Chương 47: HẠ QUÂN NAM TIẾN



Cách Quy Nhơn hai trăm dặm.
Con đường quan lộ đỏ au bùn đất sau cơn mưa, những cột cờ dựng san sát trong sương sớm.
Trên chiếc xe ngựa bọc da, Chúa Nguyễn Phúc Huân ngồi trong, mặt hồng hồng, quạt phe phẩy chiếc quạt giấy vẽ hoa sen.


Hắn ngước nhìn trời nắng rát, lẩm bẩm:
“Quốc phó… chừng nào mới về lại Phú Xuân? Ở đây nóng quá, cô không chịu nổi!”


Trên ngựa đi cạnh xe, Trương Phúc Nguyên cười nhạt, chắp tay sau lưng, giọng dẻo như mỡ:
“Bẩm Chúa, ngài ráng chịu vài hôm. Đợi hạ xong Quy Nhơn, trong đó có phủ nha, có ao nước, có cả hồ sen…


Đến khi ấy, thần sẽ để ngài ở đó mà tĩnh dưỡng.
Còn ta – sẽ nam tiến tiêu diệt sạch bọn phản loạn.”
Hắn nói nhẹ, mà trong lòng sôi lên như vạc dầu.


Càng gần Bình Định, hắn càng phiền não: ấu chúa thì ngu ngốc, tướng tá thì chẳng có ai làm hắn hài lòng.
Cả đám nhìn đâu cũng thấy hèn kém.


Nhưng nếu không có Nguyễn Phúc Hưng phản loạn, hắn đâu phải dắt quân lội bùn, ăn khói lửa thế này?


“Khởi bẩm Quốc phó,” – một tên lính truyền tin chạy đến, quỳ gối, – “còn hơn hai trăm dặm nữa là đến Bình Định.”


“Tìm chỗ dựng trại nghỉ ngơi, ngày mai tiếp tục khởi hành.” – Trương Phúc Nguyên ra lệnh, giọng khàn đặc.

Đêm buông.


Trại quân rực sáng hàng nghìn đuốc, ánh lửa phản chiếu lên những mũ giáp đồng đỏ.


Gió đêm mang theo hơi mặn của biển, hòa với mùi dầu sơn và thuốc súng khô – một thứ mùi khó chịu mà chỉ chiến trường mới có.
Trong đại trướng, Trương Phúc Nguyên ngồi giữa, quanh là tướng văn võ thân tín.


Phía tả, Tống Phúc Tông – Đô đốc thủy quân;
phía hữu, Tống Phúc Tuyên – tham tướng kiêm tổng chỉ huy, người được xem là “não bộ” thật sự của quân đội.


Phía sau, Nguyễn Khắc Huyên – thái giám tổng quản, quan văn đắc lực, tay cầm sổ ghi chép, mắt liếc nhanh như cáo.
Nhiêu đó đủ thấy Trương Phúc Nguyên hẹp hòi và đa nghi tới mức nào.


Đi đánh giặc mà chỉ đem thân tín, chẳng cho ai khác chen vào.
Hắn sợ người ta tranh công, sợ người khác nổi danh hơn mình — cái sợ của kẻ ngồi không vững trên ngai tạm.
Tống Phúc Tông bước ra, chắp tay:


“Bẩm Quốc phó, thủy quân chúng ta đã qua Quảng Nam, sắp tiếp cận Quy Nhơn.”
Tống Phúc Tuyên đứng dậy, chỉ lên bản đồ trải trên bàn gỗ lim, giọng dõng dạc:
“Thần đề nghị tấn công hai hướng:


Một là quân bộ — một vạn sáu ngàn quân — vượt sông Côn.


Hai là thủy quân — bốn ngàn người — đi theo cửa biển Thị Nại, vòng qua đầm Thị Nại, phối hợp đánh vào thành Quy Nhơn, vừa làm tiếp tế vừa chia lửa.”


Hắn dừng lại, cây bút chỉ bản đồ gõ nhẹ lên khúc sông uốn khúc, nơi dòng nước chảy thẳng ra biển.
“Đường vượt sông Côn, cần dựng cầu phao gỗ lim, trải sơn dầu chống thấm, cho xe pháo vượt.


