoàng chửi bậy trong lòng — con mẹ nó, bị xỏ rồi.
Nhưng mặt ngoài vẫn phải cười hề hề:


“Làm gì có! Có hộ viện Trần thị, Tây Sơn như hổ thêm cánh.
Thiếu gia tộc trưởng anh minh sáng suốt, nhất cử vô song.”
Nghe vậy, Trần Minh trong lòng tê tê,


mũi vểnh lên trời — kiêu ngạo mà không giấu được nụ cười.
Hắn thầm nghĩ:
“Các ngươi ai được vua Quang Long vỗ mông ngựa như ta?”
Nguyễn Hoàng nhìn hắn mà ngán ngẩm.


Nhưng rồi hắn lại hỏi, nửa thật nửa đùa:
“Ngươi có cần trang bị dữ như vậy không?
Ngươi có trực tiếp lên chiến trường đâu.
Trang bị như thế… không tốt cho hình tượng tướng lãnh lắm.”


Hắn ho khụ khụ, nhìn đám hộ viện Trần thị đang đen mặt,
rồi nhìn đám quân Tây Sơn cố nhịn cười —
ngán ngẩm tên thiếu gia này hết nói nổi.

Trần Minh nghiêm giọng, hạ thấp tiếng —


giọng hắn nhỏ, nhưng lời khiến Nguyễn Hoàng vừa sợ, vừa cảm động.
“Chủ công, ngài nên lo việc sau khi đánh chiếm Quy Nhơn.
Ta sợ phương Bắc nhảy vào kiếm chén canh.
Ngày hôm qua, sau khi biết Quy Nhơn tăng binh,


thám báo từ Châu thị phía Bắc nói Chúa Trịnh có động tác.
Có thể chỉ là phòng ngừa, nhưng mưu sĩ Chúa Trịnh chưa chắc ăn chay.
Hắn thấy chúng ta hạ Quy Nhơn, rồi nam tiến Phú Yên,


chỉ sợ biết Quy Nhơn trống rỗng như bèo không rễ, chưa nói tên Trương Phúc Nguyên đó sau trận này chưa chắc sẽ để yên cho chúng ta.
Phú Xuân cũng ở phía bắc.
Lúc đó, công sức đổ biển là chuyện nhỏ —


nhưng diệt vong là chắc. Chủ công!”
Hai chữ “Chủ Công” vang lên,
Nguyễn Hoàng nhìn Trần Minh — cảm động thật sự.
Đây không phải câu nịnh, mà là sự thừa nhận.


Từ giờ, hắn biết người trước mặt không còn là thương nhân, mà là thuộc hạ, đồng hành.
Nguyễn Hoàng thở ra, rồi đáp:
“Ta cũng đang lo vấn đề này. Trần thị ngươi hiện giờ còn bao nhiêu binh mã?”


“Khoảng 1.000,” — Trần Minh đáp — “nhưng xuất quân chỉ có nhiêu đây thôi.”
Nguyễn Hoàng trầm ngâm một lát, rồi nói:


“Sau khi phá thành, Trần thị ngươi chiêu binh dưới danh Tây Sơn — khoảng 5.000 quân, toàn súng hoả mai, pháo ít nhất 50 khẩu.
Có thể dỡ hàng tồn của quân Nguyễn xuống mà cải tiến.
Tây Sơn hiện giờ tài chính còn eo hẹp.


Phá thành xong phải trang trải nhiều thứ.
Ngươi bán chịu cho Tây Sơn,
đổi lại, ta cho ngươi đặc quyền kinh tế và điều kiện làm ăn ở địa bàn Tây Sơn.
Như thế nào?


Lúc đó, Trần thị nuôi binh sẵn thủ ở mảng Bắc,
xong rồi gộp với Tây Sơn — theo ta nam tiến.”
Trần Minh gật đầu rất mạnh, chắp tay, giọng dõng dạc:
“Trần thị nguyện phò Chủ Công thành đại nghiệp.”






Truyện liên quan