Trận này sợ là có mưa ẩm, phải giữ thuốc khô, pháo phải che bạt kín, nếu không, e bắn chưa ra lửa đã tắt.”
Nguyễn Khắc Huyên gật gù, chen vào:


“Thần thấy Tuyên tướng quân nói chí lý. Dùng hai cánh quân ép phản tặc về thủ thành, một lưới hốt gọn, không cho chạy trốn.”
Nghe vậy, Trương Phúc Nguyên bực bội, mặt sạm lại.


Trong lòng hắn gào lên: “Mấy thằng này định dạy ta đánh giặc chắc?”
Hắn tự nhủ: “Không lẽ chúng quên ta là Quốc phó, là người cầm quyền sao?


Ta không nói thì thôi, nói ra cũng phải khiến chúng biết ai mới là chủ.”
Không khí trong trướng hơi chùng xuống.
Nguyễn Khắc Huyên liếc thấy sắc mặt Quốc phó, vội nở nụ cười nịnh, nói ngay:


“Nhưng… quyết định thế nào vẫn là ở Quốc phó.
Bọn thần chỉ dám đưa ra ý kiến thô thiển.
Mong ngài chỉ giáo.”
Tống Phúc Tông và Tống Phúc Tuyên hiểu ý, đồng thanh:


“Đúng vậy, xin Quốc phó định đoạt!”
Trương Phúc Nguyên hít sâu, lòng hả dạ đôi chút.
Hắn gật đầu, phất tay oai phong như một tướng tài:
“Tốt! Vậy thì cứ theo ý các ngươi đi.


Chia binh hai đường, đánh xuống Quy Nhơn.”
Hắn dằn tay lên bản đồ, ngón trỏ chọc thẳng vào hình thành Quy Nhơn đỏ lòm, giọng đắc thắng:
“Trận này, ta muốn thiên hạ biết, Tây Sơn chỉ là một lũ giặc cỏ!”


Cùng lúc ấy, trong lều ấu chúa Nguyễn Phúc Huân, đèn dầu cháy leo lét.
Ấu chúa vừa ngáp vừa đếm chuỗi tràng hạt bằng gỗ đàn hương, mắt lim dim.
Một thị vệ bước vào, khẽ cúi đầu, nói nhỏ:


“Bẩm Chúa… thần mang tin từ Gia Định.
Người của Nguyễn Phúc Hưng nhắn, đợi lúc đao binh hỗn loạn, sẽ có người sắp xếp đưa Chúa vào Nam.”
Nguyễn Phúc Huân mở mắt, ngơ ngác:


“Vào Nam à? Ở đó có mát không?”
Tên thị vệ cúi đầu, đáp nhẹ:
“Ở đó… không có Quốc phó.”
Câu nói ấy khiến không khí trong lều im bặt.


Ánh đèn dầu lay động, chiếu lên gương mặt ngây ngô của ấu Chúa – nửa như sợ, nửa như nhẹ nhõm.
Bên ngoài, tiếng gió thổi phần phật qua những lá cờ vàng.


Một bên, Trương Phúc Nguyên đang say sưa bàn kế đánh trận;
một bên, mật thám Nguyễn Phúc Hưng đang lo chuyện chạy trốn cho vua.
Lịch sử dù đã đổi, nhưng bóng đêm dường như vẫn biết cách thao túng.


Ấu Chúa Nguyễn vẫn sẽ chạy về Nam. Đại quân
Trương Phúc Nguyên – có lẽ – sẽ nằm lại dưới bùn Thị Nại.

Ngoài doanh trại, trời Bình Định nổi gió.


Mưa rả rích, lửa trại hắt ánh sáng lên vải lều, phản chiếu thành bóng người đang di chuyển.
Trong màn mưa, kẻ toan tính mưu quyền, người mưu đường sống.


Không ai biết rằng, chỉ vài ngày nữa thôi, sông Côn sẽ đỏ ngầu máu,
đầm Thị Nại sẽ nổ tung trong biển lửa.
Hạ nam tiến
Vân ám thiên nam khởi chiến phong,
Quyền thần tiếu lý kiếm quang phong.


Chu hoành Thị Nại triều thanh cấp,
Dạ vũ hoàn văn cổ thiết đồng.
Dịch nghĩa
Mây tối phương Nam nổi gió chinh,
Quyền thần cười, giấu lưỡi gươm tinh.
Thuyền qua Thị Nại – triều dâng gấp,


Mưa đêm còn vọng tiếng trống binh.






Truyện liên quan